THU HOẠCH VÀ BẢO QUẢN DỪA – ĐIỀU TRA KỸ THUẬT CANH TÁC DỪA LÙN TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH BẾN TR –
Việc thu hoạch từ trước đến giờ chỉ đơn thuần là dùng sào giật từng trái hoặc leo
hái. Tuy nhiên phương pháp này sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng trái, nhất là trái
được làm giống, việc bảo quản cũng ít được chú trọng. Chủ yếu là chất đóng trước nhà.
Ngày 25/10/2008, Hội đồng khoa học và công nghệ (KH&CN) chuyên nghành tỉnh
Bến Tre đã tổ chức nghiệm thu đề tài khoa học: “Hoàn thiện công nghệ bảo quản trái dừa
tươi uống nước phục vụ xuất khẩu”. Đề tài do thạc sĩ Trần Thị Yên Thảo và nhóm tác giả
của Viện nghiên cứu dầu và cây có dầu thuộc bộ Công Thương thực hiện. Từ những
nghiên cứu thí nghiệm, nhóm tác giả đã đưa ra quy trình công nghệ bảo quản trái dừa
tươi hiệu quả nhất. Thời gian thu hoạch trái dừa tươi được xác định và thời điểm 8 tháng
tuổi là tốt nhất cho công nghệ bảo quản. Trái dừa sau khi thu hoạch được xử lí bề mặt,
sau đó xử lí bằng hóa chất. Đối với dừa gọt vỏ, nhóm nghiên cứu đã sử dụng các hợp chất
Sulfit và Meta bisulfit natri, meta bisulfit kali và bislfit natri. Đối với trái dừa còn nguyên
vỏ chất bảo quản phù hợp là Hydroxit canxi (1%) và benzoat natri (0,5%).
Màng co POF thích hợp cho việc bảo quản gọt là 1 – 40C, đối với dừa nguyên vỏ là
80C sẽ bảo quản với thời gian là 6 tuần. Nhóm tá giả đã tính lợi nhuận từ dừa tươi xuất
khẩu sẽ tăng cao hơn 14 lần so với dừa tiêu thụ ở nội địa.
34
Chƣơng II: PHƢƠNG PHÁP VÀ PHƢƠNG TIỆN ĐIỀU TRA
1. PHƢƠNG TIỆN
Phương tiện điều tra bao gồm: phiếu điều tra, bút mực, xe máy.
Địa điểm điều tra: tại xã Phú An Hoà, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Phần mềm: Microsoft Word và Microsoft Excel.
2. PHƢƠNG PHÁP
Sử dụng phương pháp phỏng vấn trao đổi trực tiếp với hộ nông dân.
Lập phiếu điều tra: phiếu điều tra được lập xong sau hai lần họp nhóm và nhờ thầy góp
ý chỉnh sữa.
Ngày điều tra: 26/02/2014.
Nội dung điều tra: dựa vào phiếu điều tra đã lập sẵn trước đó.
Cách viết bài: nhóm tiến hành họp nhóm và phân công tìm tài liệu cho từng thành
viên. Sau đó, tổng hợp các phần tài liệu riêng lẻ thành một bài. Tiếp theo, tiến hành họp
nhóm để tự bắt lỗi và tự sửa lỗi để thành một bài lược khảo tài liệu hoàn chỉnh; xử lý số
liệu điều tra, thảo luận và viết bài.
Chƣơng III: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. ĐẶC ĐIỂM VƢỜN
1.1. Diện tích
Theo kết quả điều tra cho thấy, diện tích vườn của các hộ trồng cây dừa lùn tại
huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre biến động từ 1000 m2 đến 10000 m2. Diện tích nhỏ nhất
là 1000 m2 và lớn nhất là 10000 m2.
Bảng 3.1. Bảng tỷ lệ diện tích canh tác dừa lùn của các hộ dân tại huyện Châu Thành, tỉnh
Bến Tre (năm 2014).
Diện tích (m2) Số hộ Tỷ lệ (%)
<3000 4 40
3000 – 6000 5 50
>6000 1 10
Tổng cộng 10 100
Trung Bình 3950 ± 2722,85
Qua kết quả điều tra cũng như quan sát thực tế tại địa phương có thể nhận thấy
rằng, diện tích vườn của các nông hộ nơi đây còn khá nhỏ lẻ và không tập trung làm ảnh
hưởng đến việc đưa cơ giới hóa vào áp dụng trong vườn dừa lùn.
1.2. Tuổi cây
Qua kết quả điều tra cho thấy, tuổi vườn dừa lùn thấp nhất là 3 năm, cao nhất là 11
năm, trung bình 7,5 ± 2,5 năm. Tất cả các vườn điều đang trong thời kỳ cho trái.
Hình 3.1 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tuổi (năm) vƣờn dừa lùn của các hộ dân tại huyện Châu
Thành, tỉnh Bến Tre (năm 2014).
20%
70%
10%
Dưới 5 năm tuổi
Từ 5 – 10 năm tuổi
Trên 10 năm tuổi
36
1.3. Đất, hệ thống đê bao và cống bọng
Qua kết quả điều tra cho thấy, có 60% vườn dừa lùn nằm trên nền đất phù sa, 40%
còn lại là nằm trên nền đất phèn nhẹ. Nên việc xử lý đất liếp trước khi trồng dừa là cần
thiết, đặc biệt là đối với các vườn trên nền đất phèn.
Tất cả các vườn dừa lùn được điều tra đều nằm trong khu vực đê bao chung nên
không phải lo việc ngập úng vào mùa lũ cũng như thiếu nước tưới và mùa khô. Bên cạnh
đó, do hầu hết các vườn dừa lùn đều có diện tích nhỏ nên việc đặt cống bọng khá đơn
giản, có 90% vườn chỉ đặt 1 ống bọng cho toàn bộ vườn, 10% vườn đặt 2 ống bọng do có
diện tích khá lớn (10000 m2).
2. KỸ THUẬT CANH TÁC
2.1. Hệ thống mƣơng, liếp và mô, hố
2.1.1. Mƣơng
Qua kết quả điều tra cho thấy, chiều rộng mương vườn trồng dừa lùn ở huyện
Châu Thành, tỉnh Bến Tre dao động từ 5 – 7 m, trung bình là 6 ± 0,67 m. Trong đó, số
vườn có chiều rộng mương 6 m chiếm tỷ lệ cao nhất với 60%.
Bảng 3.2. Bảng tỷ lệ chiều rộng mƣơng vƣờn của các hộ trồng dừa lùn tại huyện Châu
Thành, tỉnh Bến Tre (năm 2014).
Chiều rộng mƣơng (m) Số hộ Tỷ lệ (%)
5 2 20
6 6 60
7 2 20
Tổng cộng 10 100
Trung Bình 6 ± 0,67
2.1.2. Liếp
Qua kết quả điều tra cho thấy, chiều rộng liếp trồng dừa lùn ở huyện Châu Thành,
tỉnh Bến Tre dao động từ 8 – 10 m, trung bình là 9,1 ± 0,57 m. Trong đó, số vườn có
chiều rộng mương 9 m chiếm tỷ lệ cao nhất với 70%.
Bảng 3.3. Bảng tỷ lệ chiều rộng liếp của các hộ trồng dừa lùn tại huyện Châu Thành, tỉnh
Bến Tre (năm 2014).
Chiều rộng liếp (m) Số hộ Tỷ lệ (%)
8 1 10
9 7 70
10 2 20
Tổng cộng 10 100
Trung Bình 9,1 ± 0,57
Tư hai kết quả trên (mương và liếp), ta có thể thấy kỹ thuật đào mương lên liếp
(100% theo kiểu cuốn chiếu) của các nhà vườn trồng dừa lùn ở huyện Châu Thành, tỉnh
Bến Tre khá tốt. Kích thước mương liếp phần lớn phù hợp với khuyến cáo của Sở khoa
học và công nghệ tỉnh Bến Tre (2009), dao động của chiều rộng mương là 6 – 7 m và của
liếp là 9 – 10 m.
Hình 3.2. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ hộ nông dân xử lý đất liếp trƣớc khi trồng dừa lùn tại huyện
Châu Thành, tỉnh Bến Tre (năm 2014).
Theo kết quả điều tra cho thấy, có 30% nhà vườn trồng dừa lùn không xử lý đất
liếp trước khi trồng cây con, 70% còn lại thì có xử lý đất liếp trước khi trồng cây con.
70%
30%
có xử lý
không xử lý
38
Bảng 3.4. Bảng phƣơng pháp xử lý đất liếp và tỷ lệ các hộ trồng dừa lùn xử lý đất liếp trƣớc
khi trồng tại huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre (năm 2014).
Phƣơng pháp xử lý Số hộ Tỷ lệ (%)
Không xử lý 3 30
Xử lý bằng vôi 1 10
Xử lý bằng phân lân 3 30
Xử lý bằng phơi nắng 3 30
2.1.3. Mô hố
Qua kết quả điều tra cho thấy, có 60% hộ nông dân thực hiện đắp mô với kích
thước cao x rộng là 60 – 70 cm x 90 – 100 cm bằng đất mặt liếp hay đất mặt ruộng; 40%
hộ còn lại thì thực hiện đào hố với kích thước sâu x rộng là 40 – 50 cm x 50 – 100 cm.
2.2. Kỹ thuật canh tác2.2.1. Bón lót
2.2.1. Bón lót
Qua kết quả điều tra cho thấy, có 50% các hộ được điều tra có thực hiện bón lót
trước khi trồng cây con với các loại phân như: lân (0,15 – 0,5 kg/cây), mụn sơ dừa (5 – 10
kg/cây), phân chuồng (1,5 – 5 kg/cây), DAP (0,05 – 0,1 kg/cây).
2.2.2. Chuẩn bị cây con
Theo kết quả điều tra, có 40% hộ trồng dừa lùn mua cây dừa con từ các trại giống
có uy tín về trồng với các tiêu chí: lá cây dừa con phải xanh điều, không sâu bệnh và phải
có độ đồng đều giữa các cây với nhau, 60% hộ còn lại thì tự ươm cây để trồng.
Chọn vườn, chọn cây và chọn trái giống: các nhà vườn tại huyện Châu
Thành, tỉnh Bến Tre chọn giống dừa lùn với tiêu chí là vườn có năng suất
cao trong 2 – 3 năm liên tiếp; cây cho trái giống phải khoẻ, không sâu bệnh
và cho nhiều trái; trái lấy làm giống phải tròn đều, không quá lớn hay quá
nhỏ và không quá già (trái vừa chuyển sang màu nâu vàng hay đỏ đều trái).
Cách xử lý và ươm trái: theo kết quả điều tra thì có 20% hộ xử lý trái bằng
cách vạt một phần đầu trái dừa, sau đó, đem vào nơi thoáng mát và tưới
nước thường xuyên cho tới khi trái dừa lên mộng. Trong khi đó, 40% hộ
khác thì ngâm dừa dưới nước khoảng 1 – 4 tuần, sau đó, đem đi ươm như
trên. Khi cây con được 7 – 9 tháng tuổi thì có thể đem trồng ra vườn.
2.2.3. Khoảng cách trồng
Theo kết quả điều tra ta có thể thấy, khoảng cách trồng dừa lùn của các hộ tại
huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre trung bình là 6,5 ± 1,9 x 6 ± 0,8 m. Khoảng cách trồng
này khá phù hợp với khuyến cáo là 6,5 – 7 x 6,5 – 7 m (Nguyễn Bảo Vệ và ctv., 2004) và
với điều kiện thổ nhưỡng tại đây.
2.2.4. Cây trồng xen
Qua kết quả điều tra cho thấy, có 60% hộ chỉ chuyên canh cây dừa lùn; 40% hộ thì
trồng đa canh với các loại cây khác như: chuối, mít, ca cao, bưởi. Việc trồng xen thêm
một loại cây khác trong vườn dừa giúp người dân tận dụng tối đa diện tích đất trồng.
Hình 3.3. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ mô hình canh tác của các hộ trồng dừa lùn tại huyện Châu
Thành, tỉnh Bến Tre (năm 2014).
2.2.5. Chăm sóc
Tưới nước: hầu hết các hộ nông dân trồng dừa lùn tại huyện Châu Thành,
tỉnh Bến Tre tưới nước cho cây dừa dựa vào tình hình thời tiết tại địa
phương. Vì thế, có sự khác nhau giữa mùa khô và mùa mưa, cũng như là
theo nhu cầu cần cung cấp nước của cây dừa vào từng giai đoạn phát triển
(cây con và trưởng thành). Nhưng nhìn chung, ở giai đoạn cây con thì trung
bình các hộ nông dân tưới 3 – 4 lần/tuần; giai đoạn cây trưởng thành thì chỉ
còn 1 – 2 lần/tuần.
Bón phân: nông dân tại huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre bón phân cho cây
dừa lùn với ba lần bón trong năm. Tuy nhiên, lượng phân sử dụng chưa đáp
ứng được nhu cầu sử dụng thực tế của cây dừa.
60%
40% chuyên canh
40
Bảng 3.5. Liều lƣợng phân hóa học trung bình đƣợc các hộ nông dân sử dụng cho cây dừa
lùn tại huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre (năm 2014).
Năm tuổi
Lƣợng phân bón (g/cây/năm)
N P2O5 K2O
1
87,26
± 88,20
65,34
± 66,28
23,13
± 30,68
2
89,85
± 85,26
79,40
± 61,06
28,50
± 32,18
3
77,65
± 87,10
63,40
± 64,21
25,65
± 27,48
Cho trái
451,24
± 283,00
442,20
± 258,49
332,10
± 284,18
Từ kết quả điều tra ta có thể thấy, lượng phân hoá học được các hộ nông dân tại
huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre bón cho cây dừa lùn không phù hợp với khuyến cáo của
Sở khoa học và công nghệ tỉnh Bến Tre (2009), cụ thể như sau:
Trong năm thứ nhất: lượng P2O5 được các hộ nông dân sử dụng hợp lý;
lượng N thì vượt quá lượng khuyến cáo 1,26 lần; lượng K2O thì thấp hơn
lượng khuyến cáo 7,78 lần.
Trong năm thứ hai: lượng N được các hộ nông dân sử dụng hợp lý; lượng
P2O5 thì được các hộ nông dân sử dụng quá nhiều trong khi đó thì không
cần thiết bón vào năm này; lượng K2O thì thấp hơn khuyến cáo 8,42 lần.
Trong năm thứ ba: lượng N lại thấp hơn khuyến cáo 1,78 lần; lượng P2O5
thì thấp hơn khuyến cáo 2,01 lần; lượng K2O cũng thấp hơn khuyến cáo
11,70 lần.
Khi cây cho trái: lượng N cao hơn khuyến cáo 1,23 lần; lượng P2O5 cũng
cao hơn khuyến cáo 2,76 lần; lượng K2O thì lại thấp hơn khuyến cáo 1,45
lần.
2.2.6. Phân bón cây trồng xen
Đối với cây trồng xen các nông hộ chưa thực sự quan tâm và đầu tư nhiều, chủ
yếu tập trung vào chuyên canh cây dừa. Nên cây trồng xen nhận dinh dưỡng từ nguồn
phân bón cho dừa
2.2.7. Quản lý cỏ
Theo kết quả điều tra, có 40% hộ nông dân để cỏ trong vườn dừa vào mùa khô và
làm sạch vào mùa mưa, 60% hộ còn lại thì không để cỏ.
2.2.8. Bồi liếp
Kết quả điều tra cho thấy, tất cả các hộ nông dân đều tiến hành bồi liếp cho vườn
dừa 1 lần/năm với chiều dày lớp bùn bồi 2 – 3 cm. Thời điểm bồi có khác nhau giữa các
hộ, có 70% hộ bồi liếp vào đầu mùa khô, 30% hộ bồi vào đầu mùa mưa. Tuy nhiên, việc
bồi liếp vào mùa mưa sẽ là giảm tác dụng của lớp bùn vì bị rữa trôi bởi nước mưa.
2.2.9. Vệ sinh vƣờn
Tất cả các hộ được điều tra đều thực hiện vệ sinh vườn dừa lùn của mình, với 30%
hộ được thực hiện theo thời gian rảnh và 70% hộ thực hiện vào đầu mùa mưa (tháng 3 –
4 âm lịch) sau khi thu hoạch.
2.2.10. Sâu bệnh
Qua điều tra cho thấy cây dừa là loại cây khá dễ chăm sóc, ít bệnh hại. Tuy nhiên,
trên cây dừa có một số loại côn trùng gây hại như: bọ dừa, kiến vương, đuông dừa, sâu
nái và ong. Trong số các loài côn trùng gây hại trên thì bọ dừa là đối tượng gây hại
nghiêm trọng nhất, chỉ có phòng bằng cách phun các loại thuốc hoá học từ khi cây còn
nhỏ là biện pháp ngăn chặn loài này phá hại tốt nhất.
Ngoài ra, trên cây dàu còn xuất hiện các hiện tượng bất thường khác:
“Dừa treo”: có 50% hộ được điều tra có xuất hiện hiện tượng “dừa treo”
kiểu mo thui và rụng trái non. Hiện tượng này xảy ra vào mùa khô và kéo
dài một tháng. Nguyên nhân chủ yếu là do nắng nhiều là khô mo không
bung ra được và làm rụng trái non do quá nóng. Cách phòng tránh hiện
tượng này của nông dân chủ yếu là đảm bảo đầy đủ nước cho cây dừa đầy
đủ vào mùa khô và bón phân cân đối.
Rụng trái non: qua điều tra, có tới 80% vườn dừa có hiện tượng rụng trái
non và xảy ra quanh năm. Nguyên nhân chủ yếu là do thời tiết quá nóng,
thiếu nước hay quá lạnh, thừa nước và do côn trùng gây hại.
2.2.11. Thu hoạch
Thời gian và cách thu hoạch: qua điều tra cho thấy cây dừa lùn cho thu
hoạch quanh năm, mỗi lần cách nhau 25 – 30 ngày, và người nông dân thu
42
Năng suất, đầu từ và lợi nhuận: qua kết quả điều tra cho thấy, trong số các
hộ được điều tra có 40% họ thực hiện mô hình đa canh các loại cây khác
với cây dừa. Tuy nhiên, thu nhập chính của họ vẫn là cây dừa, vì họ chỉ đa
canh với mục đích chính là tránh lãng phí đất vườn, có thêm các loại trái
cây khác và chỉ góp 1 phần nhỏ vào lợi nhuận của họ. Do đó, cây dừa là
cây chính trong phần hoạch toán này.
Trung bình mỗi cây dừa cho 125 trái/năm, với mật độ trồng trung bình là 30
cây/1000 m2, và giá bán trung bình là 7400 đồng/trái sẽ thu được
27.750.000 đồng/1000 m2/năm. Trừ tất cả các chi phí như: phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật, nhiêu liệu tưới nước, công lao động,… là 5.000.000
đồng/1000 m2/năm thì sẽ còn lại 22.750.000 đồng/1000 m2/năm.
Chƣơng IV: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1.KẾT LUẬN
Qua kết quả điều tra chúng tôi nhận thấy, đa số mật độ trồng của các nông hộ còn
tương đối khá cao so với những khuyến cáo. Việc đầu tư chăm sóc cho cây dừa còn hạn
chế nhất là vấn đề bón phân chưa được xem trọng, về lâu sẽ ảnh hưởng năng suất dừa
cũng nhưng sẽ gặp phải những vấn đề về sâu bệnh hại dừa. Bên cạnh đó, nông dân chưa
tận dụng hết khoảng diện tích đất trống trong các vườn dừa để tân thêm thu nhập bằng
các mô hình trồng xen các loại cây ngắn ngày khác, nông dân chủ yếu tập trung vào mô
hình chuyên canh.
Một số kết quả tích cực chúng tôi nhận thấy từ các nhà vườn qua kết quả điều tra,
là việc nông dân có quan tâm đến vấn đề sản xuất cây trồng giống cho đạt chất lượng gần
đạt được những yêu cầu cơ bản trong sản xuất giống dừa trồng. Việc dọn sạch vườn sau
khi thu hoạch cũng được nông dân quan tâm và thực hiện tốt, bồi liếp và bồi gốc cũng