Quyền con người
Mục Lục
1 . Quyền con người là gì?
Là một khái niệm rộng lớn cho nên quyền con người cũng được nhiều tổ chức, quốc gia định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên đến nay, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu, theo đó quyền con người được định nghĩa như sau: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người”
Bên cạnh đó, nhân quyền còn được định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà kể từ khi sinh ra vốn đã được thiết lập mà khi trong cuộc sống nếu không được đảm bảo đầy đủ thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người.
Đó là về mặt quốc tế, còn tại Việt Nam, cũng có nhiều định nghĩa về quyền con người khác nhau được đưa ra bởi các chuyên gia và cơ quan nghiên cứu. Tuy nhiên điểm chung của những định nghĩa này đều gặp nhau ở cùng một quan điểm đó là được đáp ứng những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
2. Các quan điểm về khái niệm quyền con người:
Quyền con người, quyền công dân là những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân chủ, văn minh. Đây là vấn đề luôn dành sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và trên thế giới. Trong lịch sử ra đời và phát triển của nhân loại, có nhiều quan niệm về quyền con người được tiếp cận, xem xét và đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: Chính trị học, Triết học, Luật học, Văn học …. Chúng ta thấy rằng lịch sử ra đời và phát triển khoa học pháp lý của các nước trên thế giới, quyền con người bao gồm tổng hợp nhiều quyền năng cụ thể, phụ thuộc vào các quy định của pháp luật ở mỗi quốc gia.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, quan niệm về quyền con người đã hình thành từ rất sớm, kể từ khi xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp thì một trong những mục tiêu và động lực của các cuộc đấu tranh giai cấp đó chính là vấn đề quyền con người. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại vươn tới những lý tưởng cao đẹp, đấu tranh giải phóng con người nhằm xây dựng một xã hội thực sự công bằng, dân chủ, nhân đạo.
Ngày 10 tháng 12 năm 1948, bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” của Liên Hợp Quốc là văn bản đầu tiên của nhân loại đã công nhận con người có các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là mục tiêu lý tưởng chung nhất mà các quốc gia, dân tộc trên thế giới cần phải đạt tới và là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình thế giới. Đồng thời, đây còn là văn kiện quan trọng nhất trong vấn đề quyền con người, đã trở thành nguồn gốc của mọi luận chứng, suy tư và đấu tranh cho quyền con người trên thế giới.
Trong phạm vi của mỗi quốc gia trên thế giới, các quy định bảo đảm quyền con người được thể hiện thông qua việc ghi nhận các quyền con người trong Hiến pháp và pháp luật nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn và tôn trọng những quyền cơ bản của con người khi tham gia các hoạt động của đời sống xã hội. Vì vậy, hiện nay quyền con người đã được ghi nhận, khẳng định trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 và giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người đã được ra đời, đó là Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Kể từ đó, vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tiếp tục được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tại Điều 14, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ bảo đảm theo Hiến và pháp luật”.
Nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến quyền con người, trên thế giới và ở nước ta đã xuất hiện rất nhiều học giả, công trình khoa học khác nhau nghiên cứu về quyền con người và bảo vệ quyền con người, tuy nhiên, do có sự khác nhau trong quá trình tiếp cận và quan điểm về vấn đề lý luận của quyền con người dẫn đến đã có rất nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về vấn đề này. Theo Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc thì quyền con người “là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại các hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”.
Còn theo Tiến sĩ Chu Hồng Thanh trong bài viết “Các quan niệm khác nhau về nhân quyền trong thế giới hiện đại thì cho rằng: Nhân quyền là khả năng tự nhiên và khách quan của con người, với tư cách là thành viên xã hội, con người được bảo đảm bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế về các giá trị cao quý của con người…
Theo tác giả Nguyễn Quang Hiền thì: Quyền con người là các khả năng của con người được bảo đảm bằng pháp luật về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của người khác trên cơ sở pháp luật.
Như vậy, cho đến nay vẫn còn tồn tại các quan niệm, cách nhìn nhận khác nhau về quyền con người trong mọi xã hội, mọi giai đoạn lịch sử, bởi vì quyền con người là những giá trị thiêng liêng, cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ, là vấn đề không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển của thế giới hiện nay.
Thông qua việc nghiên cứu các quan điểm, quan niệm về quyền con người qua các văn bản pháp lý và các nhà khoa học trong nước và trên thế giới, có thể hiểu khái niệm về quyền con người như sau: “Quyền con người là các khả năng của con người được bảo đảm bằng pháp luật về những giá trị cơ bản nhất của mỗi con người, bao gồm các giá trị về nhân phẩm, tự do, lợi ích cơ bản của con người; bình đẳng và phổ biến giữa mọi cá nhân trong xã hội, được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và được bảo đảm bởi hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế”.
Ngoài ra, bạn có thể tham khảo quan điểm thứ 2 về quyền con người như sau:
Quyền con người là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia chưa có một định nghĩa chính thức về quyền con người mà chỉ dừng lại ở việc liệt kê các quyền con người. Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu về nhân quyền và luật học đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau để đưa ra định nghĩa về quyền con người. Theo một tài liệu thống kê của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, tuy nhiên chưa một định nghĩa nào bao hàm được tất cả thuộc tính của quyền con người.
Được biết đến nhiều nhất là khái niệm quyền con người của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc . Theo khái niệm này Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại hành động (action) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người. Ngoài ra, có một khái niệm khác hay được các nhà nghiên cứu đề cập đến: “… quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này phù hợp với cách hiểu thông thường về quyền con người.
Ở Việt Nam, một số chuyên gia và cơ quan nghiên cứu cũng đã đưa ra nhiều cách hiểu về quyền con người: Trung tâm nghiên cứu quyền con người của Viện Nghiên cứu khoa học xã hội đã tiếp cận khái niệm quyền con người dưới góc độ pháp lý: Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ trong mối liên hệ với những cá nhân con người khác; Trong Từ điển Luật học, quyền con người là “Quyền của thành viên trong xã hội loài người, quyền của tất cả mọi người, đó là nhân phẩm, nhu cầu lợi ích và năng lực của con người thể chế hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia“; v.v…
Các định nghĩa trên không hoàn toàn giống nhau nhưng xét chung lại, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Quyền con người luôn có mối liên hệ gần gũi với pháp luật bởi hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được đảm bảo đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất với tất cả mọi chủ thể trong xã hội chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức. Như vậy, nhìn góc độ nào, quyền con người cũng được xác định là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Đó là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong xã hội và mọi giai đoạn lịch sử.
3. Nội dung quy định về quyền con người theo Hiến pháp:
3.1. Đặc trưng của quyền con người:
Quyền con người có các đặc trưng cơ bản là tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, cụ thể:
Thứ nhất là tính phổ biến, phổ quát của quyền con người: Tính phổ biến thể hiện ở chỗ quyền con người là những quyền thiên bẩm, vốn có của con người và được thừa nhận cho tất cả mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quốc tịch, địa vị xã hội, giới tính. Đặc điểm này thể hiện ở việc ngay từ khi sinh ra, con người đã được tạo hóa ban tặng. Nói cách khác, đây là một quyền bẩm sinh, gắn liền với tất cả mọi người. Ngoài ra, nối quyền con người có tính phổ quát còn bởi vì con người sinh ra ở bất kỳ quốc gia nào cũng có quyền được mọi người công nhận về quyền con người của mình.
Thứ hai là tính không thể chuyển nhượng: Các quyền con người được quan niệm là các quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Các quyền này gắn liền với cá nhân mỗi một con người và không thể chuyển nhượng cho bất kỳ người nào khác.
Thứ ba là tính không thể phân chia: Các quyền con người gắn kết chặt chẽ, tác động lẫn nhau, do đó việc tạch biệt, tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền nào đều tác động tiêu cực đến giá trị nhân phẩm và sự phát triển của con người.
Thứ tư là tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: Các quyền con người dù là các quyền dân sự, chính trị hay các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng đều có mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Chẳng hạn quyền tiếp cận thông tin, quyền học tập chính là tiền đề để con người có điều kiện thực hiện các quyền khác, không có quyền sống thì sẽ không có quyền nào cả. Hay quyền có việc làm cũng là tiền đề để thực hiện các quyền khác như quyền học tập, quyền có nhà ở, quyền tự do đi lại, quyền sở hữu tư nhân,…
Thứ năm là tính giai cấp: Sở dĩ quyền con người mang tính giai cấp là bởi vì quyền con người được pháp luật công nhận và bảo vệ. Song pháp luật được ban hành lại mang tính giai cấp rõ ràng.
Thứ sáu, là tính đặc thù: Tính đặc thù của quyền con người thể hiên ở chỗ con người sinh ra luôn mang những đặc trưng, bản sắc riêng tùy thuộc vào những miền văn hóa và trình độ phát triển kinh tế – xã hội, những vùng lãnh thổ, quốc gia khác nhau.
Cũng chính vì quyền con người có tính đặc thù nên mội quốc gia có quyền ban hành những quy định pháp luật liên quan đến quyền con người riêng, sao cho phù hợp với văn hóa và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia mình. Miễn là không được trái với những nguyên tắc chung về quyền con người được thế giới ghi nhận và bảo vệ.
3.2. Phân loại các quyền con người:
Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyển và nội dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia, ví dụ như: quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển…. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyển dân sự, chính trị, ví dụ như: quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lí nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo… và nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, ví dụ như: quyền sở hữu, quyền làm việc, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hóa…
Theo các văn kiện quốc tế thù quyền con người được phân loại theo 2 nhóm quyền như sau:
a) Nhóm quyền dân sự, chính trị
Quyền dân sự được hiểu là những quyền cá nhân, gắn chặt với nhân thân của mỗi người, chỉ cá nhân mới có thể sử dụng độc lập và không thể chuyển giao cho người khác…
Quyền dân sự được hiểu là những quyền cá nhân, gắn chặt với nhân thân của mỗi người, chỉ cá nhân mới có thể sử dụng độc lập và không thể chuyển giao cho người khác…
Cho đến nay có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về quyền dân sự và chính trị. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) không đưa ra khái niệm, mà chỉ liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của con người trên cả hai lĩnh vực dân sự và chính trị. Từ đó, có thể hiểu một cách đơn giản, các quyền chính trị là các quyền của cá nhân được tham gia một cách trực tiếp và gián tiếp vào công việc của Nhà nước và xã hội. Quyền dân sự được hiểu là những quyền cá nhân, gắn chặt với nhân thân của mỗi người, chỉ cá nhân mới có thể sử dụng độc lập và không thể chuyển giao cho người khác như: quyền sống, quyền tự do đi lại, cư trú… Để thực hiện các quyền chính trị, cá nhân phải tham gia cùng với những người khác, như quyền hội họp hòa bình, quyền bầu cử,… Nội dung các quyền dân sự, chính trị trong Hiến pháp năm 2013 được thể hiện:
– Thứ nhất, về quyền sống
Quyền này được quy định tại Điều 19, Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.
– Thứ hai, về quyền đời tư
Điều 20 và 21 của Hiến pháp năm 2013 quy định rõ về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của mọi người đều được bảo vệ. Với các nội dung đó, Hiến pháp đã mở rộng chủ thể và nội dung của quyền được bảo vệ về đời tư so với Điều 73 của Hiến pháp năm 1992 – chỉ quy định về quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín.
– Thứ ba, về quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền không bị tra tấn, truy bức, nhục hình
Điều 20, Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định.
– Thứ tư, về quyền khiếu nại, tố cáo
Điều 30 của Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ về quyền này, từ quyền của người dân và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu lại, tố cáo cho đến người bị thiệt hại có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật; và nghiêm cấm việc trả thù người khiếu lại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu lại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
– Thứ năm, về quyền tự do cư trú, đi lại
Hiến pháp năm 2013 quy định: Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do Luật định (Điều 22).Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước (Điều 23).
– Thứ sáu, về quyền bình đẳng giới
Theo Điều 26 Hiến pháp năm 2013, công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nếu Điều 63 của Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, thì Hiến pháp năm 2013 quy định “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26). Quy định này đã thay đổi quan niệm và cách tiếp cận về bình đẳng giới, từ chỉ bình đẳng với giới nữ sang bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới, do vậy, được mở rộng và làm sâu sắc hơn.
b) Nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
Cùng với các quyền con người về dân sự và chính trị, các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội được Nhà nước bảo hộ bằng nhiều quy định cụ thể.
– Thứ nhất, về quyền sở hữu:
Quyền sở hữu là một trong những quyền quan trọng, được ghi nhận tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”. Đồng thời, Điều 32 Hiến pháp cũng khẳng định: “Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường”.
Bên cạnh đó, việc quy định rõ hơn về sở hữu tư nhân trong Hiến pháp năm 2013, trong đó có việc mở rộng chủ thể của quyền này từ “công dân” sang “mọi người” đã đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, khi mà các thể nhân, pháp nhân nước ngoài có mặt làm ăn, sinh sống ngày càng nhiều tại Việt Nam.
Quyền sở hữu cũng được cụ thể hóa tại các văn bản luật và dưới luật. Điều 163, Bộ luật Dân sự năm 2015 khẳng định quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được pháp luật công nhận và bảo vệ, không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất cứ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình; yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 169, 170 Bộ luật Dân sự năm 2015).
– Thứ hai, về quyền tự do kinh doanh
Đảm bảo quyền cho người dân được tự do kinh doanh là một trong những chính sách, chủ trương quan trọng của Nhà nước, phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ.
Quyền tự do kinh doanh đã được cụ thể hóa tại các luật và văn bản dưới luật có liên quan. Điều 7 và Điều 8 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 ghi nhận quyền tự do kinh doanh, gồm: Quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn; chủ động mở rộng quy mô ngành, nghề kinh doanh; tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; được Nhà nước khuyến khích ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích; chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp.
Với những chính sách tạo thuận lợi cho người thực hiện quyền tự do kinh doanh, số lượng doanh nghiệp đã không ngừng phát triển và gia tăng trong những năm qua. Ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 70.000 doanh nghiệp thành lập mới và đi vào hoạt động. Riêng trong năm 2017, đã có 126.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới.
– Thứ ba, về quyền có việc làm và phát triển thị trường lao động
Với khoảng 54,48 triệu người trong độ tuổi lao động, để phát triển thị trường lao động và tạo việc làm, Nhà nước đã quan tâm củng cố hệ thống chính sách pháp luật về lao động và nâng cao hiệu quả các biện pháp triển khai trên thực tế.
Hiến pháp năm 2013 có các quy định cụ thể về lĩnh vực lao động, việc làm bao gồm các quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; quyền được đảm bảo các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi, đồng thời nghiêm cấm việc phân biệt, cưỡng bức lao động, sử dụng công nhân dưới độ tuổi lao động tối thiểu (Điều 35 Hiến pháp năm 2013), phù hợp với các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này như quy định tại Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Bên cạnh Bộ luật Lao động năm 2012 và Luật Việc làm, Việt Nam đã thông qua Luật An toàn vệ sinh lao động và đang tiến hành sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy nghề, Luật Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động có thời hạn, và hướng đến xây dựng mới Luật Tiền lương tối thiểu. Đồng thời, theo quy định hiện nay, người lao động thất nghiệp sẽ được nhận trợ cấp thất nghiệp thông qua chính sách bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc.