Tại sao giải quyết việc làm là vấn đề xã hội gay gắt ở nước ta?

Vấn đề việc làm ngày càng trở nên nhức nhối và cần phải giải quyết kịp thời. Trong bài viết này, Luật Minh Khuê sẽ cùng quý bạn đọc đi phân tích lí do tại sao cần phải giải quyết việc làm cho người dân.

Thực tế là Việt Nam hiện đang ở trong top 5% những quốc gia và vùng lãnh thổ có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất. Dù cho mỗi năm nước ta có thêm khoảng 400.000 nhưng tỷ lệ thất nghiệp không tăng lên. Nếu nhìn một cách tổng thể thì thị trường việc làm và lao động Việt Nam hiện nay đang có những biến chuyển tốt. Cũng theo ông Doãn Mậu Diệp – nguyên Thứ trưởng Bộ LĐ-TB & XH thì số lượng lao động thất nghiệp hiện tại không đáng quan ngại, điều đáng lo lắng nhất đó là chất lượng việc làm của Việt Nam phải được cải thiện hơn nữa. Vì nguồn cung lao động có trình độ cao ở nước ta đang vô cùng hạn chế trong khi nhu cầu sử dụng lại quá cao. Vấn đề đặt ra là tại sao nói vấn đề giải quyết việc làm là vấn đề gay gắt nhất của nước ta nêu hướng giải quyết.

 

1. Việt Nam là một nước dân số đông

Việt Nam là quốc gia có tốc độ già hoá dân số tương đối nhanh so với thế giới. Nước ta đã bước vào quá trình già hoá dân số từ năm 2011 và dự kiến đến năm 2030, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ tăng thêm 17% và đạt mức 25% vào năm 2050. Quá trình già hoá dân số cũng sẽ khiến nguồn lực lao động bị suy giảm, ảnh hưởng đến năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế và gây tác động tiêu cực lên nhiều mặt của đời sống kinh tế-xã hội.

 

2. Trình độ lực lượng lao động nước ta còn thấp, chưa đáp ứng được điều kiện của thị trường

Nguồn cầu lao động ở Việt Nam hiện nay đang xảy ra tình trạng thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, nhất là các ngành dịch vụ (tài chính, bảo hiểm, điện tử viễn thông, du lịch. ..) và công nghiệp mới.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề rất thấp do kỹ năng, tay nghề, sức khoẻ và tác phong làm việc công nghiệp còn hạn chế nên khả năng cạnh tranh thấp. Tình trạng thể chất của lao động Việt Nam ở mức trung bình thấp, nhất là về chiều cao, cân nặng cũng như sức khoẻ, sự dẻo dai nên không đáp ứng được cường độ công việc và các yêu cầu khi vận hành máy móc trang thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.

Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung không đáp ứng được yêu cầu đề ra của quy trình sản xuất công nghiệp. Một bộ phận lớn người Việt Nam không được huấn luyện về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, mang nặng phong cách làm việc của một nền nông nghiệp tiểu nông, tuỳ tiện trong giờ giấc và hành vi.

Người lao động ít được cung cấp các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có tinh thần hợp tác và chịu đựng rủi ro, ngại phát huy sáng tạo và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.

Chất lượng lao động thấp, phần lớn là lao động nông nghiệp, nông thôn, không đáp ứng được nhu cầu hội nhập: Nguồn nhân lực lao động ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra tình trạng thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, đặc biệt các ngành dịch vụ (ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, du lịch. ..) và công nghiệp mới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề rất thấp, kỹ năng, trình độ, thể lực và tác phong làm việc công nghiệp còn hạn chế nên khả năng cạnh tranh thấp. Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình thấp, kể cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức khoẻ, sự dẻo dai, không đáp ứng được cường độ làm việc và các yêu cầu khi vận hành máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung không đáp ứng được yêu cầu đề ra của quy trình sản xuất công nghiệp. Một bộ phận lớn người Việt Nam không được huấn luyện về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, mang nặng phong cách làm việc của một nền nông nghiệp tiểu nông, tuỳ tiện trong giờ giấc và hành vi. Người lao động ít được cung cấp các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có tinh thần hợp tác và chịu đựng rủi ro, ngại phát huy sáng tạo và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.

 

3. Lực lượng lao động còn phân bố không đồng đều

Lao động phân bổ không đồng đều giữa các khu vực: Một số vùng đất rộng lớn có tỷ trọng lao động thấp (vùng trung du và miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,8% lực lượng lao động, Tây Nguyên là 6,5% lực lượng lao động) , cơ cấu lao động chưa tạo điều kiện tận dụng lợi thế của đất đai để giải quyết việc làm cho người lao động và ảnh hưởng tích cực đến quá trình dịch chuyển lao động ở những vùng này ra thành thị. Năm 2017, lực lượng lao động chủ yếu tập trung ở các vùng Đồng bằng Sông Hồng (21,8%) , Đồng bằng Sông Cửu Long (19,1%) , Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (21,6%) , các vùng còn lại là 17,2%.

Phần lớn lao động di cư chỉ đăng ký tạm trú, không có sổ hộ khẩu nên gặp khó khăn về chỗ trọ, ăn uống, khám chữa bệnh. .. trình độ học vấn của lao động di cư thấp và phần đông chưa được đào tạo nghề. Hầu hết các khu công nghiệp và khu chế xuất – nơi tập trung trên 30% lao động di cư không có điều kiện hạ tầng thiết yếu (bệnh viện, chợ, trường học, dạy nghề, đóng bảo hiểm xã hội. ..) , lao động di cư khó có khả năng tiếp cận với những dịch vụ xã hội cơ bản. Tình trạng trên dẫn tới hệ quả là nguồn nhân lực di cư không có khả năng phục vụ nhu cầu tăng trưởng kinh tế của từng vùng và các khu công nghiệp, khu chế xuất.

 

4. Lao động nước ta tác phong làm việc còn hạn chế

Người lao động chưa có tinh thần học tập, yêu nghề, tâm huyết với công việc đang làm và có tư tưởng gắn bó lâu dài với những lý do khác nhau. Khi chúng tôi đi khảo sát đã thu được nhiều quan điểm trái ngược nhau: Có ý kiến và suy nghĩ cho rằng mục đích chính là đến những khu công nghiệp tìm việc tạm một thời gian vừa làm thêm trang trải cuộc sống, vừa mong thoát đói nghèo khỏi cảnh lao động cực nhọc quanh năm ở dưới quê (26,7%) . Luồng ý kiến thứ 2 lại cho rằng, nên tìm kiếm một việc làm thật sự ổn định để sau này không phải trở về quê làm ruộng nữa (73,3% đồng thuận với quan điểm này) .

Có thể thấy rằng, công nhân, lao động của chúng ta chưa được giáo dục và truyền thông tốt, kể cả các nhà tuyển dụng. Đôi khi, do ít người làm việc mà mặt bằng chung đã được hạ quá thấp so với trước đây là chỉ yêu cầu học xong tối thiểu là trung học. Với nhiều công nhân mới tuyển dụng có trình độ thấp, thậm chí còn không biết viết nổi tên mình, thử hỏi làm sao mà nhận thức của họ là đúng cũng như sản phẩm họ tạo ra đạt chất lượng cao. 

Thiết nghĩ, với nhận thức cũng như tính tự giác của công nhân còn rất hạn chế như hiện nay, muốn đất nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày một tốt thì không có cách nào khác là công tác đào tạo và dạy nghề cần phải đổi mới và nâng cao chất lượng.

 

5. Chất lượng làm việc hiện nay ở nước ta còn thấp

Năm 2010, lao động tự làm việc và lao động gia đình không hưởng lương, với đặc trưng là việc làm không ổn định và dễ bị tổn thương, tiếp tục là hai nhóm lao động chủ đạo của nền kinh tế, đóng góp khoảng 70,5% tổng số việc làm phi nông nghiệp. Tỷ lệ tương ứng của năm 2012, 2013 là 61,81% và 62,14%. Năm 2010, cả nước có 19,5 triệu người làm các nghề đơn giản không đòi hỏi trình độ kỹ thuật, chiếm 39,5% tổng việc làm cả nước. Trong tổng số lao động làm công hưởng lương thì có khoảng 44,7% chỉ có thoả thuận miệng hoặc ít nhất là không ký kết hợp đồng. Năng suất lao động xã hội của Việt Nam thấp hơn nhiều lần so với một số quốc gia trong khu vực. Năng suất lao động của Việt Nam hiện nay bằng khoảng 55% so với Trung Quốc, 35% so với Thái Lan, 15% so với Malaysia và khoảng 56% so với Hàn Quốc. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam yếu kém so với nhiều quốc gia trong ASEAN (xếp hạng rất cao sau Campuchia trong ASEAN) , các chỉ số như trình độ công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, môi trường pháp lý với hoạt động kinh doanh, tiếp cận vốn, xúc tiến thương mại đều ở vị trí trung bình thấp trong nhiều năm. Vai trò giải quyết việc làm của doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng giảm, tỷ trọng việc làm trong lĩnh vực này chỉ tăng trưởng thấp, từ 9,33% năm 2001 lên 9,6% năm 2009. Điều này cho thấy sự mất cân bằng nghiêm trọng về phân bố và sử dụng lao động: khu vực ngoài nhà nước chiếm khoảng 34% GDP, sử dụng 1/3 tổng đầu tư xã hội, tuy nhiên lại sử dụng dưới 10% số lượng lao động. Khu vực kinh tế nhà nước đóng góp 66% GDP, 2/3 tổng vốn đầu tư xã hội, nhưng có trên 90% lao động xã hội, trong đó đại bộ phận đang làm việc ở khu vực không chính thức thuộc hộ gia đình, quy mô nhỏ lẻ, phân tán, thu nhập thấp không ổn định, an toàn lao động yếu kém, trình độ công nghệ và phương thức sản xuất lạc hậu.

Hy vọng bài viết trên của Luật Minh Khuê đã cung cấp cho quý bạn đọc những kiến thức hữu ích. Trân trọng cảm ơn!