Rối loạn chức năng phóng noãn – Phụ khoa và Sản khoa – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia

Thông thường, việc không phóng noãn mạn tính mà không phải là do tăng prolactin máu thì ban đầu được điều trị bằng chất kháng estrogen clomiphene citrate.

Clomiphene có hiệu quả nhất khi nguyên nhân là hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS). Clomiphene 50 mg uống một lầ/ngày được bắt đầu từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 sau khi xuất huyết; chảy máu có thể đã xảy ra tự nhiên hoặc đã được gây ra (ví dụ bằng progestin). Clomiphene được tiếp tục trong 5 ngày. Phóng noãn thường xảy ra từ 5 đến 10 ngày (trung bình 7 ngày) sau ngày cuối cùng của clomiphene; nếu sự rụng trứng xảy ra, thì kinh nguyệt sẽ kéo dài trong vòng 35 ngày kể từ khi xuất hiện triệu chứng chảy máu.

Nếu không có kinh, thử thai sẽ được thực hiện. Nếu người phụ nữ không mang thai, chu kỳ điều trị được lặp lại. Liều hàng ngày có thể tăng lên đến 50 mg mỗi chu kỳ đến tối đa 200 mg/liều khi cần thiết để gây phóng noãn. Việc điều trị được tiếp tục khi cần thiết cho tối đa 4 chu kỳ rụng trứng. Hầu hết phụ nữ mang thai đều làm như vậy vào chu kỳ thứ tư, chu kỳ có xảy ra rụng trứng. Sự phóng noãn xảy ra ở 75 đến 80% phụ nữ được điều trị bằng clomiphene, nhưng tỷ lệ có thai là 40 đến 50%.

Tác dụng phụ của clomiphene bao gồm rối loạn vận mạch (10%), chướng bụng (6%), căng vú (2%), buồn nôn (3%), các triệu chứng thị giác (1 đến 2%), và đau đầu (1 đến 2%). Mang đa thai Mang đa thai Mang đa thai là sự hiện diện của > 1 bào thai trong tử cung. Mang đa thai (đa thai) tỷ lệ xảy ra trong 1 đên 30 lần mang thai. Các yếu tố nguy cơ cho thai ngoài tử cung bao gồm: Kích thích… đọc thêm (chủ yếu sinh đôi) xảy ra ở khoảng 5%, và hội chứng tăng kích thích buồng trứng xảy ra ở ≤ 1%. Nang buồng trứng là phổ biến. Một mối liên hệ trước đây gợi ý rằng có mối liên hệ giữa clomiphene được dùng > 12 chu kỳ và ung thư buồng trứng vẫn chưa được xác nhận.

Không nên dùng clomiphene cho phụ nữ đang mang thai vì về mặt lý thuyết có thể gây dị tật bẩm sinh bộ phận sinh dục.