Sữa và các sản phẩm sữa
1.2. Vị trí của ngành trong bức tranh chung của ngành tại khu vực
Ngành sữa thế giới chủ yếu tập trung ở các nước phát triển như Mỹ, New Zealand, Úc… và các sản phẩm thường được xuất khẩu sang các nước đang phát triển. Động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành sữa đến từ Trung Quốc và Châu Âu (tốc độ phát triển lên tới 20%/ năm).
Ngành sữa đóng vai trò quan trọng trong trong hệ thống thực phẩm toàn cầu và cả trong sự phát triển bền vững của các khu vực nông thôn. Thực tế, ngành sữa đang đóng góp tích cực vào nền kinh tế của nhiều cộng đồng, khu vực và đất nước. Hiện nay, cầu về sữa ở thế giới đang có xu hướng tăng, thêm vào đó là nền công nghiệp đang có xu hướng toàn cầu hóa dẫn đến sự gia tăng về phạm vi và mức độ của giao dịch sữa toàn cầu.
Ở khu vực Châu Á, Việt Nam đang nổi lên là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp sản xuất, chế biến sữa phát triển năng động, đặc biệt là trong những năm gần đây. Cũng như nhiều quốc gia sản xuất, chế biến sữa khác, ngành sữa của Việt Nam cũng đang trong tình trạng thiếu cung phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Việt Nam là một đất nước vốn không có lịch sử phát triển chăn nuôi bò sữa mà xu hướng này mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tính đến năm 2015, Việt Nam có hơn 275 nghìn con bò với tổng cộng 19 nghìn cơ sở chăn nuôi bò sữa. Chăn nuôi bò sữa cần vốn và công nghệ cao, tuy nhiên Việt Nam hiện nay hoạt động chăn nuôi chủ yếu thực hiện tại các hộ gia đình cá thể với quy mô nhỏ (dưới 20 con), người nông dân thiếu các kiến thức về chăn nuôi và phòng chống bệnh tật cho bò từ đó dẫn đến năng suất thấp, chi phí sản xuất cao và chất lượng sữa không đồng đều so với nhiều quốc gia khác.
Theo Vietnam Industry Research and Consultant (VIRAC) thì Tây Âu có giá thành sản xuất vào khoảng 45-55 USD/100 kg. Còn ở Mỹ thì con số này vào khoảng 35-60 USD tùy theo mức độ phát triển của các vùng. Các nước như Argentina có thời tiết thuận lợi và đất nuôi thả rộng lớn nên có giá thành rẻ hơn. Giá thành sản xuất ở Châu Đại dương vào khoảng 36,6 USD/ kg, ở Úc vào khoảng 30-35 USD/100 kg và rơi vào khoảng 41-42 USD ở New Zealand. Sự khác biệt này là do sự khác nhau về giá thức ăn, giá đất và sự tăng giá của đồng NZD vào gần đây. New Zealand từng có 1 mức giá rất cạnh tranh (12 USD/ 100kg) tuy nhiên sự tăng giá đồng tiền và sự tăng giá của nguyên liệu đầu vào đã làm tăng mức giá lên gấp 3 lần. Nhìn chung thì chi phí sản xuất không biến động mạnh mẽ qua các thời kỳ.
Theo Euromonitor, trong năm 2009, sản xuất sữa nguyên liệu từ đàn gia súc trong nước chỉ mới đáp ứng được khoảng 20-30% tổng mức tiêu thụ sữa. Ở Việt Nam, chỉ có 5% của tổng số bò sữa được nuôi tập trung ở trang trại, phần còn lại được nuôi dưỡng bởi các hộ gia đình ở quy mô nhỏ lẻ. Đến cuối năm 2009, có 19.639 nông dân chăn nuôi bò sữa với mức trung bình là 5,3 con bò mỗi trang trại. Hậu quả là các sản phẩm sữa của Việt Nam là một trong những nơi đắt nhất trên thế giới. Chi phí trung bình của sữa ở Việt Nam là 1,40 USD /lít, so với 1,30 USD /lít ở New Zealand và Philippines, 1,10-1,20 USD /lít tại Úc và Trung Quốc, và 0,90 USD /lít ở Anh, Hungary và Brazil. Để xây dựng một hệ thống chăn nuôi bò sữa đạt chuẩn, doanh nghiệp phải đầu tư một số vốn rất lớn. Hơn nữa, muốn đáp ứng yêu cầu thị trường, các doanh nghiệp trong ngành sữa phải nhập khẩu công nghệ, nguyên liệu, thiết bị từ nước ngoài do kỹ thuật trong nước còn hạn chế ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm, doanh thu của doanh nghiệp. Các Công ty sữa phụ thuộc vào sữa bột nhập khẩu hơn là sản xuất sữa tươi trong nước. Sản xuất sữa phải đối mặt với sự mất cân bằng cung và cầu khi đàn bò sữa trong nước chỉ đáp ứng khoảng 20-30% tổng nhu cầu sữa trên toàn quốc. Sự phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài đối với nguyên liệu đầu vào tạo ra một nguy cơ chèn ép lợi nhuận do biến động giá của các sản phẩm sữa nhập khẩu. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam nhập khẩu 72% của tổng sản phẩm sữa trong năm 2009, bao gồm 50% sữa nguyên liệu và 22% sữa thành phẩm. Mặt khác, từ sau khi gia nhập WTO, doanh nghiệp sữa Việt Nam chịu sức ép cạnh tranh ngày một gia tăng do việc giảm thuế cho sữa ngoại nhập theo chính sách cắt giảm thuế quan của Việt Nam khi thực hiện các cam kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung trong Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (cam kết CEPT/AFTA) và cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tâm lý “sính ngoại” của người Việt cũng tác động tiêu cực đến số lượng tiêu thụ các sản phẩm sữa Việt Nam.
Nhưng đến năm 2014 thì số lượng bò sữa cả nước đã tăng lên gấp đôi so với năm 2008, chất lượng giống được cải thiện, sữa tươi đảm bảo an toàn thực phẩm và đang chiếm được lòng tin của người tiêu dùng. Năng suất sữa bò ngày càng tăng và cao hơn các nước khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc. So sánh với các nước trong ASEAN và Trung Quốc thì năng suất bò sữa của Việt Nam đang cao hơn. Tuy nhiên, so với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan thì Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều. Bởi Việt Nam không phải là nước có lợi thế trong chăn nuôi bò sữa, nhiệt đột thích hợp chăn nuôi bò sữa là từ 20-250C. Trong khi, cơ cấu thức ăn xanh cho bò sữa Việt Nam hiện vẫn chưa định hình. Số hộ chăn nuôi nhỏ và siêu nhỏ đang chiếm 66% số bò sữa. Sự liên kết của doanh nghiệp và hộ nông dân cũng chưa được thiết lập. Dự báo đến năm 2045, Việt Nam mới đạt được năng suất như Đài Loan hiện nay với 1 triệu bò sữa. Tuy nhiên tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều mô hình chăn nuôi có hiệu quả là có sự gắn kết giữa hộ chăn nuôi với các doanh nghiệp thu mua, chế biến sữa.
Tới năm 2015, chi phí sản xuất sữa của Việt Nam đã vượt lên mức trung bình của thế giới, trong điều kiện lĩnh vực chăn nuôi vẫn ở mức độ không tập trung và quy mô nhỏ (không đạt được lợi ích kinh tế theo quy mô), sản lượng thấp (12-15 lít/con bò/ ngày) và giá thức ăn chăn nuôi và thú y vẫn ở mức cao nhưng các doanh nghiệp đã phát triển tốt hơn các dây chuyền chế biến tiên tiến. Nhìn chung ngành sản xuất chế biến sữa nước ta hiện nay có trình độ thiết bị, công nghệ vào loại khá ở khu vực, đặc biệt có nhiều doanh nghiệp lớn trong ngành có thiết bị và công nghệ hiện đại ngang tầm với các nước phát triển trên thế giới. Do ngành mới phát triển nên nhu cầu về cập nhật, đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trong ngành là rất lớn. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp lớn trong ngành đã quan tâm đến công tác đổi mới, cập nhật và đặc biệt là quản trị công nghệ thông qua các dự án xây mới và đầu tư mở rộng, nâng công suất nhà máy sử dụng thiết bị tiên tiến và công nghệ hiện đại. Bên cạnh đó, đối với một số cơ sở sản xuất chế biến sữa có công suất thấp việc cập nhật công nghệ ở các cơ sở này chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn tình trạng thiết bị, công nghệ lạc hậu. Mặc dù ở một vài cơ sở sản xuất nhỏ, việc cập nhật, đổi mới công nghệ đã ít nhiều được quan tâm nhưng khái niệm về quản trị công nghệ thì còn rất xa lạ.Dù vậy, điều này vẫn dẫn đến tình trạng thiếu nguồn cung nguyên liệu sữa tươi cho ngành công nghiệp chế biến sữa của Việt Nam kéo dài nhiều năm và phải phụ thuộc khá lớn vào thị trường nhập khẩu.
Trong tương lai, Việt Nam cần tận dụng hiệu quả hơn đặc điểm địa lý và khí hậu nhiệt đới xen với vành đai ôn đới rất thuận lợi cho phát triển đàn bò sữa. Các đồng cỏ như Hà Tây, Mộc Châu, Bình Dương… cung cấp nguồn thức ăn dồi dào, phong phú và điều kiện sinh trưởng tốt.
2. Hiện trạng về doanh nghiệp trong ngành
– Số lượng và quy mô doanh nghiệp
Ngành sữa Việt Nam được đánh giá là đã có bước phát triển khá nhanh với chỉ 1-2 nhà sản xuất và phân phối sữa vào thời điểm trước những năm 1992 thì đến năm 2005 cả nước có 39 doanh nghiệp. Sau hơn 10 năm số doanh nghiệp này đã tăng gấp đôi. Tính đến năm 2016 đã tăng lên hơn 80 doanh nghiệp với hàng trăm nhãn hiệu, hầu hết đều đã tham gia là thành viên của Hiệp hội Sữa Việt Nam. Trong đó, các doanh nghiệp sản xuất sữa có quy mô vừa và lớn gồm 10 doanh nghiệp với tổng cộng 26 nhà máy chế biến sữa (trong đó riêng Vinamilk có 13 nhà máy) còn lại chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
Bên cạnh đó là sự thâm nhập của các thương hiệu sữa nước ngoài như Abbott, Babysan, Dumex, Dutch Lady (Frieslandcampina), Meiji, Nestlé… Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất, chế biến sữa trong nước với các thương hiệu sữa nhập ngoại làm cho ngành sữa Việt Nam đứng trước các thách thức lớn nhưng cũng có không ít cơ hội để phát triển và chiếm lĩnh thị trường.
Các doanh nghiệp tham gia ngành sản xuất, chế biến sữa tại Việt Nam bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp nội.
Khối doanh nghiệp FDI giành phần lớn thị phần ở thị trường sữa bột và đang theo sát các doanh nghiệp nội thì ở thị trường sữa nước, đặc biệt là FrieslandCampina Việt Nam. Hãng này đã mạnh tay tổ chức đào tạo huấn luyện nhà phân phối, kết hợp với ngân hàng để tài trợ luôn vốn cho họ. Từ năm 2009, FrieslandCampina Việt Nam đã “đào” được một hệ thống kênh mạnh với 150 nhà phân phối và 100.000 điểm bán lẻ tại Việt Nam. Còn Abbott tiến thêm một bước khi thâu tóm nhà phân phối độc quyền là Công ty Dinh Dưỡng 3A vào năm 2012.
Trong số các doanh nghiệp nội, Vinamilk vẫn được khối ngoại xem là đối trọng lớn nhất. Vinamilk đang phát triển 9 trang trại quy mô lớn với toàn bộ bò giống nhập khẩu từ Úc, New Zealand và Mỹ. Sắp tới, Công ty này sẽ đưa vào hoạt động thêm 4 trang trại nữa. Họ còn liên kết với gần 8.000 hộ dân, thu mua sản lượng bình quân khoảng 500 tấn sữa/ngày. Vinamilk đang giữ gần 50% thị phần trong phân khúc sữa nước tại Việt Nam. Vinamilk cũng được biết đến là một Công ty không ngần ngại chi tiền cho quảng cáo, với chi phí tăng mạnh qua từng năm, từ mức quảng cáo/doanh thu chiếm 1,85% (năm 2011) lên đến 4,15% (9 tháng đầu năm 2015). Sự gia tăng này, mặt khác, cũng phản ánh thực trạng cạnh tranh khốc liệt trên thị trường sữa.
Vinamilk không còn bó gọn ở thị trường nội địa. Họ đã đặt mục tiêu trở thành một trong 50 Công ty sữa lớn nhất thế giới vào năm 2017 với doanh số hơn 3 tỷ USD. Công ty này phải suy tính nhiều giải pháp mang tính toàn cầu hóa, như rót vốn vào nhà máy Miraka ở New Zealand, sở hữu 70% cổ phần của nhà máy sữa Driftwood (Mỹ), đầu tư ở Ba Lan và đầu tư nhà máy tại Campuchia. Với việc phục hồi thị trường Iraq (thị trường xuất khẩu chính của Vinamilk) cùng kế hoạch thâm nhập thị trường Myanmar, doanh thu mảng xuất khẩu của Công ty trong năm 2016 có thể tăng 20% so với cùng kỳ, góp 22% vào tổng doanh thu.
Một công ty nội địa khác là TH True Milk cũng đang phấn khích tham gia vào cuộc đua mở rộng quy mô khi đầu tư 1,2 tỷ USD cho chuỗi sản xuất khép kín, gồm trang trại bò sữa, nhà máy và kênh phân phối. Tham vọng của Công ty này là đến năm 2017, sẽ có khả năng cung cấp 50% nguyên liệu sữa tươi. Nhưng với số lượng bò chỉ mới đạt 1/3 kế hoạch và thị phần sữa nước còn khiêm tốn (7,7%), TH True Milk có lẽ sẽ rất áp lực, nhất là thời gian đến khi TPP có hiệu lực không còn nhiều. Gần đây, họ vừa tuyên bố đầu tư 2,7 tỷ USD vào chuỗi sản xuất khép kín tại Nga, nhưng hiệu quả thì chưa thể đánh giá.
Vinamilk và TH True Milk được đánh giá là những doanh nghiệp tiên phong của ngành sữa nội địa Việt Nam. Với việc áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất thức ăn, chăn nuôi, thu hoạnh sản phẩm sữa đảm bảo năng suất, chất lượng sữa luôn ở mức cao và lợi thế quy mô, nên giá thành sản phẩm sữa của hai doanh nghiệp này cũng cạnh tranh hơn sữa của những trang trại nhỏ. Tỷ trọng của các doanh nghiệp này trong ngành còn thấp, nhưng đây sẽ là định hướng phát triển và mục tiêu của Việt Nam trong những năm sắp tới.
Đối với các Công ty quy mô nhỏ hơn như Nutifood, cách phát triển vùng nguyên liệu và bắt tay qua lại sẽ là chiến lược ưu tiên trong mục tiêu sống còn. Nutifood kết hợp cùng Hoàng Anh Gia Lai trong dự án phát triển vùng nguyên liệu sữa, giúp giá sữa dự kiến chỉ bằng một nửa so với giá thị trường. Nutifood sẽ đầu tư nhà máy, bao tiêu sữa của Hoàng Anh Gia Lai.
Trong khi đó, Công ty Sữa Quốc tế (IDP) định hướng phát triển theo hướng hợp tác với đối tác Úc để làm sữa tươi nguyên chất. Bởi trong các chia sẻ của mình, Tổng Giám đốc IDP Trần Bảo Minh luôn nhấn mạnh, trừ một số vùng như Ba Vì, điều kiện tự nhiên ở Việt Nam ít thích hợp với nuôi bò sữa. Cốt lõi trong cuộc cạnh tranh lớn là từ vùng nguyên liệu và trình độ của người nông dân. Một lần nữa, các chuyên gia rất lưu tâm về viễn cảnh nông dân có thể phải đối mặt với việc rời bỏ sân chơi bò sữa khi sữa nguyên liệu ngoại nhập dự báo sẽ giảm giá và tràn vào Việt Nam sau TPP.
Trước sức tấn công của sữa ngoại, những Công ty quy mô nhỏ như IDP cũng đang tìm kiếm thêm cơ hội từ những sản phẩm sữa mới, khác biệt, chất lượng. Thực tế chứng minh việc tập trung vào nhóm các ngành sữa khác như sữa đậu nành, sữa bắp là cách để các Công ty đi sau, quy mô nhỏ hơn, có được chỗ đứng trên thị trường.
– Danh sách các doanh nghiệp lớn trong ngành:
1. Công ty CP Sữa Việt Nam (Vinamilk)
2. Công ty Abbott Nutrition Việt Nam
3. Công ty Cổ phần Sữa Hà Nội (Hanoimilk)
4. Công ty TNHH Mead Johnson Nutrition (Việt Nam)
5. Công ty Cổ phần Sữa Quốc tế (IDP)
6. Nhà máy sữa Đậu nành Việt Nam
7. Công ty Cổ phần Sữa Ba Vì
8. Công ty FrieslandCampina Việt Nam
9. Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
10. Công ty CP Sữa Sức sống Việt Nam (VitaDiary)
11. Công ty TNHH Nestle Việt Nam
12. Công ty Cổ phần Thực phẩm Hanco
13. Công ty Cổ phần Sữa TH Truemilk
14. Công ty TNHH Yakult Việt Nam
15. Công ty TNHH Vietnam Foremost
3. Hiện trạng về thị trường xuất khẩu
Ngành sữa Việt Nam trong những năm qua đã liên tục phát triển và phát triển theo đúng hướng. Từ chỗ phải nhập khẩu hoàn toàn, đến nay Việt Nam đã có thể xuất khẩu sữa tới hơn 40 thị trường nước ngoài. Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia tại Châu Á có xuất khẩu sữa. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu sữa hàng năm của Việt Nam nhìn chung còn ở mức thấp, chỉ đạt trên dưới 100 triệu USD. Năm 2014, Việt Nam đã xuất khẩu các sản phẩm sữa trị giá hơn 92,8 triệu US, thấp hơn con số 115,5 triệu USD của năm trước đó, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2010, trong đó Vinamilk chiếm đa số tới 90%. Điều này minh chứng rằng sản phẩm sữa trong nước sản xuất đang dần chiếm trọn niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam và có nhiều cơ hội vươn tầm ra thị trường sữa thế giới.
Những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu sản phẩm sữa giảm do những bất ổn tại thị trường Trung Đông nhưng vẫn đạt mục tiêu trong quy hoạch đề ra. Các Công ty xuất khẩu sữa (chủ yếu là Vinamilk) vẫn duy trì thị trường truyền thống (Trung Đông và Đông Nam Á), đồng thời phát triển các thị trường mới tại Châu Phi và Trung Mỹ. Các sản phẩm sữa Việt được xuất khẩu khá đa dạng, bao gồm: sữa bột, bột dinh dưỡng, sữa đặc, sữa nước, sữa đậu nành, yogurt, bột váng sữa, váng sữa, dầu bơ, bột sữa gầy, bơ, phô mai…