Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

Bạn đang xem

20 trang mẫu

của tài liệu “Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kĩ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

ự hứng thú của trẻ. 
Các giáo viên đều có kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ. Các cô đều 
nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ có khả năng sáng tạo, tổ chức cho trẻ chơi hàng 
ngày. 
Về đội ngũ giáo viên 
- Tổng số cán bộ, giáo viên và nhân viên là 33 CBGVNV trong đó có: 2 
cán bộ quản lý; 29 giáo viên; 1nhân viên kế toán, 1 nhân viên y tế. 
- Trình độ đạt chuẩn: 33/33=100%. 
- Trình độ trên chuẩn: 30/33=90%. 
- Khối 3-4 tuổi có 4 nhóm lớp với 8 giáo viên đứng lớp. 
5 
- Lớp 3-4 tuổi C có 2 giáo viên đứng lớp đạt trình độ trên chuẩn có bằng: 
Đại học sư phạm mầm non. 
Nhóm lớp: 17 nhóm lớp trong đó : Nhà trẻ: 3 nhóm lớp 
 Mẫu giáo: 14 nhóm lớp 
Trẻ 
- Khối 3 tuổi có 4 lớp có tổng số trẻ là 105 trẻ (Nam: 47 trẻ; Nữ: 58 trẻ) 
- Lớp 3-4 tuổi C có tổng số trẻ: 27 trẻ trong đó: Trẻ nam: 10 trẻ 
 Trẻ nữ: 17 trẻ 
 * Khó khăn 
Khả năng nhận thức của trẻ trong lớp không đồng đều, có một số trẻ nói 
vẫn chưa thạo, ngôn từ chưa phong phú nên gây khó khăn trong việc thể hiện ý 
muốn của mình đối với cô giáo. Nhiều trẻ khả năng tự phục vụ còn rất yếu, còn 
rụt rè, nhút nhát. Bên canh đó còn một số trẻ nghe nhưng chưa hiểu được các 
yêu cầu của cô, thích làm theo ý mình nên gây khó khăn trong việc rèn nề nếp 
cho trẻ. 
Nhiều phụ huynh chưa hiểu và quan tâm đến việc giáo dục rèn kĩ năng tự 
phục vụ cho trẻ. Gây khó khăn trong viếc phối hợp giữa giáo viên và gia đình, 
để giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ. 
Tôi đã tiến hành khảo sát khả năng tự phục vụ của trẻ ngay từ đầu năm 
học, kết quả nhận được như sau: 
Bảng 1: Kết quả các cháu tự phục vụ trong lớp 
ST
T 
Số 
trẻ 
Nội dung khảo sát 
Đạt Chưa đạt 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
% 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
% 
1 
27 
Tự lấy nước, cầm cốc uống 9 33% 18 67% 
2 Tự xúc cơm 10 37% 17 63% 
3 Tự cất bát, ghế sau khi ăn 9 33% 18 67% 
4 Tự cởi, mặc quần áo 8 30% 19 70% 
5 Tự đội mũ 12 48% 15 52% 
6 Tự đeo tất 10 37% 17 63% 
7 Tự đeo giày, dép 9 33% 18 67% 
8 Tự cất gối sau khi ngủ dậy 8 30% 19 70% 
9 Tự cất đồ dùng cá nhân 9 33% 18 67% 
6 
10 Tự cất đồ dùng đồ chơi 7 26% 20 74% 
11 Tự vứt rác đúng nơi quy định 8 30% 19 70% 
12 Tự gấp quần áo 4 15% 22 85% 
13 Bài học lau bụi trên đồ dùng 9 33% 18 67% 
14 Bài học ứng xử khi ho, hắt hơi, xỉ 
mũi 
4 15% 22 85% 
15 Bài học đeo kính, đeo khẩu trang 10 37% 17 63% 
16 Bài học cầm đồ đưa cho người 
khác 
9 33% 18 67% 
17 Khả năng trẻ tự làm mà không cần 
cô nhắc nhở 
4 15% 22 85% 
* Qua bảng 1 cho ta thấy trẻ có kĩ năng tự phục vụ ở mức tỉ lệ % trẻ đạt 
rất thấp và tỉ lệ % trẻ chưa đạt ở mức rất cao. 
* Nguyên Nhân: 
Nguyên nhân thứ nhất: Xuất phát từ phía trẻ, có một số cháu do khả năng 
tiếp thu chậm hoặc không chịu tập trung nghe cô hướng dẫn điều nay dẫn đến 
cho giáo viên bực mình có thể mắng, phạt trẻ. Đối với những giáo viên có tâm 
thì có thể kiềm chế bản thân để hướng dẫn trẻ đến nơi đến chốn. Nhưng bên 
cạnh đó có những cô sợ mình kiềm chế không được đã để cho trẻ tự mày mò 
hoặc giúp trẻ luôn. Trong gia đình cũng vậy, cứ nghĩ con mình còn nhỏ chưa thể 
làm được hay làm cuống cuồng nên bố mẹ làm luôn cho nhanh, điều này cứ thế 
lâu dần dẫn đến hình thành ở trẻ thói quen ỷ lại, lười làm và không có kỹ năng 
tự phục vụ. 
Nguyên nhân thứ hai: Xuất phát từ giáo viên, do cô không chịu khó, 
không kiên trì hướng dẫn trẻ tự phục vụ nên cô hay làm giúp trẻ cho đỡ mất thời 
gian, đỡ phải bực tức khi trẻ không làm được. Việc này lâu dần dẫn đến hình 
thành ở trẻ thói quen ỷ lại, lười làm và không có kĩ năng tự phục vụ. Vì trẻ nghĩ 
“Mình không làm thì có người khác làm cho thôi” 
Nguyên nhân thứ ba: Do mỗi gia đình Việt Nam chỉ có 1 đến 2 con, tất cả 
những tình cảm bố mẹ dành trọn cho những đứa con yêu quý của mình, ngoài ra 
còn có những đứa trẻ là con cầu con khẩn nên được gia đình chiều chuộng hết 
mức. Trẻ luôn được đáp ứng ngay mọi yêu sách, mọi mong muốn của trẻ. Bố mẹ 
làm thay tất cả mọi việc vì sợ trẻ vất vả, sợ quá sức của con, sợ con làm không 
đúng ý mình, sợ mất thời gian,Điều này lâu dần hình thành thói quen ỷ lại, 
luôn dựa dẫm vào người khác, thiếu kiên nhẫn và lười lao động. Ngoài ra còn có 
vô số các nguyên nhân khác chủ quan hay khách quan đã làm cho trẻ thiếu kĩ 
năng và thói quen tự phục vụ. 
7 
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến 
7.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch 
Thời gian đầu, khi tôi mới nhận lớp tôi thấy khả năng nhận thức của trẻ 
chưa tốt, khả năng tự phục vụ còn hạn chế (Bảng 1). Có một số trẻ nói chưa tốt, 
chưa biết một số thói quen tự tự phục vụ đơn giản như các cháu khát nước chưa 
biết cách cầm cốc uống, chưa biết cách rót nước như thế nào cho khỏi đổ vào 
quần áo vẫn cần tới sự giúp đỡ của cô. Có một số trẻ có nhu cầu đi vệ sinh 
nhưng không biết cởi quần như thế nào và đã tè dầm ra quần , có một số trẻ thì 
chưa biết xúc cơm hoặc cầm thìa sai tay (Tay trái), trẻ ăn xong chưa biết cất bát 
hoặc ghế đúng nơi quy định, chưa biết đi giày, cất đồ dùng của mình vào tủ, 
không biết giúp đỡ bố mẹ, bạn bè, cô giáo những công việc vừa sức...Bên cạnh 
đó, còn một số trẻ nghe chưa kịp và chưa hiểu hiệu lệnh của cô “Các con hãy 
giúp cô lấy ghế về bàn ngồi”. Chính vì các con chưa hiểu nên không thực hiện 
được. Tuy nhiên có một số kĩ năng phục vụ rất tốt nhưng thiếu tính chủ động trẻ 
luôn chờ người lớn nhắc nhở thì trẻ mới tự làm. 
Ngày nay nội dung giáo dục kĩ năng tự phục vụ đã được chú trọng. Tuy 
nhiên việc giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ cần phải có thời gian và kiên 
trì để giúp trẻ tự phục vụ bản thân mình. 
Từ những nhận thức của mình về vấn đề giáo dục tự phục vụ bản thân cho 
trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi, tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công việc 
và để gặt hái được nhiều thành quả tốt nhất trong quá trình thực hiện nên tôi đã 
thực hiện ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát trẻ theo những kĩ năng 
cần thiết để giáo dục trẻ biết tự phục vụ bản thân mà tôi đã xác định ở trên 
(Bảng 1). 
7.2.2. Biện pháp 2: Phối hợp với phụ huynh 
Thường xuyên trao đổi thông tin giữa giáo viên và phụ huynh của trẻ. Giáo 
viên cần tìm hiểu thêm thông tin về trẻ từ phụ huynh: “Ở nhà cháu có hay giúp 
đỡ ông bà không? Cháu thích làm những việc gì giúp bố mẹ? Bố mẹ có để cho 
cháu tự phục vụ bản thân những việc vừa sức không? Đi giày dép, xếp quần áo 
của mình, tự xúc ăn...” 
Ngoài những việc tìm hiểu từ phụ huynh thì tôi thường xuyên phản hồi 
thông tin về trẻ cho phụ huynh nắm được. “Ở lớp cháu là người cháu là người 
như thế nào? Cháu có hay giúp đỡ cô không? Những việc trẻ làm tốt khi ở lớp” 
để phụ huynh tiếp tục khuyến khích cho cháu làm tốt ở nhà nhằm tạo thói quen 
tốt cho trẻ. 
Hình ảnh minh họa 
8 
Ảnh: Giáo viên trao đổi với phụ huynh về kĩ năng tự phục vụ trên lớp của 
trẻ 
Ngoài việc cổ vũ những cháu năng động tích cực phát huy khả năng, tôi 
còn chú ý đến những cháu chậm tiếp thu chưa tót, rụt rè. Tạo cơ hội để trẻ làm 
những việc vừa sức, hướng dẫn trẻ mọi lúc mọi nơi: “Con cứ làm đi, con làm 
được đấy, đừng sợ sai, cô không mắng đâu”. Khi hướng dẫn trẻ thì giọng nói 
của tôi cần nhẹ nhàng, chậm rãi, tạo sự gần gũi. Tránh những câu nói mệnh lệnh 
cứng nhắc: “Làm nhanh lên, làm thế này à, làm sai rồi.” 
Tôi không ngừng trau dồi năng lực chuyên môn, học hỏi bạn bè, đồng 
nghiệp tìm kiếm những phương pháp giảng dạy mới, áp dụng những biện pháp 
giáo dục linh hoạt nhằm rèn cho trẻ có nề nếp, kĩ năng sống, thói quen tự phục 
vụ tốt để đảm bảo trẻ được hoạt động một cách linh hoạt và chủ động. 
Khi hướng dẫn trẻ một kĩ năng nào đó, tôi hướng dẫn trẻ chậm dãi từng 
thao tác một. Khi trẻ đã nắm được thao tác này thì tôi mới chuyển sang thao tác 
khác. Tôi cho trẻ thực hiện thường xuyên, liên tục để trở thành kĩ năng, tạo cho 
trẻ cảm giác phấn khởi là mình cũng giỏi như bạn. Ví dụ: Đối với trẻ xúc ăn 
chưa thạo, ban đầu tôi sẽ chấp nhận cơm rơi vãi ra nhà hoặc đối với trẻ chưa biết 
cách uống nước tôi đổ một ít nước vào cốc và cho cháu uống, trẻ uống như thế 
nào tùy trẻ, lâu dần bản thân trẻ sẽ tự điều chỉnh tốt hơn do đã được trải nghiệm 
nhiều lần và đã có kinh nghiệm ở những lần thất bại trước. Để trẻ có được điều 
này thì chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi sự tiến bộ từng ngày của trẻ. 
9 
7.2.3. Biện pháp 3: Xây dựng môi trường với trọng tâm giáo dục kĩ 
năng tự phục vụ ngay tại gia đình 
Việc hướng dẫn và rèn luyện các kĩ năng tự phục vụ cho trẻ nếu chỉ có cô 
giáo và nhà trường thì không thể thành công mà phải có sự phối hợp của các 
thành viên trong gia đình trẻ như: Bố, mẹ, ông, bà, anh, chị, em.... 
Các thành viên trong gia đình luôn tạo cơ hội cho bé thấy các việc làm và 
cách thức làm việc của mình, đồng thời nên giải thích cho bé về việc đó (Dù bé 
có hiểu hay không). Sau đó khuyến khích trẻ tham gia vào công việc với khả 
năng của trẻ. Ví dụ: Mẹ đang nhặt rau để nấu canh, hãy bảo trẻ cùng làm hộ, sau 
đó mẹ hướng dẫn bé cách nhặt rau, mặc dù trẻ có thể làm chưa khéo, có thể rau 
sẽ bị dập nát nhưng hãy cho con làm để có cơ hội rèn luyện lòng yêu thích công 
việc cũng như có các kĩ năng làm việc ngay từ khi còn nhỏ. Có thể tích cực nhờ 
vặt trẻ để trẻ có nhiều cơ hội được làm việc thì trẻ mới có kĩ năng. Không nên có 
suy nghĩ đợi trẻ lớn mới dạy, thậm chí có thể dạy bé từ lúc 16 tháng, đừng sợ 
con làm hư hay làm vỡ mà làm thay cho con. 
Ảnh: Bé giúp mẹ nhặt rau 
10 
Ảnh: Bé giúp mẹ cất quần áo vào tủ 
7.2.4. Biện Pháp 4: Đặt mục tiêu hướng dẫn và rèn luyện những kĩ 
năng cần thiết 
Tôi hướng dẫn các cháu phát triển một số kĩ năng bổ trợ nhằm giúp trẻ phát 
triển hoàn thiện và có khả năng thích ứng trong mọi hoàn cảnh thực tế như: 
Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự chăm sóc bản thân. 
Hướng dẫn trẻ kĩ năng tự bảo vệ. 
Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng khéo léo, kiên trì. 
* Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng tự chăm sóc bản thân 
Việc trẻ tự chăm sóc bản thân là viên gạch đầu tiên xây nên tính tự tin, tự 
lập và ứng phó với những đòi hỏi khác. Ví dụ: Trẻ biết cách sắp quần áo thì sau 
này trẻ dễ áp dụng vào việc sắp xếp sách vở, đồ dùng đi học, khi đi làm trẻ sẽ 
sắp xếp công việc tốt hơn. 
Hình ảnh minh họa 
11 
Ảnh: Trẻ có kĩ năng gấp quần áo 
 Nếu trẻ không biết đi giày, không biết mặc quần áo cho chính mình thì 
trẻ cũng không biết làm điều đó với người khác. Dạy cho trẻ khả năng tự chăm 
sóc mình, ngoài việc tốt cho bản thân trẻ, trẻ tự chăm sóc bản thân cũng là cách 
giúp đỡ những người trong gia đình... 
Trẻ không tự chăm sóc mình thì sẽ không cảm nhận được sự vất vả khi 
làm việc và không biết thông cảm, thấu hiểu thì không có sự chia sẻ, gắn bó với 
những tình cảm mà người khác đã giành cho mình. 
Tự nhặt đồ chơi, tự cởi mặc quần áo, rửa mặt, rửa tay, đánh răng, tự đi dép, 
chuẩn bị mũ, áo khoác, khẩu trang ra ngoài, tự ăn, tự đi lên xuống cầu thang... 
Trẻ ở độ tuổi này hoàn toàn tự chăm sóc bản thân chính vì tôi chỉ cần 
khuyến khích, động viên trẻ trong những những buổi học đầu tiên đã làm trẻ có 
hứng thú với việc tự phục vụ cho bản thân mình. 
12 
Ảnh: Trẻ có kĩ năng đeo giày, đeo hài 
Ảnh: Trẻ có kĩ năng đội mũ, đeo khẩu trang 
13 
Ngay từ buổi đầu tiên đến trường, tôi hướng dẫn trẻ cất đồ dùng cá nhân 
đúng nơi quy định, hướng dẫn trẻ cách mặc quần áo, gấp áo. Công việc này cần 
phải có thời gian, đòi hỏi giáo viên phải kiên nhẫn, nhờ vậy mà sau gần một 
tháng trẻ hình thành thói quen trong việc tự chăm sóc bản thân mình. 
Ảnh: Trẻ cất dép đúng nơi quy định 
14 
 Trẻ biết đi vệ sinh đúng nơi quy định, biết gạt nước sau khi đi vệ sinh, 
biết bỏ rác đúng nơi quy định. Tôi hướng dẫn trẻ cách vệ sinh cá nhân: rửa tay, 
rửa mặt, đánh răng, dạy trẻ cách thực hiện an toàn vệ sinh cá nhân thông qua câu 
chuyện hoạt động cá nhân trên lớp 
Ảnh: Trẻ có kĩ năng rửa mặt 
Ảnh: Trẻ có kĩ năng rửa tay 
15 
Kĩ năng hỗ trợ người khác: Bật ti vi, bật quạt, chia bát cơm, chia thìa, lấy 
cốc uống nước, cất dép đúng nơi quy định, tưới cây nhặt cỏ, lau bàn, gấp chăn, 
cất gối, dọn dẹp bàn khi ăn xong... 
Ảnh: Trẻ có kĩ năng chia thìa 
Ảnh: Trẻ có kĩ năng cất ghế 
16 
* Hướng dẫn trẻ kĩ năng tự bảo vệ 
Để trẻ có kĩ năng tự phục vụ mình tốt hơn thì trẻ phải có kĩ năng tự bảo vệ 
Kĩ năng nhận biết nguy hiểm 
Dạy trẻ cách nhận biết đồng thời hành động với những hành động đúng và 
kịp thời bảo vệ bản thân qua các tình huống, các mối nguy hiểm trong nhà như: 
Ga, bàn là, điện, nước nóng, dao kéo. Các mối nguy hiểm ngoài xã hội: Quấy 
rối, bắt cóc, bắt nạt, trộm cắp, cướp, lạc đường,...Các mối nguy hiểm bất ngờ: 
Cháy nổ, chó cắn, ong đốt, ngộ độc...Các mối nguy hiểm về môi trường: Động 
đất, lũ lụt, bị xa vào vùng lầy, sông nước. 
 Kĩ năng tự xoay sở 
 Không phải những vấn đề trong cuộc sống được giải quyết một cách dễ 
dàng và bạn phải truyền đạt cho trẻ khi chúng đối mặt với thử thách lớn và 
không phải lúc nào cũng có người lớn bên cạnh giải quyết vấn đề. Khi gặp vấn 
đè nào đó tôi không thay trẻ giải quyết vấn đề, trừ trường hợp bắt buộc, tôi giúp 
trẻ tìm kiếm giải pháp thích hợp, điều này sẽ thể hiện sự tin tưởng của mình đối 
với trẻ có khả năng tự giải quyết vấn đề. Những việc hàng ngày tôi làm luôn 
nhằm khuyến khích kĩ năng giải quyết vấn đề của trẻ giúp trẻ có những sáng 
kiến tốt hơn trong cuộc sống khi chúng lớn lên.Tôi chỉ là chỗ dựa cho học sinh 
chứ không phải là người giải quyết vấn đề cho các con. 
 Hướng dẫn trẻ kĩ năng thích nghi 
 Thích nghi là một kĩ năng sống quan trọng vì nếu kĩ năng giao tiếp là 
bước đầu để tiếp xúc với môi trường bên ngoài, với những người xung quanh thì 
thích nghi chính là bước tiếp theo để có thể hòa nhập hoặc phản ứng lại với môi 
trường bên ngoài. Đứa trẻ nếu có kĩ năng giao tiếp có thể có được những thành 
công với những người xung quanh trong việc tham gia vào các hoạt động cùng 
họ. Thế nhưng nếu trẻ không có khả năng thích nghi thì cũng khó mà đạt được 
kết quả tốt cho cuộc sống của mình. 
 Kĩ năng thích nghi với các loại thức ăn: 
 Đối với trẻ có những sở thích hơi đặc biệt về ăn uống, chỉ thích ăn những 
thực phẩm nhất định, uống vài loại sữa hay nước uống nhất định điều đó thường 
là do chúng ta vô tình tập cho trẻ khi còn bé. Vì vậy, một mặt chúng ta vẫn tôn 
trọng những sở thích này nhưng vẫn tập cho trẻ ăn những loại thức ăn đa dạng. 
Các bữa ăn cho trẻ ở trường tôi luôn tạo không gian thoáng mát, hợp vệ 
sinh đảm bảo an toàn cho trẻ để trẻ ăn uống ngon miệng. 
Trước bữa ăn để tạo cảm giác ngon miệng và thích thú khi ăn, tôi giới thiệu 
các món ăn ngon và tác dụng của các loại thực phẩm mà trẻ ăn thật hấp dẫn và 
thu hút. 
17 
Ảnh: Giáo viên đang giới thiệu món ăn 
Bữa nào mà trẻ ăn ngon thì tôi gắn 1 khuôn mặt cười, bữa nào trẻ không tập 
trung ăn và ăn không hết xuất thì sẽ gắn khuôn mặt buồn vào bảng bé ngoan, 
đến cuối tuần tổng kết khen ngợi trẻ và tặng cho trẻ một món quà nho nhỏ. 
Nhưng nếu nhiều khuôn mặt buồn cũng không nên trách mắng mà tôi sẽ gần gũi, 
động viên, khiến khích trẻ tự xúc ăn hết xuất vào lần sau như: Cô biết là lần sau 
con sẽ làm tốt hơn. 
Ảnh: Trẻ được khen ngợi tặng quà 
18 
Kĩ năng thích nghi với môi trường: 
Với môi trường sống cũng thế, một môi trường bẩn thỉu không vệ sinh và ô 
nhiễm là không thể chấp nhận được, nhưng một không gian quá sạch cũng 
không phải là điều kiện tốt cho sự phát triển của trẻ. Trẻ có thể nghịch cát, đất, 
sỏi... trong một chừng mực vừa phải vì điều đó vừa giúp trẻ thỏa mãn được tính 
năng động , vừa nâng cao khả năng đề kháng. Dĩ nhiên là có sự giám sát của 
người lớn nhưng chúng ta chỉ can thiệp khi có dấu hiệu nguy hiểm , còn đối với 
vài cú vấp ngã thì để trẻ tự đứng lên, điều đó không chỉ giúp trẻ mạnh dạn tự tin 
hơn mà chúng ta còn tránh được sự mè nheo của trẻ. Quan điểm của tôi là rèn 
luyện cho trẻ tính chịu đựng trước khó khăn và phải tự lập chủ động trong mọi 
biến cố có thể xảy ra. Qua những bài rèn luyện thể chất rất ít trẻ mắc bệnh về 
đường hô hấp như: Sổ mũi, viêm họng...do thay đổi thời tiết. 
Ảnh: Trẻ chơi với cát 
Ảnh: Trẻ chơi với sỏi 
19 
Kĩ năng thích nghi với đám đông: 
Con người có hai loại tính đó là tính hướng nội và tính hướng ngoại, và 
trong mỗi loại tính cách đó lại có 4 nhóm cá tính khác nhau. Vì vậy tôi cho trẻ 
làm quen với đám đông, phải dựa trên tính cách của các trẻ tùy thuộc loại tính 
khí nào. Với trẻ hướng ngoại thì chúng ta không cần lo ngại vì trẻ thường có xu 
hướng thích đám đông, thích sự ồn ào vui vẻ, náo nhiệt, thích các hoạt động tập 
thể. Còn với trẻ hướng nội thì trẻ ngại tiếp xúc với đám đông có vẻ rụt rè, nhút 
nhát. Nhưng các bé cũng có ưu điểm để thành công đôi khi còn tốt hơn cả trẻ 
hướng ngoại nếu được sự định hướng đúng cách củ người lớn. Tôi giúp trẻ quen 
dần với đám đông qua việc cho trẻ tham gia giờ học dã ngoại, tham gia các giờ 
học ở trường, các buổi văn nghệ ngoại khóa.... 
Ảnh: Trẻ tham gia hoạt động ngoại khóa 
 Thói quen xếp hàng: Đây là thói quen mà hầu hết người lớn chúng ta 
không để ý đến khi tham gia vào các hoạt động chung. Nhưng hãy cố gắng và 
tập cho trẻ làm quen và đứng xếp hàng ngay ngắn ngay từ nhỏ để dần dần thay 
đổi được cách ứng xử kém văn hóa nơi công cộng là sự chen lấn nhau. 
Ở lớp tôi rèn cho trẻ thói quen xếp hàng (Không chen ngang, xô đẩy bạn...) khi 
tham gia vào một hoạt động nào đó như cùng nhau xếp hàng để tập thể dục sáng, 
đi thăm vườn vườn hoa... 
20 
Ảnh: Trẻ có thói quen biết đứng xếp hàng 
 Thói quen bỏ rác vào thùng rác: Ngay tại lớp học, tôi cho đặt thùng rác 
đúng nơi quy định để trẻ thấy việc bỏ rác là thói quen trong lớp, khi chơi ngoài 
sân trường cũng cần bỏ rác vào thùng rác công cộng để hình thành thói quen 
này. Thường xuyên nhắc nhở trẻ bỏ rác đúng nơi quy định. 
Ảnh: Trẻ tự bỏ rác đúng nơi quy định 
21 
 Thói quen biết xin lỗi, nói lời cảm ơn: Ngay từ bé chúng ta đã cho trẻ thấy 
cách ứng xử như vậy của người lớn và khi giao tiếp với trẻ, chính tôi cũng phải 
nói lời cảm ơn, xin lỗi trẻ như vậy trẻ sẽ cảm nhận được một cách tự nhiên các 
cách ứng xử này. 
Kĩ năng thích nghi là một trong những kĩ năng giúp một đứa trẻ bình 
thường không có những năng lực đặc biệt gì những vẫn có thể đạt được những 
thành công nhất định trong cuộc sống và không gục ngã trước những thách thức 
khi bước vào đời. 
* Hướng dẫn trẻ phát triển kĩ năng khéo léo, kiên trì 
Để trẻ có những kĩ năng tự phục vụ tốt, yêu cầu trẻ phải thật khéo léo và có 
tính kiên trì khi làm việc gì đó. Tôi luôn bên cạnh để gợi mở cho trẻ khi trẻ rất 
cố gắng mà vẫn chưa hoàn thành, tôi luôn đặt ra câu hỏi để trẻ tư duy vận dụng 
sự khéo léo cũng như kiên trì vào việc đang làm. Động viên khích lệ kịp thời khi 
trẻ đã làm tốt công việc được giao. Ví dụ: Tôi cho trẻ mặc áo cài cúc áo, trẻ loay 
hoay mãi chưa đóng được “Con phải cầm cúc áo như thế nào, con phải cho cúc 
áo vào đâu, đóng xong cúc áo thứ nhất có phải cài cúc áo nữa không, cô thấy 
con rất giỏi, con làm rất tốt”. Đối với trẻ nhút nhát, chưa làm được tôi sẽ tạo ra 
những chiếc áo có cúc áo dán bằng dấp dính, sau một thời gian tôi thay cho trẻ 
dóng bằng cúc to nhất với số lượng 2 cúc áo, tiếp theo là cúc nhỏ hơn và số 
lượng cúc áo cũng tăng dần lên. 
Ngoài ra tôi còn đưa ra một số bài học để giúp trẻ hứng thú hơn với kĩ năng 
tự phục vụ như: Bài học rót nước bình trong với cốc trong, bài học rót nước 
bình đục với cốc đục có tay cầm, bài học xúc hạt với thìa to, thìa nhỏ, bài học 
bốc chuyển hạt, bài học quét hót hạt đậu, bài học vắt nước với bọt biển.... 
Ảnh: Bài học cài cúc áo 
22 
Để giúp trẻ hình thành được những kĩ năng trên, tôi từng bước, từng bước 
mà thực hiện. 
Đối với trẻ chưa nói thạo, tôi sẽ nói chậm dãi khi hướng dẫn trẻ, dạy trẻ 
cách truyền đạt thông tin với cô giáo bằng các ra hiệu lệnh khi cần giúp đỡ. 
Song song đó tôi đưa các đề tài rèn kĩ năng tự phục vụ vào bài giảng hàng gày 
và tiếp tục rèn trẻ mọi lúc mọi nơi cho đến khi trẻ thuần thục. Và tôi sẽ cho trẻ 
thực hiện mỗi ngày để nó trở thành thói quen tốt của trẻ. Tận dụng các tình 
huống cụ thể để rèn kĩ năng cho trẻ, như thế trẻ mới nhớ lâu hơn. 
Tôi thường xuyên động v