Tại sao giải quyết việc làm là vấn đề xã hội gay gắt ở nước ta?

Vấn đề xã hội gay gắt là gì? Tại sao giải quyết việc làm đang là vấn đề xã hội gay gắt ở nước ta hiện nay? Trình độ của lực lượng lao động ở nước ta còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường? Lực lượng lao động phân bố không đều? Lao động ở nước ta tác phong làm việc còn nhiều hạn chế?

    Khoảng một triệu người trong độ tuổi lao động làm việc tại Việt Nam hàng năm, đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng để Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19 và chất lượng của lực lượng lao động hạn chế đã dẫn đến tình trạng thất nghiệp phổ biến, ảnh hưởng đến đời sống, thu nhập và sự phát triển của xã hội.

    Tham khảo bài viết dưới đây để biết lý do tại sao “ giải quyết việc làm là vấn đề xã hội gay gắt ở nước ta“.

    1. Vấn đề xã hội gay gắt là gì?

    Vấn đề xã hội gay gắt là những vấn đề nổi cộm trong xã hội. Đây là những vấn đề khó khăn đe doạ đến sự hình thành và phát triển đối với mọi nền xã hội nói chung và nền xã hội Việt Nam nói riêng. Cần phải có những giải pháp để giải quyết vấn đề này, nếu không đây sẽ là gánh nặng của nền kinh tế, giáo dục, y tế,….

    Xem thêm: Cắt giảm lương của người lao động

    2. Tại sao giải quyết việc làm đang là vấn đề xã hội gay gắt ở nước ta hiện nay?

    Việc làm là vấn đề mà người lao động quan tâm nhất, nhất là trong thời điểm hậu đại dịch Covid-19 như hiện nay. Giải quyết việc làm đang là vấn đề xã hội nhức nhối ở nước ta vì:

    Dân số nước ta đông:

    Việt Nam là quốc gia có  dân số đông, tháp dân số tương đối trẻ và đã bắt đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, nơi nguồn nhân lực dồi dào nhất từ ​​trước đến nay. Tính đến cuối năm 2022, dân số nước ta là 99.329.145 triệu người, trong đó nữ chiếm khoảng 48,94%. Nguồn lao động dồi dào tại các nền kinh tế đang phát triển đã tạo ra áp lực lớn cho giải quyết việc làm.

    Tỷ lệ thất nghiệp:

    Theo Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 9 năm 2020, cả nước có 31,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 bao gồm người bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập. Trong đó, lao động bị giảm thu nhập (với mức giảm thu nhập nhẹ) là 68,9%; lao động phải giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên là gần 40% và lao động buộc phải tạm nghỉ hoặc tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh khoảng 14%.

    Theo Tổng cục thống kê tỷ lệ thất nghiệp có sự chênh lệch nhau giữa vùng miền, cụ thể: Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 5,3%, tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 9,3%.

    Nghề giúp việc đang nổi lên là một nghề có thu nhập rất ổn định mà không tốn chi phí đi lại, ăn ở. Một công việc giúp chị em tiết kiệm hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

    Gia tăng dân số đã dẫn đến gia tăng lực lượng lao động trong những năm gần đây. Hơn 50% lực lượng lao động là nam giới. Tuy nhiên, sự khác biệt này không đáng kể và cho thấy có nhiều lao động nữ. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ khá cao so với lao động nam do hạn chế về sức khỏe, mâu thuẫn giữa sinh con và công việc, cơ hội tìm được việc làm ưng ý sau khi sinh con thấp.

    Lãng phí tài nguyên lao động dồi dào vì không biết cách khai thác: 

    Lao động là vốn đắt đỏ của đất nước mà không được sử dụng vừa gây lãng phí, vừa khó nâng cao chất lượng cuộc sống, xóa đói giảm nghèo và ổn định xã hội.

    Nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc… buộc phải nhập khẩu lao động Việt Nam để xuất khẩu lao động do thiếu hụt lao động. Ở nước ta nguồn lao động dồi dào nếu không được sử dụng sẽ tạo ra sự lãng phí lớn.

    Trên đây là ba lý do khiến giải quyết việc làm đang là một vấn đề xã hội cấp bách ở nước ta hiện nay.

    Xem thêm: Quy định pháp luật về vấn đề việc làm cho lao động nữ khi nghỉ thai sản

    3. Trình độ của lực lượng lao động ở nước ta còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường:

    Về nhu cầu lao động, Việt Nam hiện đang thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, nhất là trong các ngành dịch vụ (tài chính, bảo hiểm, điện tử, viễn thông, du lịch…) và các ngành công nghiệp mới.

    Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp rất thấp do kỹ năng, kiến ​​thức, sức khỏe và phương pháp làm việc công nghiệp nên khả năng cạnh tranh thấp. Thể lực của người lao động Việt Nam ở mức trung bình thấp, nhất là về chiều cao, cân nặng, sức khỏe và sự dẻo dai nên chưa đáp ứng được cường độ công việc và yêu cầu sử dụng máy móc, thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.

    Kỷ luật lao động của người Việt Nam nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu mà quy trình sản xuất công nghiệp đặt ra. Nhiều người Việt Nam không bị kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn công nhân xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, tác phong làm việc tiểu nông, giờ giấc và tác phong làm việc tùy tiện.

    Nhân viên thiếu kiến ​​thức và kỹ năng làm việc nhóm, thiếu tinh thần hợp tác và chấp nhận rủi ro, ngại phát huy tính sáng tạo và chia sẻ kinh nghiệm trong công việc.

    Chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng nhu cầu hội nhập: Việt Nam hiện đang thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật có trình độ cao, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ (ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, du lịch). …) và các ngành mới. Số lao động qua đào tạo còn rất ít, tay nghề, trình độ, thể lực, kỹ thuật công nghiệp còn hạn chế nên sức cạnh tranh yếu. Thể lực của người lao động Việt Nam ở mức trung bình thấp, kể cả chiều cao, cân nặng và sức khỏe dẻo dai, chưa đáp ứng được cường độ công việc và yêu cầu sử dụng máy móc, thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Kỷ luật làm việc của người Việt Nam nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của quy trình sản xuất công nghiệp. Nhiều người Việt Nam không bị kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn công nhân xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, tác phong làm việc tiểu nông, giờ giấc và tác phong làm việc tùy tiện. Nhân viên thiếu kiến ​​thức và kỹ năng làm việc nhóm, thiếu tinh thần hợp tác và chấp nhận rủi ro, ngại phát huy tính sáng tạo và chia sẻ kinh nghiệm trong công việc.

    4. Lực lượng lao động phân bố không đều:

    Lực lượng lao động phân bố không đều giữa các vùng: một số vùng lớn tỷ trọng thấp (Trung du và Tây Nguyên phía Bắc chỉ chiếm 13,8%, Tây Nguyên 6,5%), cơ cấu lao động chưa tạo thuận lợi. điều kiện sử dụng đất đai tạo công ăn việc làm cho người lao động, có tác động tích cực đến sự dịch chuyển lao động của các vùng đó ra đô thị. Năm 2017, lực lượng lao động tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng (21,8%), Đồng bằng sông Cửu Long (19,1%), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (21,6%), các khu vực còn lại là 17,2%.

    Hầu hết người lao động di cư chỉ đăng ký tạm trú, không có hộ khẩu nên gặp khó khăn về chỗ ở, ăn uống, khám chữa bệnh…. trình độ học vấn của lao động di cư thấp và hầu hết chưa qua đào tạo chuyên môn. Hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất – nơi tập trung trên 30% lao động di cư, nơi không có các điều kiện cơ sở hạ tầng cần thiết (bệnh viện, chợ, trường học, dạy nghề, đóng bảo hiểm xã hội…), lao động di cư không tiếp cận được. Đến các dịch vụ cơ bản. các dịch vụ xã hội. Thực trạng trên dẫn đến nguồn nhân lực di cư không đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế của từng vùng và các khu công nghiệp, khu chế xuất.

    5. Lao động ở nước ta tác phong làm việc còn nhiều hạn chế:

    Nhân viên chưa có tinh thần ham học hỏi, yêu thích công việc, tâm huyết với công việc và gắn bó lâu dài vì nhiều lý do. Khi thực hiện khảo sát, chúng tôi nhận được nhiều quan điểm trái chiều: Các ý kiến, suy nghĩ đều cho rằng mục đích chính là đến các khu công nghiệp một thời gian để tìm một công việc bán thời gian tạm thời trang trải cuộc sống với hy vọng ra ngoài, lao động nặng nhọc quanh năm ở nông thôn (26,7%). Ý kiến ​​khác cho rằng nên tìm một công việc thực sự ổn định để sau này không phải về quê làm ruộng (73,3% đồng ý).

    Có thể thấy rằng nhân viên và người lao động của chúng ta chưa được giáo dục và truyền thông tốt, kể cả các nhà tuyển dụng. Đôi khi, do ít người làm việc mà mặt bằng chung đã được hạ quá thấp so với trước đây là chỉ yêu cầu học xong tối thiểu là trung học.Với nhiều công nhân tay nghề thấp mới được tuyển dụng, thậm chí còn không viết được tên của mình, thử hỏi làm sao quan niệm của họ đúng và sản phẩm họ tạo ra có chất lượng cao.

    Theo đó, với nhận thức và tinh thần tự giác của người lao động còn hạn chế như hiện nay, muốn đất nước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng tốt hơn thì không có con đường đổi mới, nâng cao chất lượng nào khác ngoài giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp.

    Thực tế là Việt Nam hiện nằm trong số 5%  quốc gia và khu vực có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất. Mặc dù mỗi năm nước ta  thêm khoảng 400.000 người nhưng tỷ lệ thất nghiệp không tăng. Nhìn chung, thị trường lao động và việc làm của Việt Nam hiện  đang có những chuyển biến  tốt. Theo ông Doãn Mậu Diệp, nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, số lượng  thất nghiệp hiện nay không đáng lo, điều đáng lo  nhất  là chất lượng việc làm của Việt Nam phải được cải thiện hơn nữa. Bởi nguồn cung lao động có tay nghề cao ở nước ta rất hạn chế, trong khi nhu cầu về lao động lại quá cao. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại nói vấn đề giải quyết việc làm đang là vấn đề cấp bách nhất ở nước ta và giải quyết vấn đề đó như thế nào?