Quy phạm pháp luật hành chính là gì ? Cho ví dụ về quy phạm pháp luật hành chính ?

Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lí nhà nước cần đến quy phạm pháp luật để định ra các khuôn mẫu xử sự chung cho nhiều cá nhân, tổ chức (đối tượng quản lý) trong những tình huống được dự liêu trước và có thể lặp lại nhiều lần trong thực tiễn.

Mặt khác, khỉ tiến hành các hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì giữa chủ thể và đối tượng quản lí đã phát sinh các quan hệ xã hội cần được pháp luật điều chỉnh – đó chính là các quan hệ quản lý hành chính nhà nước. Do đặc trưng của quan hệ quản lí hành chính nhà nước là quan hệ “quyền lực – phục tùng”, quan hệ có sự bất bình đẳng về ý chí giữa các bên tham gia nên việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với loại quan hệ này có những điểm riêng biệt cả về phương pháp điều chỉnh và loại quy phạm điều chỉnh.

Những quy phạm pháp luật được dùng để điều chỉnh các quản hệ quản lí hành chính nhà nước là các quy phạm pháp luật hành chính. Do đó, có thể hiểu: Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật, được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lí hành chính nhà nước theo phương pháp mệnh lệnh – đơn phương phù hợp với yêu cầu về tính chủ động, sáng tạo trong quản lí hành chính nhà nước.

+ Các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực pháp lí khác nhau.

Do phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hành chính rất rộng và tính chất’đa dạng về chủ thể ban hành, nên các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn. Trong đó có những quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi cả nước và chung cho các ngành, lĩnh vực quản lí nhưng cũng có những quy phạm chỉ có hiệu lực trong phạm vi một ngành, một lĩnh vực quản lí hay trong một địa phương nhất định. Mặt khác, cũng có những quy phạm được áp dụng chung đối với cả cá nhân và tổ chức, có những quy phạm chỉ được áp dụng đối với cá nhân hoậc chỉ được áp dụng đối với tổ chức.

+ Các quy phạm pháp luật hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc pháp lí nhất định.

Mặc dù các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực pháp lí khác nhau nhưng do yêu cầu điều chỉnh thống nhất pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước mà các quy phạm này cần phải hợp thành một hệ thống.

Để bảo đảm yêu cầu nêu trên, các chủ thể có thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật hành chính có trách nhiệm tuân thủ các nguyên tắc pháp lí thống nhất sau đây:

– Các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành,

Bộ máy nhà nước là một chỉnh thể thống nhất. Do đó, đòi hỏi các cơ quan nhà nước cấp dưới phải phục tùng ý chí hay sự chỉ đạo điều hành của các cơ quan nhà nước cấp trên. Sự phục tùng đó trước hết là đối với các văn bản quy phạm pháp luật do

Bộ, cơ quan ngang bộ khi ban hành các quy phạm pháp luật hành chính để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong ngành hay lĩnh vực mình phụ trách, phải căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành. Mặt khác, Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm và thẩm quyền kiểm tra, phát hiện, xử lí các văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật của bộ, cơ quan ngang bộ.

Ví dụ: “Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ… trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên ”. Xem: Khoản 2 Điều 165 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.

– Các quy phạm pháp luật hành chính do người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ban hành phải phù hợp vói nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do tập thể cơ quan đó ban hành.

Trong số các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chính phủ và Toà án nhân dân tối cao là các cơ quan vừa có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo phương thức thảo luận tập thể và quyết định theo đa số (nghị định của Chính phủ, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao) và theo phương thức người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền độc lập ban hành (quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao). Tuy các văn bản nêu frên có phạm vi điều chỉnh khác nhau song để bảo đảm tính thống nhất của các quy phạm pháp luật do một cơ quan ban hành và đáp ứng các yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ, người đứng đầu các cơ quan nêu trên phải bảo đảm sự phù hợp về nội dung và mục đích của các quy phạm pháp luật hành chính do mình ban hành với các quy phạm pháp luật do tập thể cơ quan đó ban hành.

Việc tuân thủ nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự thể hiện ý chí nhà nước một cách nhất quán, đầy đủ và chặt chẽ trong công tác ban hành quy phạm pháp luật hành chính.

Ngoài những đặc điểm nêu trên, việc tìm hiểu về nội dung của quy phạm pháp luật hành chính là cần thiết để xây dựng, nhận biết và thực hiện quy phạm pháp luật hành chính. Nội dung cơ bản của các quy phạm pháp luật hành chính là:

– Xác định thẩm quyền quản lí hành chính nhà nước.

– Quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lí hành chính của đối tượng quản lí hành chính nhà nước.

– Quy định cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình quản lí hành chính nhà nước.

– Quy định thủ tục hành chính.

– Quy định vi phạm hành chính.

– Quy định các biện pháp khen thưởng và cương chế hành chính.

Từ các nội dung nêu trên có thể nhận thấy, quy phạm pháp luật hành chính là phương tiện chủ yếu và là cơ sở của quản lí hành chính nhà nước. Thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật hành chính, Nhà nước không chỉ tác động đến ý thức của đối tượng quản lí nhằm đạt được những xử sự cần thiết mà còn quy định phạm vi thẩm quyền, cách thức quản lí của các chủ thể quản lí hành chính nhà nước và quy định các trật tự quản lí hành chính nhà nước. Như vậy, một mặt các chủ thể quản lí hành chính nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật hành chính và sử dụng các quy phạm này với tư cáchTà’phương tiện chủ yếu để tiến hành quản lí; mặt khác, các quy phạm pháp luật hành chính cũng là cơ sở và là những ràng buộc pháp

+ Quy phạm nội dung là loại quy phạm được ban hành để quy định nội dung quyền và nghĩa vụ côa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Các quy phạm này được ban hành chủ yếu để quy định về địa vị pháp lí hành chính của các chủ thể tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước.

Ví dụ: Quy định về thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính của chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp hay quy định về nghĩa vụ quân sự của công dân …

+ Quy phạm thủ tục là loại quy phạm được ban hành để quy định những thủ tục cần thiết mà các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước phải tuân theo khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình do các quy phạm pháp luật nội dung quy định. Ví dụ: Các quy phạm quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính, …

Các quy phạm nội dung phải được thực hiện theo những thủ tục nhất định do quy phạm thủ tục quy định. Do đó, nếu có quy phạm nội dung nhưng không có quy phạm thủ tục tương ứng hay quy phạm thủ tục tương ứng không phù hợp với mục đích của quy phạm nội dung thì sẽ làm mất hoặc giảm sút hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hành chính nói chung và của các quy phạm nội dung nói riêng.

– Căn cứ vào hiệu lực pháp lí về thời gian, các quy phạm pháp luật hành chính có thể được phân loại thành các nhóm sau đây:

+ Quy phạm áp dụng lâu dài là loại quy phạm mà trong văn bản ban hành chúng không ghi thời hạn áp dụng.

Ví dụ: Các quy phạm pháp luật hành chính trong Hiến pháp năm 2013 hay trong Luật thanh tra năm 2010 … Các quy phạm này chỉ hết hiệu lực khi bị bãi bỏ, thay thế. Các quy phạm này có số lượng rất lớn và có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh lâu dài và ổn định các quan hệ xã hội phát sinh trong phương nhất định. Các quy phạm này chủ yếu do các cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ quản lí hành chính nhà nước phù hợp với đặc thù của địa phương mình. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ở trung ương có thể ban hành những quy phạm pháp luật hành chính có hiệu lực pháp lí trên phạm vi từng địa phương nhất định để điều chỉnh riêng biệt một số loại quan hệ quản lí hành chính nhà nước quan trọng có tính đặc thù ở địa phương đó.

Ví dụ: Luật thủ đô số 25/2012/QH13 ngày 21/11/2012 là văn bản có nội dung chứa đựng các quy phạm pháp luật hành chính chỉ có hiệu lực pháp lí trên phạm vi địa bàn thành phố Hà Nội.

Việc phân loại quy phạm pháp luật hành chính theo hiệu lực pháp lí về không gian nêu trên chỉ mang tính tương đối. Vì nếu căn cứ vào hiệu lực pháp lí về đối tượng áp dụng của các quy phạm thì chúng ta sẽ thấy có những quy phạm phăp luật hành chính của Việt Nam được áp dụng đối vối công dân và tổ chức của Việt Nam ở nước ngoài.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập từ các nguồn trên internet)