Thách thức từ những vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc | Tạp chí Tuyên giáo

(TG) – An ninh phi truyền thống đang trở thành một trong những mối thách thức gay gắt nhất, không thể coi nhẹ, là vấn đề cấp thiết đối với mọi quốc gia. Thách thức an ninh phi truyền thống được biểu hiện ở nhiều mặt, trong đó thách thức từ vấn đề xã hội có ảnh hưởng sâu rộng đến sự tồn tại và phát triển của đất nước, đặc biệt là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở nước ta.

AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG, VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC

An ninh phi truyền thống “là một loại hình an ninh xuyên quốc gia do những yếu tố phi chính trị và phi quân sự gây ra, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, phát triển và an ninh của mỗi nước, cả khu vực và toàn cầu”(1). An ninh phi truyền thống ngày càng có biểu hiện sâu đậm trong đời sống quốc tế và trở thành vấn đề toàn cầu, tác động đến mọi quốc gia với những vấn đề như: biến đổi khí hậu toàn cầu, di cư bất hợp pháp, tội phạm công nghệ cao và các vấn đề liên quan đến an ninh kinh tế, tài chính tiền tệ, dân tộc, tôn giáo, chủ nghĩa khủng bố…

Những thách thức an ninh phi truyền thống ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu liên quan đến các vấn đề: an ninh kinh tế, an ninh xã hội, an ninh nội bộ, an ninh biến đổi khí hậu toàn cầu, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh văn hóa, an ninh dịch bệnh… Trong đó, những nội dung về an ninh kinh tế (tội phạm, tham nhũng, tiêu cực), an ninh xã hội (mâu thuẫn, xung đột xã hội, dân tộc, tôn giáo, chênh lệch giàu nghèo và trình độ phát triển giữa các vùng miền…), an ninh nội bộ (suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên), an ninh văn hóa (sự xuống cấp của đạo đức, lối sống, môi trưởng văn hóa, xâm lăng văn hóa, phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc) liên quan trực tiếp, liên hệ chặt chẽ đến thách thức từ vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Vấn đề xã hội được hiểu “là những vấn đề xuất hiện từ các quan hệ xã hội có tác động, ảnh hưởng hoặc đe dọa đến sự phát triển bình thường cũng như quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, của cộng đồng người, đòi hỏi xã hội phải có những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hoặc giải quyết theo hướng có lợi cho sự tồn tại, phát triển bền vững của cộng đồng”(2).

Ở nước ta, “Các vấn đề xã hội gây áp lực lớn đến phát triển kinh tế – xã hội, như già hóa dân số, chênh lệch giàu nghèo và trình độ phát triển. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn ngày càng nhanh với cường độ mạnh, khó lường, đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19”(3). Đảng ta cũng đã chỉ ra những hạn chế, bất cập gây bức xúc trong nhân dân từ vấn đề xã hội, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hạn chế, bất cập về văn hóa, môi trường văn hóa…

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là thuật ngữ chỉ sắc thái, vẻ đẹp và tính chất đặc biệt, cái riêng để phân biệt với những nước trên thế giới, là cái gốc của nền văn hóa, những đặc trưng không thể trộn lẫn trong cội nguồn văn hóa dân tộc Việt Nam; bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp trong lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, hình thành qua nhiều thế hệ, nấc thang biến đổi, phát triển. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hành động, việc làm hướng tới mục tiêu bảo vệ, gìn giữ những nét đặc trưng, tài sản vô giá của dân tộc. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu, khách quan, bên cạnh những thách thức đặt ra thì quá trình hội nhập cũng tạo điều kiện cho nước ta mở rộng giao lưu giữa các nền văn hóa, sáng tạo ra giá trị mới, trực tiếp bổ sung, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời kiểm chứng tính bền vững của giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao vị thế của đất nước.

Vũ điệu Tây Nguyên. Ảnh: Hà Hữu Nết

Vũ điệu Tây Nguyên. Ảnh: Hà Hữu Nết

THÁCH THỨC TỪ VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ GIỮ GÌN BẲN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY

Vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Với góc độ tiếp cận thách thức từ vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một biểu hiện của thách thức an ninh phi truyền thống, có thể khái quát trên các nội dung sau:

Thứ nhất, thách thức từ thực trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Đây là một trong những nguy cơ, thách thức lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng. Các văn kiện, nghị quyết của Đảng qua các kỳ Đại hội gần đây đã khẳng định tình trạng này diễn ra nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như các mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp”(4).

Cốt lõi trong giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc ta là yêu nước, trách nhiệm với cộng đồng, đặc biệt là khát vọng vươn lên xây dựng đất nước hùng cường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, con người Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, truyền thống ấy là trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã đi ngược lại, cản trở khát vọng đó của nhân dân ta.

Tham nhũng có nguồn gốc sâu xa từ bên trong con người, xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân và lề lối làm việc quan liêu, độc đoán, xa rời quần chúng của cán bộ, đảng viên. Các hành vi, biểu hiện tiêu cực là nguyên nhân, điều kiện tham nhũng đã được Đảng, Nhà nước ta nhận diện khá rõ trong các quy định về những điều đảng viên không được làm, quy định về kỷ luật đảng viên, các quy định về kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và quy định của pháp luật hành chính, hình sự.

Đảng ta cũng chỉ ra những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong đó, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút ý chí chiến đấu; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tất yếu dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Quá trình này diễn ra nhanh chóng, nó chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc kết cấu với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Tham nhũng, tiêu cực, những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không những làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng, làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ mà còn cản trở, nguy hại to lớn đến giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở nước ta hiện nay.

Thứ hai, thách thức từ sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội.

Đây là một trong những vấn đề xã hội gây bức xúc trong nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Đạo đức, lối sống trong gia đình, học đường, xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, gây bức xúc cho xã hội”(5), “Môi trường văn hóa có những mặt chưa thực sự lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hóa dân tộc”(6), “Tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội… ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân”(7).

Thời gian gần đây đã xảy ra nhiều vụ việc gây bức xúc dư luận, thể hiện sự xuống cấp về đạo đức và văn hóa. Báo cáo thường niên của Chính phủ về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy tỷ lệ phá án hình sự đạt cao hơn 85%/năm, tuy nhiên tình hình tội phạm vẫn diễn biễn phức tạp, tổng số vụ vi phạm hình sự, trong đó có tội phạm về trật tự xã hội, quản lý kinh tế, môi trường và ma túy vẫn ở mức cao. Tính phức tạp của tội phạm thể hiện ở chỗ, tổng số vụ vi phạm có xu hướng giảm nhưng một số loại tội phạm lại tăng, hành vi thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi… Những biểu hiện đó đã làm gia tăng mâu thuẫn, xung đột xã hội ở nước ta hiện nay, trái với truyền thống đoàn kết, gắn bó, nhân ái của dân tộc. Những xung đột trong lĩnh vực xã hội thường xảy ra giữa các cá nhân, nhóm dân cư, nhóm xã hội với các cơ quan thực thi chính sách, pháp luật ở địa phương; các xung đột xã hội trong lĩnh vực văn hóa diễn ra ngày càng phức tạp, trong đó có những vấn đề liên quan đến lễ hội, di tích lịch sử văn hóa, cơ sở thờ tự tín ngưỡng, tôn giáo…

Sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội ở nước ta nhìn chung vẫn chậm được khắc phục, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định, phát triển của đất nước và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong tình hình mới.

Thứ ba, thách thức của sự “xâm lăng văn hóa”, phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà thâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Về mặt văn hóa, mỗi quốc gia phải đứng trước và luôn luôn phải xử lý mâu thuẫn giữa toàn cầu hóa có xu hướng mạnh, tạo ra các giá trị phổ quát chung với bản sắc văn hóa riêng, độc đáo của dân tộc.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin, nền kinh tế số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Một số nước lớn lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để tìm cách truyền bá, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa”, làm phai nhạt các giá trị truyền thống của các dân tộc khác. Nhiều nội dung phản giá trị, phản văn hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng xâm nhập, làm biến dạng các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống. Đây là một nguy cơ đang hiển hiện và ngày một gia tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác động tiêu cực của nó tới thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang gặp những thách thức về việc phai nhạt, đánh mất bản sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống của dân tộc. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí. Môi trường văn hóa vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn. Nhiều di sản văn hóa quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong…

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Để phòng ngừa và ứng phó với thách thức từ những vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở nước ta hiện nay, cần thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó tập trung vào những nội dung sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho toàn xã hội.

Trong hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về những thách thức cũng như phòng ngừa và ứng phó thách thức từ vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cần đặc biệt chú ý các nội dung như: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng… không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(8), “Tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(9), “Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội”(10), “Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm; kiềm chế gia tăng tội phạm và tai nạn giao thông nghiêm trọng”(11), “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế”(12). Đối với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta tập trung vào những nội dung có tính “cốt tử” là: “Khơi dậy tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, ý chí tự cường, tự hào dân tộc và khát vọng vươn lên. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa. Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu”(13).

Trên cơ sở các quan điểm của Đảng cần làm cho cả hệ thống chính trị, các chủ thể và toàn thể nhân dân nhận thức đầy đủ các thách thức, tác động, ảnh hưởng của an ninh phi truyền thống nói chung, thách thức từ vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng đối với đời sống con người, cộng đồng và an ninh quốc gia. Từ đó, mỗi chủ thể định hình tâm thế, chủ động phòng ngừa và ứng phó có hiệu quả. Đây là nhiệm vụ rất cơ bản, được thực hiện bằng cách nâng cao nhận thức và trách nhiệm của từng cá nhân và cộng đồng xã hội, thông qua những hành vi cụ thể trong đời sống hằng ngày. Trên nền tảng ý thức được nâng cao mới có thể ứng phó có hiệu quả với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống bằng xây dựng đồng bộ thể chế, cơ chế, chính sách, bộ máy và con người cụ thể.

Hai là, thực hiện chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả các mối kết hợp trong phòng ngừa và ứng phó với thách thức.

Các mối kết hợp bao gồm: 1) Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, hiện thực hóa ngày càng rõ hơn bản chất ưu việt của chế độ XHCN ở nước ta. 2) Kết hợp giữa xây và chống. Xây dựng đất nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam yêu nước, tiến bộ… Chống các quan điểm, tư tưởng, hành động cản trở, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trong đó có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. 3) Kết hợp giữa bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc với phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là khai thác các di tích, danh lam thắng cảnh, gắn với các giá trị văn hóa phi vật thể để phát triển du lịch. 4) Kết hợp chặt chẽ giữa giữ gìn, phát huy, bổ sung những giá trị mới của văn hóa, con người Việt Nam với từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu, các hiện tượng mê tín dị đoan, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi, chống phá Đảng, Nhà nước và con đường đi lên CNXH ở nước ta. 5) Kết hợp giữa mở rộng giao lưu văn hóa với bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa quảng bá, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. 6) Kết hợp tuyên truyền, nhân rộng gương tốt, việc tốt với nhận diện, lên án, đấu tranh, xử lý nghiêm minh nhưng cái sai, cái xấu, lạc hậu. 7) Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy nội lực là chính, tranh thủ tối đa ngoại lực để phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Ba là, chủ động, tích cực phòng ngừa và ứng phó với thách thức.

Chủ động và tích cực đầu tư phát triển bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hệ thống giải pháp, biện pháp phòng ngừa và ứng phó với thách thức từ những vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc phải được tích hợp vào từng chiến lược, chương trình, kế hoạch và dự án phát triển. Quan trọng nhất vẫn là bảo đảm gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; kiểm soát phân tầng xã hội; tích cực xóa đói, giảm nghèo, chăm lo cho con người thông qua hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt hỗ trợ lẫn nhau để bảo đảm cho con người luôn được có môi trường và điều kiện phát triển lành mạnh.

Đẩy mạnh giao lưu nhân dân, sử dụng các công cụ văn hóa và thông tin đối ngoại trong quan hệ quốc tế... Ảnh: TCCS

Đẩy mạnh giao lưu nhân dân, sử dụng các công cụ văn hóa và thông tin đối ngoại trong quan hệ quốc tế… Ảnh: TCCS

Phân loại từng vấn đề xã hội, các nội dung của văn hóa với đặc điểm khác nhau để xác định những cơ chế, phương thức quản trị phù hợp. Đặc biệt, đối với các thách thức phát sinh từ mặt trái của toàn cầu hóa, tính chủ động, tích cực thể hiện ở thúc đẩy hợp tác quốc tế để phòng ngừa và ứng phó ngay từ chính quốc gia có thể phát sinh và lan truyền các thách thức đó. Chủ động, tích cực xây dựng đội ngũ chuyên gia tinh nhuệ, đủ năng lực phòng ngừa và ứng phó hiệu quả với những thách thức phát sinh từ mặt trái của khoa học công nghệ.

Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, tương thích với pháp luật quốc tế về phòng ngừa và ứng phó với thách thức an ninh phi truyền thống nói chung, về những vấn đề xã hội và văn hóa nói riêng. Đây là cơ sở pháp luật tạo thuận lợi cho các nước cùng phối hợp phòng ngừa và đấu tranh, thực hiện tương trợ tư pháp. Chúng ta cần phát huy tính chủ động trên cả mặt hợp tác và đấu tranh trong cả quan hệ song phương và đa phương trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc và chia sẻ mối quan tâm chung với các nước khác về những vấn đề mang tính toàn cầu.

Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xử lý các vấn đề dân tộc và tôn giáo một cách khéo léo, giải tỏa các xung đột xã hội phù hợp, phòng ngừa và ngăn chặn khả năng chuyển hóa của xung đột. Quán triệt và thực hiện đầy đủ tư tưởng đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc đi đôi với đấu tranh với các biểu hiện chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện chủ nghĩa ly khai. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân phải đi đôi với đấu tranh với các biểu hiện lợi dụng tôn giáo với mục đích phi tôn giáo.

Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong phòng ngừa và ứng phó với thách thức.

Nhân tố có ý nghĩa quyết định là giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo Đảng. Đảng lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó phải quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội và giữ gìn, phát huy văn hóa, con người Việt Nam trong tình hình mới.

Tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về phòng ngừa và ứng phó với thách thức từ những vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở nước ta hiện nay, từ xây dựng hệ thống thể chế đến tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức và chế độ công vụ chuyên nghiệp. Xây dựng lực lượng chuyên ngành quản lý trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục những chồng chéo trong quản lý. Sớm luật hóa các chức năng chuyên ngành quản lý an ninh phi truyền thống để có cơ sở cho xây dựng bộ máy, đội ngũ, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và phát triển một cách chuyên nghiệp. Lực lượng chuyên trách phải được đào tạo một cách cơ bản; được tập huấn thường xuyên. Không ngừng hoàn thiện chế độ, chính sách để đội ngũ cán bộ, công chức an tâm công tác, giữ vững liêm chính.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội và nhân dân trong phòng ngừa và ứng phó với thách thức từ những vấn đề xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở nước ta hiện nay. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, đồng thời xây dựng cơ chế để người dân tham gia ứng phó một cách tự giác, chủ động, trách nhiệm./.

Thượng tá, ThS. NGUYỄN NGỌC HƯƠNG 
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

__________________

(1) Phùng Hữu Phú, Nguyễn Văn Đặng, Nguyễn Viết Thông (Đồng Chủ biên): Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.15.

(2) PGS. TS. Võ Văn Đức – TS. Định Ngọc Giang: Một số vấn đề kinh tế – xã hội nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa đô thị hoá ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2012, tr.26.

(3) (5) (6) (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.92, 72, 72, 135.

(4) (7) (8) (9) (10) (11) (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.108, 84, 33, 41, 143, 153, 47.