Sinh sản vô tính và Đạo Phật

SINH SẢN

VÔ TÍNH

ĐẠO PHẬT

Nguyễn Tường Bách

khi nhan ban vo tinhkhi nhan ban vo tinh

Hai chú khỉ Zhong Zhong (7 tuần tuổi) và Hua Hua (8 tuần tuổi)
được

nhân bản

vô tính

Trong

báo cáo

khoa học đăng trên tạp chí Cell ngày 24-1 vừa qua, nhà khoa học

Trung Quốc

Muming Poo và các

cộng sự

cho biết

họ đã

thành công

khi cho ra đời 2 chú khỉ cái macaque bằng

phương pháp

sinh sản

vô tính

Như vậy, sau 20 năm kể từ khi chú cừu Dolly ra đời năm 1996, các nhà khoa học đã cho ra đời bằng

phương pháp

này các loài

động vật

có vú như: chó, mèo, heo, bò, ngựa… Thậm chí cả phôi thai người.

Tuy nhiên

, giới khoa học vẫn chưa thể

áp dụng

kỹ thuật

nhân bản

sinh sản

vô tính

với bộ linh trưởng, một loài thuộc khỉ, vượn và

con người

,

cho đến

khi các nhà khoa học tại Viện

Hàn lâm

khoa học

Trung Quốc

công bố

kết quả trên.

Với

sự kiện

này, ông Poo cho rằng việc

nhân bản

con người

hoàn toàn

có thể

thực hiện

được về mặt

lý thuyết

, khiến

dư luận

quan ngại

.

Phật giáo

quan niệm

như thế nào về

vấn đề

này như thế nào?

Chúng tôi

xin

giới thiệu

lại bài viết của

Tiến sĩ

Nguyễn Tường Bách: “Sinh sản

vô tính

và Đạo Phật” dưới đây để

độc giả

quan tâm

cùng

tham khảo

.

“Gần đây, một công ty tại Mỹ vừa

thông báo

đã

thành công

trong việc tạo phôi người

nhân bản

đầu tiên (human cloning). Với

thành công

này người ta

hy vọng

đi một

bước dài

trong việc tạo các tế bào gốc của

con người

Công ty nọ

cho hay

, họ chỉ muốn

sử dụng

thành tựu

này để chữa bệnh chứ không nhằm

mục đích

tạo nên một

con người

được

nhân bản

. Sau khi tin này được

thông báo

, một loạt

thành tựu

tương tự

cũng được

công bố

, chủ yếu cũng nhắm đến việc chữa bệnh cho

con người

. Dù thế,

mọi nơi

trên

thế giới

đều

lên tiếng

phản đối

, cho rằng việc tạo phôi người

nhân bản

là đi ngược lại “các nguyên tắc đạo đức”, dù chỉ

sử dụng

nó vì những

lý do

nhân đạo

. Người ta tin rằng, không sớm thì muộn,

con người

nhân bản

thông qua kỹ thuật sinh sản

vô tính

sẽ hình thành. 

Trong lịch sử

khoa học, hầu như chưa có một bước đột phá nào gây nhiều

phản ứng

và tranh cãi như sự việc này. Nhiều người nghĩ ngay đến một

viễn cảnh

“rùng rợn”, trong đó

con người

được chế tạo như những món hàng

giống hệt

nhau chạy ra từ một băng chuyền

công nghiệp

. Ngược lại cũng có nhiều người vội nghĩ tới

tự nhân

bản chính mình để sống đời này qua kiếp khác. Có kẻ

thành tâm

nghĩ tới khả năng sao chép những

thiên tài

của

loài người

để họ

tiếp tục

phục vụ

cho

nhân loại

hàng trăm năm sau đó. Cũng có người chủ trương

nhân bản

con người

chỉ để có một “kho” lưu chứa phụ tùng thay thế tim óc và các bộ phận, một khi chúng bị

tai nạn

hay bệnh tật hủy phá. 

Tất cả những điều kể trên không còn là chuyện khoa

học giả

tưởng trong thế kỷ 21 của

chúng ta

. Những điều đó có lẽ sẽ

dần dần

được

thực hiện

,

chính thức

hay không

chính thức

.

Lý do

giản đơn là lĩnh vực sinh học này quá

hấp dẫn

,

kích thích

đầu óc

con người

vốn say mê

nghiên cứu

những điều mới mẻ.

Ngoài ra

nó sẽ mang nguồn lợi tài chánh

vô tận

cho những kẻ đi

tiên phong

và đây sẽ là

động lực

chủ chốt. 

Ngành sinh học của thế kỷ 21 đang đứng trước một quá trình phát triển

kỳ diệu

. Trong thế kỷ 20, ngành

vật lý

cũng có một giai đoạn

tương tự

. Với sự phát hiện của

thuyết tương đối

trong những năm đầu và thuyết lượng tử

trong khoảng

những năm 30, thế kỷ 20 đã làm một cuộc

cách mạng

trong ngành

vật lý

, đã thống nhất nhiều khái niệm tưởng chừng như

độc lập

với nhau

, để đưa

vật lý

của thế kỷ thứ 19 từ một mức độ “trung bình” của

con người

đến mức bao quát, gồm chứa cả những

thế giới

cực nhỏ của các hạt cơ bản đến những

phạm vi

cực đại của các thiên hà. Quan trọng nhất là nền

vật lý

hiện đại

đã đưa thẳng

con người

đi đến cửa ngõ của

triết học

, trong đó nhiều nhà

vật lý

khẳng định

thế giới

vật chất

dường

như không

phải là một đối tượng “độc

lập tự

nó” mà là sự cảm nhận của

con người

về một

thực tại

khác.

Thế giới

vật chất

chỉ là dạng

xuất hiện

của

thực tại

đó trong

ý thức

quán chiếu

của

con người

. Vì lẽ đó, sự phát triển của ngành

vật lý

trong thế kỷ 21 sẽ mang nhiều

tính chất

“tâm linh” mà sự đồng qui của nó với

triết học

phương Đông, nhất là với

Phật giáo

, đã được nhiều người

thừa nhận

1

Khi những đối tượng

nghiên cứu

thuộc

phạm vi

“vô sinh” như

vật chất

mà đã dẫn đến những

vấn đề

thuộc về

vai trò

của “ý thức” thì ta có thể dễ dàng

nhận thấy

ngành sinh học còn đặt những câu hỏi thiết thân hơn nữa với

triết học

. Sự sống do đâu mà có,

con người

từ đâu sinh ra và sẽ đi về đâu – đó là những câu hỏi

xưa nay

của

nhân loại

trong

triết học

và ngày nay bỗng nhiên

trở thành

then chốt

trong sinh học. Sự

khám phá

ra bộ gen người (Genom) hứa hẹn một điều rất

thú vị

. Với Genom, người ta nghĩ rằng đã

tìm ra

được tất cả những chữ cái và sẽ đọc được cuốn sách về sự sống, được viết nên bằng những chữ cái đó. Nhiều người vội cho rằng Genom là nguồn gốc của sự sống cũng như các hạt cơ bản là nguồn gốc của

mọi vật

chất trong ngành

vật lý

của thế kỷ trước. Thế nhưng nếu trong ngành

vật lý

đã có một sự bừng tỉnh lớn lao rằng, hạt cơ bản

xem ra

cũng chỉ là dạng

xuất hiện

của một

thực tại

khác, chúng

xuất hiện

tùy theo

cách

quan sát

của

con người

, thì trong ngành sinh vật người ta chưa biết Genom là nguồn gốc của mọi sự sống hay

bản thân

Genom cũng chỉ là dấu vết của một

thực tại

khác. Thế kỷ 21 có lẽ sẽ

trả lời

câu hỏi đó và nhiều nền

triết học

phương Đông có thể có những

giải đáp

quan trọng. 

Một hệ quả của sự

thành tựu

trong ngành sinh vật hiện nay là khả

năng nhân

bản của

con người

bằng cách

sử dụng

gen người, cho nó tự

phân chia

, không cần đến sự thụ

tinh thông

thường. Đó là

lý do

mà sự sinh sản đó được mệnh danh là “vô tính”. Mặc dù hiện nay người ta chỉ

nhân bản

các

động vật

như bò, trừu nhưng khả

năng nhân

bản

con người

là hầu như

chắc chắn

trong tương lai không xa. Câu hỏi đầu tiên và

then chốt

được đặt ra là,

con người

được

nhân bản

đó là “ai”, nó là một hay khác với

con người

“bản chính”. Người ta phải đối xử thế nào, nếu một ngày nọ có một Hitler đi dạo trên đường phố Paris? 

Không phải chỉ

hình ảnh

Hitler mới làm ta thấy “rùng rợn” mà chỉ

hình dung

về một

con người

bình thường

thứ hai giống như bản chính như hai giọt nước đủ gây

hãi hùng

trong

chúng ta

. Tôn

Hành Giả

thổi sợi lông

biến thành

hàng ngàn con khỉ khác chỉ gây

thú vị

trong

Tây Du Ký

của

Ngô Thừa Ân

nhưng

tốt hơn

nó nên dừng tại đó. Vì lẽ đó mà nhiều nơi trên

thế giới

đều

chống lại

chuyện

nhân bản

con người

. Thế nhưng ngoài sự

sợ hãi

chung chung, có hai loại

tư tưởng

chính trong việc

phản đối

. Một là,

tư tưởng

thần học

cho rằng chỉ có

Thượng Đế

hay Chúa mới làm chủ được sự sống,

con người

không được phép giành lấy quyền

sáng tạo

sự sống của Chúa. Hai là,

tư tưởng

duy vật

cho rằng,

con người

nhân bản

là một, là đồng nhất với

con người

bản chính, vì

tâm thức

là sản phẩm của cơ thể. Có kẻ trong giới đó cho rằng cơ thể “tiết” ra

tâm thức

cũng như não tiết ra

tư tưởng

, như gan tiết ra mật. Vì thế

tâm thức

con người

bản sao sẽ là một với

con người

bản chính.

Đáng sợ

thay! Vì thế mà nếu có

nhân bản

thì không ai

sáng tạo

Hitler cho mang họa mà người ta sẽ tạo ra một Einstein để

mọi người

được nhờ. Cũng vì nghĩ thế mà nhiều người muốn

nhân bản

chính mình vì “mình” sẽ được sống ngàn năm. 

blank

Con người

nhân bản

là “ai”? Đó là một câu hỏi không

đơn giản

. Người viết bài này tự

tìm cách

trả lời

bằng cách lục lại kinh sách của

thánh nhân

biết trước

rằng

vấn đề

này có lẽ sẽ không bao giờ có một lời giải chung quyết. 

– Này

A Nan

, ta đã nói, có Thức mới có

Danh Sắc

. Nói như thế tức là: nếu Thức không lọt vào lòng mẹ, thì trong bụng người mẹ đó có

Danh Sắc

sinh ra chăng? 

-Bạch

Thế Tôn

, không. (

“Danh Sắc” là từ chỉ chung là hai

yếu tố

tâm lý

vật lý

mà nếu nói

chi tiết

chính là

ngũ uẩn

.

Danh Sắc

yếu tố

thứ tư trong

mười hai nhân duyên

và do

yếu tố

thứ ba, Thức, sinh ra. Không có Thức thì không có

Danh Sắc

. Một

bào thai

muốn

thành hình

thì phải cần “tinh cha huyết mẹ” làm cơ sở

vật chất

và một Thức sẵn sàng

tham dự

vào

đời sống

tương lai. 
“Cha mẹ giao hợp

với nhau

và người mẹ đã đến thời, nhưng

nếu không

có một thức sẵn sàng

gia nhập

thì không có thai nhi” (

Trung Bộ Kinh

, 38). 

Như thế tinh cha huyết mẹ chỉ là cái khung

vật chất

để Thức có thể nương tựa. Còn Thức nào sẽ “tham dự” vào đó và tại sao nó

tham dự

là một

vấn đề

nằm ngoài khả năng

suy luận

của người

bình thường

. Thế thì

thai nhi

là “ai”? Ta có thể hiểu một cách sơ sài Thức đó là một nguồn

năng lực

có tính

cá thể

và có đủ “nhân duyên” với

cha mẹ

để “đợi” thời điểm đó mà

tham gia

vào và

trở thành

thai nhi

. Điều quan trọng nhất có lẽ là giữa

nghiệp lực

của

cha mẹ

và của Thức phải có một mối quan hệ rất

sâu xa

vì Thức sẽ lấy

máu mủ

của

cha mẹ

làm cơ thể của mình và lớn lên trong môi trường sống do

cha mẹ

tạo ra. 

Vì lẽ đó mà trong

quan điểm

của

đạo Phật

, việc sinh con đẻ cái là một quá trình

kỳ diệu

của

nghiệp lực

. Đó không hề là một chuyện tầm thường, càng không phải là một điều

tình cờ

, kết quả

vô ý thức

của hành động

tính dục

.

Thai nhi

không phải do

cha mẹ

sinh ra mà thông qua

cha mẹ

để đến với

thế giới

con người

.

Thai nhi

không phải là một tờ giấy trắng để

cha mẹ

có thể vẽ lên đó những gì mình muốn mà nó đã mang

kinh nghiệm

năng lực

của một

quá khứ

vô thủy

. Vì thế con cái có thể « già giặn » hơn

cha mẹ

rất nhiều. Nó cần tinh huyết và sự

nuôi dưỡng

của

cha mẹ

vì giữa ba

con người

đó có một mối

liên hệ

về nghiệp mà thường cả ba đều không biết và chỉ có

thánh nhân

như Phật mới thấy rõ. 

Trong kinh sách

đạo Phật

, nhất là trong “Tử thư Tây Tạng” 

2

 , ta còn

tìm thấy

những

mô tả

cảnh tượng

lúc Thức bị

nghiệp lực

lôi kéo vào bụng mẹ và những gì mà nó cảm nhận trong lúc Thức

gia nhập

vào

thân thể

thai nhi

. Thế nhưng những điều này không phải là đối tượng của bài này. Điều cần

xác nhận

nơi đây là, một

thai nhi

chỉ

thành hình

khi có Thức

gia nhập

và máu huyết của

cha mẹ

chỉ là phần sắc thể của sinh vật. 

Xuất phát

từ điều đó, ta hãy thử xét điều gì xảy ra khi phôi người

nhân bản

hình thành và nếu tế bào tí hon đó phát triển thành người thật thì nó có quan hệ thế nào với

con người

bản chính. Như đã nói ở trên, sự hình thành

thai nhi

trong

điều kiện

bình thường

vốn đã

hết sức

kỳ diệu

và cơ chế đích thực của nó nằm ngoài khả năng

tư duy

của

chúng ta

. Vì thế dùng

tư duy

để

tìm hiểu

quá trình của sự

nhân bản

con người

– một

vấn đề

hoàn toàn

mới mà kinh sách chưa hề đề cập đến – lại càng là một điều bất khả. Bài này chỉ có chút

hy vọng

tìm hiểu

vài khía cạnh thuộc về

phạm vi

suy luận

của câu hỏi lớn này. 

Trước hết có lẽ cần

quan niệm

rằng, động tác của nhà sinh vật khi đưa gen người vào một trứng có thể được xem là hành động “tạo cơ sở vật chất” cho

một sinh

vật. Dù đây là

thành tựu

to lớn của ngành sinh vật nhưng về

ý nghĩa

thì đây “chỉ” là hành động thay tinh cha huyết mẹ của

thai nhi

thông thường bằng một gen người có sẵn. Thế nhưng, muốn nó

trở thành

sinh vật – dù đó là

thú vật

, phôi người để

trở thành

các tế bào chuyên môn hay thậm

chí thành

một

con người

bản sao – thì ngoài các

điều kiện

môi trường của phòng thí nghiệm,

nhất thiết

phải có một Thức “chịu”

tham gia

. Nếu dùng từ “nhân duyên” để

soi sáng

thì “duyên” là các

điều kiện

và khả năng kỹ thuật của nhà sinh vật, còn “nhân” chính là một Thức sẵn sàng

gia nhập

. Nơi đây khả năng

lý luận

của

chúng ta

đã bị

chận đứng

vì không ai biết rõ Thức

tái sinh

nơi đây là gì, nhưng

xem ra

không phải dễ tìm được một Thức như thế vì chỉ

sáng tạo

con cừu Dolly thôi mà người ta phải thử gần 300 lần

nhân bản

. Người ta cho rằng xác suất để

thành hình

một

con người

nhân bản

sẽ khó hơn gấp bội lần,

thai nhi

sẽ sớm chết trong bụng mẹ. 

đạo Phật

cho ta biết rằng,

nghiệp lực

của Thức

tái sinh

sẽ “lựa chọn”

cha mẹ

hoàn cảnh

sống, từ đó mà chịu hay không chịu

tham gia

vào một “cơ sở vật chất” – tức là tinh cha huyết mẹ trong

trường hợp

thông thường và gen người được cấy vào trứng trong

trường hợp

nhân bản

. Mặt khác, Thức, tức là

năng lực

sống mang tính

cá thể

, vốn tràn đầy trong

đại thiên thế giới

, nên ở đâu cũng có sự sống

xuất hiện

, nơi nào có

điều kiện

sống là có sinh vật.

Đạo Phật

quan niệm

mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức

tương ứng

: cấp

vi trùng

vi khuẩn

cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật

cũng thế

,

cho đến

thú vật

con người

, đến các loài khác mà

con người

không thể trông thấy. Vì thế mà sinh vật có

thiên hình vạn trạng

, được sinh ra trong bốn cách, loài sinh con, loài sinh trứng, loài sinh trong chỗ ẩm ướt và loài

hóa sinh

Như thế thì ta không lấy làm lạ nếu có những sinh vật sẽ phát sinh từ phép

nhân bản

, dù sinh vật đó là loài thú hay chỉ những tế bào có tính chuyên môn mà

con người

hiện đang

hy vọng

dùng để chữa bệnh. Và nếu ngày nào đó có cả một

con người

hẳn hoi

sinh ra từ sự

nhân bản

thì ngoài cái

rùng mình

sợ hãi

ban đầu

, ta cần xem đó là một

con người

bình thường

như

chúng ta

. Đó là một người mà tinh cha huyết mẹ đã được thay bằng bộ gen của người bản chính và, đây là điều quan trọng nhất, đã có một Thức

tái sinh

tham gia

vào sự

sáng tạo

này, cũng như một Thức đã

gia nhập

vào bụng mẹ lúc tượng hình

thai nhi

. Thế nên, người

trả lời

được

thai nhi

là «ai» thì sẽ

trả lời

được

con người

nhân bản

là ai. Hai câu hỏi đó chỉ là một và trong

chúng ta

xem ra

ít có người biết câu

giải đáp

Con người

bản sao sẽ rất giống với

con người

bản chính vì cùng một bộ gen, nhưng

tâm thức

người đó không phải là

tâm thức

của

con người

bản chính. Nó cũng có một

quá khứ

xa xôi riêng biệt của nó với tất cả những

năng lực

kinh nghiệm

mang theo

. Thế nhưng giữa nó và

con người

bản chính hẳn phải có một

nghiệp lực

vô cùng

kỳ lạ vì nó sẽ giống với người đó một cách khủng khiếp, giống hơn hẳn hai trẻ sinh đôi cùng một trứng. Giữa hai

con người

, nơi đây ta tạm gọi là bản sao và bản chính, phải có một mối

liên hệ

về nghiệp mà

tư duy

chúng ta

không bao giờ tiếp cận nổi. 

Khác với

quan niệm

thần học

,

đạo Phật

không thấy có một ai nắm quyền làm

chủ sự

sống mà sự sống là khả năng nội tại nằm trong mỗi sinh vật. Khác với

quan niệm

duy vật

,

đạo Phật

thấy Thức

tái sinh

năng lực

chủ động tạo tác thân người và cơ thể chỉ là

phương tiện

cho

tâm thức

nương tựa và

thực hiện

trách nhiệm

của mình, cho dù nó

thực hiện

một cách có

ý thức

hay

vô ý thức

. «Tâm

dẫn đầu

các pháp» 3, dù «pháp» ở đây là một

thai nhi

hình thành trong

tình trạng

bình thường

hay thông qua một thủ thuật của

con người

Đến đây

độc giả

sẽ có người sốt ruột hỏi, thế thì

đạo Phật

cho phép

hay không

cho phép

thi hành

phương pháp

nhân bản

. Bài này không dám có

tham vọng

trả lời

một câu

hỏi đạo

đức như thế, nó chỉ muốn nêu lên vài khía cạnh hẳn còn sơ sài của

vấn đề

. Thế nhưng thông qua những

suy nghĩ

trên đây, một

yếu tố

khác

hiện ra

rõ nét. Đó là việc sinh con đẻ cái trong

tình trạng

bình thường

không hề là một chuyện tầm thường. Đó là sự

hiện hành

của một mối

nghiệp lực

sâu xa

, là sự

sáng tạo

một sinh

vật với

thể chất

tâm thức

, một bên là của

cha mẹ

, một bên là của sinh vật mới, hòa quyện

với nhau

trong

một thể

Danh Sắc

thiêng liêng

không gì sánh được. 

Nếu

con người

biết kính sợ trước

tác động

huyền diệu

của

nghiệp lực

, biết

cẩn trọng

với một

thai nhi

được tạo hình trong

điều kiện

bình thường

thì

con người

được quyền bắt tay làm những thủ thuật để sinh vật mới mẻ ra đời. Nếu

con người

chưa hiểu ngộ những điều đó, chưa vươn tới mức

đạo lý

đó, chưa biết quí trọng sự sống, dù của sinh vật bé nhỏ nhất, thì

tốt hơn

hãy thối lui, hãy học lại những bài học vỡ lòng về đạo đức”.
Nguyễn Tường Bách (2-12-2001)

1. Xem thêm «The Tao of physics» của Fritjof Capra / 2. The Tibetan bookof the Dead (Bardo Thodol) của Evans Wentz / 3. Lời trong

kinh Pháp Cú

Từ một góc nhìn khác, kinh sáchcho ta biết rằng,của Thứcsẽ “lựa chọn”vàsống, từ đó mà chịu hay không chịuvào một “cơ sở vật chất” – tức là tinh cha huyết mẹ trongthông thường và gen người được cấy vào trứng trong. Mặt khác, Thức, tức làsống mang tính, vốn tràn đầy trong, nên ở đâu cũng có sự sống, nơi nào cósống là có sinh vật.mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức: cấpcũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vậtvà, đến các loài khác màkhông thể trông thấy. Vì thế mà sinh vật có, được sinh ra trong bốn cách, loài sinh con, loài sinh trứng, loài sinh trong chỗ ẩm ướt và loàiNhư thế thì ta không lấy làm lạ nếu có những sinh vật sẽ phát sinh từ phép, dù sinh vật đó là loài thú hay chỉ những tế bào có tính chuyên môn màhiện đangdùng để chữa bệnh. Và nếu ngày nào đó có cả mộtsinh ra từ sựthì ngoài cái, ta cần xem đó là mộtnhư. Đó là một người mà tinh cha huyết mẹ đã được thay bằng bộ gen của người bản chính và, đây là điều quan trọng nhất, đã có một Thứcvào sựnày, cũng như một Thức đãvào bụng mẹ lúc tượng hình. Thế nên, ngườiđượclà «ai» thì sẽđượclà ai. Hai câu hỏi đó chỉ là một và trongít có người biết câubản sao sẽ rất giống vớibản chính vì cùng một bộ gen, nhưngngười đó không phải làcủabản chính. Nó cũng có mộtxa xôi riêng biệt của nó với tất cả nhữngvà. Thế nhưng giữa nó vàbản chính hẳn phải có mộtkỳ lạ vì nó sẽ giống với người đó một cách khủng khiếp, giống hơn hẳn hai trẻ sinh đôi cùng một trứng. Giữa hai, nơi đây ta tạm gọi là bản sao và bản chính, phải có một mốivề nghiệp màkhông bao giờ tiếp cận nổi.Khác vớikhông thấy có một ai nắm quyền làmsống mà sự sống là khả năng nội tại nằm trong mỗi sinh vật. Khác vớithấy Thứclàchủ động tạo tác thân người và cơ thể chỉ làchonương tựa vàcủa mình, cho dù nómột cách cóhay. «Tâmcác pháp» 3, dù «pháp» ở đây là mộthình thành tronghay thông qua một thủ thuật củaĐến đâysẽ có người sốt ruột hỏi, thế thìhay không. Bài này không dám cómột câuđức như thế, nó chỉ muốn nêu lên vài khía cạnh hẳn còn sơ sài của. Thế nhưng thông qua nhữngtrên đây, mộtkhácrõ nét. Đó là việc sinh con đẻ cái trongkhông hề là một chuyện tầm thường. Đó là sựcủa một mối, là sựvật vớivà, một bên là của, một bên là của sinh vật mới, hòa quyệntrongkhông gì sánh được.Nếubiết kính sợ trướccủa, biếtvới mộtđược tạo hình trongthìđược quyền bắt tay làm những thủ thuật để sinh vật mới mẻ ra đời. Nếuchưa hiểu ngộ những điều đó, chưa vươn tới mứcđó, chưa biết quí trọng sự sống, dù của sinh vật bé nhỏ nhất, thìhãy thối lui, hãy học lại những bài học vỡ lòng về đạo đức”.Nguyễn Tường Bách (2-12-2001)

Thư Viện Hoa Sen

Vấn Đề Sinh Sản Vô Tính – Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức

Bài đọc thêm:

“Gần đây, một công ty tại Mỹ vừađãtrong việc tạo phôi ngườiđầu tiên (human cloning). Vớinày người tađi mộttrong việc tạo các tế bào gốc củaCông ty nọ, họ chỉ muốnnày để chữa bệnh chứ không nhằmtạo nên mộtđược. Sau khi tin này được, một loạtcũng được, chủ yếu cũng nhắm đến việc chữa bệnh cho. Dù thế,trênđều, cho rằng việc tạo phôi ngườilà đi ngược lại “các nguyên tắc đạo đức”, dù chỉnó vì những. Người ta tin rằng, không sớm thì muộn,thông qua kỹ thuật sinh sảnsẽ hình thành.khoa học, hầu như chưa có một bước đột phá nào gây nhiềuvà tranh cãi như sự việc này. Nhiều người nghĩ ngay đến một“rùng rợn”, trong đóđược chế tạo như những món hàngnhau chạy ra từ một băng chuyền. Ngược lại cũng có nhiều người vội nghĩ tớibản chính mình để sống đời này qua kiếp khác. Có kẻnghĩ tới khả năng sao chép nhữngcủađể họchohàng trăm năm sau đó. Cũng có người chủ trươngchỉ để có một “kho” lưu chứa phụ tùng thay thế tim óc và các bộ phận, một khi chúng bịhay bệnh tật hủy phá.Tất cả những điều kể trên không còn là chuyện khoatưởng trong thế kỷ 21 của. Những điều đó có lẽ sẽđượchay khônggiản đơn là lĩnh vực sinh học này quáđầu ócvốn say mênhững điều mới mẻ.nó sẽ mang nguồn lợi tài chánhcho những kẻ đivà đây sẽ làchủ chốt.Ngành sinh học của thế kỷ 21 đang đứng trước một quá trình phát triển. Trong thế kỷ 20, ngànhcũng có một giai đoạn. Với sự phát hiện củatrong những năm đầu và thuyết lượng tửnhững năm 30, thế kỷ 20 đã làm một cuộctrong ngành, đã thống nhất nhiều khái niệm tưởng chừng như, để đưacủa thế kỷ thứ 19 từ một mức độ “trung bình” củađến mức bao quát, gồm chứa cả nhữngcực nhỏ của các hạt cơ bản đến nhữngcực đại của các thiên hà. Quan trọng nhất là nềnđã đưa thẳngđi đến cửa ngõ của, trong đó nhiều nhàkhẳng địnhdườngphải là một đối tượng “độcnó” mà là sự cảm nhận củavề mộtkhác.chỉ là dạngcủađó trongcủa. Vì lẽ đó, sự phát triển của ngànhtrong thế kỷ 21 sẽ mang nhiều”tâm linh” mà sự đồng qui của nó vớiphương Đông, nhất là với, đã được nhiều ngườiKhi những đối tượngthuộc”vô sinh” nhưmà đã dẫn đến nhữngthuộc vềcủa “ý thức” thì ta có thể dễ dàngngành sinh học còn đặt những câu hỏi thiết thân hơn nữa với. Sự sống do đâu mà có,từ đâu sinh ra và sẽ đi về đâu – đó là những câu hỏicủatrongvà ngày nay bỗng nhiêntrong sinh học. Sựra bộ gen người (Genom) hứa hẹn một điều rất. Với Genom, người ta nghĩ rằng đãđược tất cả những chữ cái và sẽ đọc được cuốn sách về sự sống, được viết nên bằng những chữ cái đó. Nhiều người vội cho rằng Genom là nguồn gốc của sự sống cũng như các hạt cơ bản là nguồn gốc củachất trong ngànhcủa thế kỷ trước. Thế nhưng nếu trong ngànhđã có một sự bừng tỉnh lớn lao rằng, hạt cơ bảncũng chỉ là dạngcủa mộtkhác, chúngcáchcủa, thì trong ngành sinh vật người ta chưa biết Genom là nguồn gốc của mọi sự sống hayGenom cũng chỉ là dấu vết của mộtkhác. Thế kỷ 21 có lẽ sẽcâu hỏi đó và nhiều nềnphương Đông có thể có nhữngquan trọng.Một hệ quả của sựtrong ngành sinh vật hiện nay là khảbản củabằng cáchgen người, cho nó tự, không cần đến sự thụthường. Đó làmà sự sinh sản đó được mệnh danh là “vô tính”. Mặc dù hiện nay người ta chỉcácnhư bò, trừu nhưng khảbảnlà hầu nhưtrong tương lai không xa. Câu hỏi đầu tiên vàđược đặt ra là,đượcđó là “ai”, nó là một hay khác với”bản chính”. Người ta phải đối xử thế nào, nếu một ngày nọ có một Hitler đi dạo trên đường phố Paris?Không phải chỉHitler mới làm ta thấy “rùng rợn” mà chỉvề mộtthứ hai giống như bản chính như hai giọt nước đủ gâytrong. Tônthổi sợi lônghàng ngàn con khỉ khác chỉ gâytrongcủanhưngnó nên dừng tại đó. Vì lẽ đó mà nhiều nơi trênđềuchuyện. Thế nhưng ngoài sựchung chung, có hai loạichính trong việc. Một là,cho rằng chỉ cóhay Chúa mới làm chủ được sự sống,không được phép giành lấy quyềnsự sống của Chúa. Hai là,cho rằng,là một, là đồng nhất vớibản chính, vìlà sản phẩm của cơ thể. Có kẻ trong giới đó cho rằng cơ thể “tiết” racũng như não tiết ra, như gan tiết ra mật. Vì thếbản sao sẽ là một vớibản chính.thay! Vì thế mà nếu cóthì không aiHitler cho mang họa mà người ta sẽ tạo ra một Einstein đểđược nhờ. Cũng vì nghĩ thế mà nhiều người muốnchính mình vì “mình” sẽ được sống ngàn năm.là “ai”? Đó là một câu hỏi không. Người viết bài này tựbằng cách lục lại kinh sách củavàrằngnày có lẽ sẽ không bao giờ có một lời giải chung quyết.- Này, ta đã nói, có Thức mới có. Nói như thế tức là: nếu Thức không lọt vào lòng mẹ, thì trong bụng người mẹ đó cósinh ra chăng?-Bạch, không. (

Trường Bộ Kinh, 15

).”Danh Sắc” là từ chỉ chung là haivàmà nếu nóichính làlàthứ tư trongvà dothứ ba, Thức, sinh ra. Không có Thức thì không có. Mộtmuốnthì phải cần “tinh cha huyết mẹ” làm cơ sởvà một Thức sẵn sàngvàotương lai.”Cha mẹ giao hợpvà người mẹ đã đến thời, nhưngcó một thức sẵn sàngthì không có thai nhi” (, 38).Như thế tinh cha huyết mẹ chỉ là cái khungđể Thức có thể nương tựa. Còn Thức nào sẽ “tham dự” vào đó và tại sao nólà mộtnằm ngoài khả năngcủa người. Thế thìlà “ai”? Ta có thể hiểu một cách sơ sài Thức đó là một nguồncó tínhvà có đủ “nhân duyên” vớiđể “đợi” thời điểm đó màvào và. Điều quan trọng nhất có lẽ là giữacủavà của Thức phải có một mối quan hệ rấtvì Thức sẽ lấycủalàm cơ thể của mình và lớn lên trong môi trường sống dotạo ra.Vì lẽ đó mà trongcủa, việc sinh con đẻ cái là một quá trìnhcủa. Đó không hề là một chuyện tầm thường, càng không phải là một điều, kết quảcủa hành độngkhông phải dosinh ra mà thông quađể đến vớikhông phải là một tờ giấy trắng đểcó thể vẽ lên đó những gì mình muốn mà nó đã mangvàcủa một. Vì thế con cái có thể « già giặn » hơnrất nhiều. Nó cần tinh huyết và sựcủavì giữa bađó có một mốivề nghiệp mà thường cả ba đều không biết và chỉ cónhư Phật mới thấy rõ.Trong kinh sách, nhất là trong “Tử thư Tây Tạng”, ta cònnhữnglúc Thức bịlôi kéo vào bụng mẹ và những gì mà nó cảm nhận trong lúc Thứcvào. Thế nhưng những điều này không phải là đối tượng của bài này. Điều cầnnơi đây là, mộtchỉkhi có Thứcvà máu huyết củachỉ là phần sắc thể của sinh vật.từ điều đó, ta hãy thử xét điều gì xảy ra khi phôi ngườihình thành và nếu tế bào tí hon đó phát triển thành người thật thì nó có quan hệ thế nào vớibản chính. Như đã nói ở trên, sự hình thànhtrongvốn đãvà cơ chế đích thực của nó nằm ngoài khả năngcủa. Vì thế dùngđểquá trình của sự- mộtmới mà kinh sách chưa hề đề cập đến – lại càng là một điều bất khả. Bài này chỉ có chútvài khía cạnh thuộc vềcủa câu hỏi lớn này.Trước hết có lẽ cầnrằng, động tác của nhà sinh vật khi đưa gen người vào một trứng có thể được xem là hành động “tạo cơ sở vật chất” chovật. Dù đây làto lớn của ngành sinh vật nhưng vềthì đây “chỉ” là hành động thay tinh cha huyết mẹ củathông thường bằng một gen người có sẵn. Thế nhưng, muốn nósinh vật – dù đó là, phôi người đểcác tế bào chuyên môn hay thậmmộtbản sao – thì ngoài cácmôi trường của phòng thí nghiệm,phải có một Thức “chịu”. Nếu dùng từ “nhân duyên” đểthì “duyên” là cácvà khả năng kỹ thuật của nhà sinh vật, còn “nhân” chính là một Thức sẵn sàng. Nơi đây khả năngcủađã bịvì không ai biết rõ Thứcnơi đây là gì, nhưngkhông phải dễ tìm được một Thức như thế vì chỉcon cừu Dolly thôi mà người ta phải thử gần 300 lần. Người ta cho rằng xác suất đểmộtsẽ khó hơn gấp bội lần,sẽ sớm chết trong bụng mẹ.

Nghiên cứu tế bào gốc, đạo đức sinh học và Phật học (Thích Trung Định dịch)

Sinh sản vô tính và Đạo Phật (Nguyễn Tường Bách) 
Đạo Phật Trước Những Vấn Đề Sinh Đạo Đức (Bioethique) – Trịnh Nguyên Phước