Tạp chí Dân vận số 7/2019 | Ban Dân vận Trung ương

Ở nước ta hiện nay cũng đang trong quá trình của những tác động đó, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm nhiều hơn nữa đến chiến lược phát triển con người. Những vấn đề xã hội được tập trung quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội như: dân số và phát triển nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động, việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo bình đẳng về cơ hội để người dân thụ hưởng phúc lợi xã hội và bảo đảm an sinh xã hội.

Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu – nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững. Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý…”.

Qua gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội góp phần quan trọng bảo đảm ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát triển nhanh, bền vững. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Tuy nhiên, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về suy thoái kinh tế toàn cầu, về những vấn đề nảy sinh mới của kinh tế thị trường, về chiến tranh thương mại Mỹ – Trung… và những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế, những yếu kém trong lãnh đạo, quản lý; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề; nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ngày càng cao đã tác động trực tiếp đến việc phát triển việc làm bền vững, nâng cao thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, nhất là người về hưu, người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, người yếu thế và người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Hơn nữa, Việt Nam cũng đang phải đối mặt nhiều vấn đề phức tạp như chênh lệch về mức sống gia tăng, nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo đô thị và di cư tự do, chất lượng nguồn nhân lực còn rất hạn chế và việc bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển mới của đất nước. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải đặt vấn đề về quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là nội dung tất yếu của quá trình đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước trong tình hình mới.

Về phương diện lý luận và nguyên tắc để phát triển xã hội được thể hiện qua việc xây dựng và thực thi các chính sách xã hội. Còn quản lý phát triển xã hội là những hoạt động bảo đảm cho xã hội phát triển theo đúng quy luật của nó và phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản, đó là: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, để xã hội hoạt động có kỷ cương và các tổ chức xã hội thực hiện, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua hoạt động giám sát việc thực thi pháp luật và nhân dân thượng tôn pháp luật.

Để thực hiện được những yêu cầu đó phải giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa quản lý phát triển xã hội, bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng xã hội trong quá trình phát triển của đất nước. Đây là vấn đề rất phức tạp, đan xen nhiều mối quan hệ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xét về nội dung, bản chất của quản lý phát triển xã hội là phải thật sự bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi nhân dân là chủ thể phát triển của xã hội và quyền làm chủ đó phải được tôn trọng và bảo vệ. Gia đình là tế bào của xã hội phải hòa thuận, cộng đồng hài hòa; môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội được cống hiến và hưởng thụ thành quả của sự phát triển, tiến bộ. Chính vì vậy, mục tiêu quản lý phát triển xã hội là phải thể hiện được tinh thần tự đổi mới, tự hoàn thiện, củng cố, phát triển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cần nghiên cứu, dự báo sự biến đổi về cơ cấu, các giai tầng trong xã hội để điều chỉnh; tạo sự đồng thuận xã hội thông qua giải pháp tiếp xúc, đối thoại, thương lượng, truyền thông; dân chủ hóa; tăng cường kỷ cương pháp luật và đề cao trách nhiệm của nhân dân là chủ thể phát triển xã hội trong thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Để giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong những năm tới, cần quan tâm thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

Một là, ngày 01/4/2019, tiến hành Tổng điều tra dân số và nhà ở trên phạm vi toàn quốc, cần phải phân tích thông tin chung về dân số, tình trạng di cư, hôn nhân, mức độ sinh – chết và phát triển dân số, tình trạng lao động, việc làm, tình trạng về nhà ở… gắn với việc đánh giá chính xác thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội, sự phân tầng xã hội của nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp thực hiện quản lý phát triển xã hội có hiệu quả; giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phân hóa giàu nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững nhằm khắc phục từng bước sự mất cân đối về cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề, giàu nghèo; kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội để bảo đảm mọi người dân đều được tự do, bình đẳng về cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, tạo hành lang pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội hiện đại với các chức năng, trụ cột chính là: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro.

Ở nước ta, các trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh xã hội đã được định hình là: Nhóm chính sách phòng ngừa rủi ro, bao gồm các chính sách hỗ trợ tạo việc làm và tự tạo việc làm với mức thu nhập không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Nhóm chính sách giảm thiểu rủi ro bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và chính sách giảm nghèo bền vững nhằm bảo đảm nguồn tài chính thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị suy giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết; đồng thời, mục tiêu giảm nghèo bền vững chuyển sang chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường đa chiều hướng vào nhóm khó khăn nhất, địa bàn nghèo nhất và hỗ trợ dựa trên xác định nguyên nhân nghèo của từng hộ gia đình, từng địa bàn cụ thể. Nhóm chính sách khắc phục rủi ro, bao gồm các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất nhằm hỗ trợ nhóm đối tượng gặp khó khăn trong cuộc sống, tiếp cận được các dịch vụ xã hội thiết yếu như: chăm sóc y tế cơ bản, nước sinh hoạt hợp vệ sinh, nhà ở, giáo dục cơ bản và các dịch vụ xã hội cơ bản khác liên quan đến cuộc sống hàng ngày của mỗi con người, mỗi gia đình và cộng đồng xã hội.

Hai là, để đáp ứng những yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cùng với thị trường lao động sẽ có nhiều biến động, chất lượng cung và cầu lao động có tri thức và kỹ năng hiện đại cũng như cơ cấu lao động cũng thay đổi mạnh mẽ. Đồng thời với việc thay đổi của thị trường lao động là nhiều lĩnh vực công nghệ được tự động hoá thay thế con người sẽ xuất hiện tình trạng thất nghiệp hàng loạt ở tất cả các thị trường lao động, trong đó có Việt Nam, lúc bấy giờ người lao động chắc chắn phải cố gắng tìm mọi cách để thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất, nếu không sẽ bị đào thải khỏi thị trường lao động. Do đó, chúng ta phải có chính sách quốc gia về phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng cho phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Cần chú trọng thực hiện đổi mới toàn diện giáo dục, đào tạo, đáp ứng mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam có phẩm chất và năng lực sáng tạo, sẽ tác động mạnh đến sự phát triển xã hội.

Ba là, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là phải gắn kết chặt chẽ giữa chính sách tăng trưởng kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm cho nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới và xây dựng CNXH. Thực hiện các cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo cơ hội để mọi người được học tập, học nghề, có việc làm và được hưởng tiền lương, thu nhập hợp lý, thỏa đáng; bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; chế độ nghỉ ngơi để đủ điều kiện tái sản xuất mở rộng sức lao động. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng, khuyến khích đầu tư xã hội để tạo mở ra nhiều việc làm.

Cải cách hệ thống chính sách về tiền lương trong đó tiến tới thực hiện mục tiêu tiền lương cơ sở, tiền lương tối thiểu vùng đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động; gắn điều chỉnh tiền lương tối thiểu với tăng năng suất lao động, năng lực cạnh tranh; đổi mới căn bản, toàn diện chính sách dạy nghề để đạt được “Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%”. Nhà nước phải có chính sách, cơ chế và giải pháp tích cực, hiệu quả để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, phấn đấu thực hiện đạt chỉ tiêu: “Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%”, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực có quan hệ lao động đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Bốn là, công bằng xã hội là sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong mọi quan hệ xã hội và thiết chế xã hội, mà cốt lõi là sự bình đẳng về kinh tế, chính trị và pháp luật. Cho nên, cần nghiên cứu hoàn thiện chính sách phân phối và phân phối lại để bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp. Thực hiện phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế. Mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, đây là nguyện vọng chính đáng của nhân dân và cũng là một trong những chỉ báo quan trọng của một xã hội công bằng, văn minh và chính là mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân ta.

Năm là, bảo đảm tốt an sinh xã hội để mọi người dân có đời sống ấm no, hạnh phúc. Tiếp tục quan tâm nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, điều chỉnh lương của người về hưu có mức lương thấp, đời sống khó khăn; ban hành chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều để có cơ sở xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững theo hướng tập trung chống tái nghèo và duy trì thành quả giảm nghèo bền vững. Đồng thời, tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ cơ bản về nhà ở, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.

Sáu là, coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số và phát triển theo hướng bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới về tiếp cận chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng. Đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển; chuyển từ cơ chế đầu tư tài chính cho cơ sở y tế sang hỗ trợ trực tiếp cho người dân thông qua bảo hiểm y tế và thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; bảo đảm để mọi người dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân; thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế nhưng đồng thời bảo đảm sự quản lý, điều tiết và đầu tư thích hợp của Nhà nước trong lĩnh vực này phù hợp với sự phát triển xã hội; có chính sách hỗ trợ cần thiết về chăm sóc sức khỏe đối với trẻ em, người nghèo, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật và các đối tượng khó khăn, yếu thế khác.

Tăng cường chất lượng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế ở tuyến y tế cơ sở; khắc phục tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến trên; cải cách thủ tục trong quản lý bảo hiểm y tế và khám, chữa bệnh; công khai quyền lợi của người có thẻ bảo hiểm y tế; tăng cường y đức; tăng cường quản lý nhà nước, tuyên truyền, giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm về trục lợi bảo hiểm y tế đang gây bất bình trong nhân dân. 

Bảy là, để giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội vì con người và phát huy nhân tố con người, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, yêu cầu toàn bộ hệ thống chính trị phải vào cuộc và có trách nhiệm thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về các chính sách an sinh xã hội và quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Tăng cường và đổi mới công tác dân vận, thật sự gần dân, sát dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển quản lý xã hội. Chú trọng vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội đối với việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội và các chính sách an sinh xã hội phù hợp với các đối tượng trong sự phát triển bền vững của xã hội, góp phần xây dựng đất nước ta giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.