Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trong bài
viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến những vấn đề căn cốt nhất, trong đó
có vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

 

1. Quan
niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Từ nhận thức, quan điểm phủ nhận kinh tế thị trường, xem kinh tế
thị trường là đặc trưng riêng có của chủ nghĩa tư bản, đối lập kinh tế thị
trường với chủ nghĩa xã hội đến nhận thức kinh tế thị trường là giá trị chung
của nhân loại. Từ một nước nghèo, kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, nhất định phải phát triển nền kinh tế thị trường, sử dụng kinh tế thị
trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đại hội IX của
Đảng (2001), lần đầu tiên xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước
ta trong thời kỳ quá độ.

 

anh tin bai

Đại hội XI của Đảng (2011) đã ban hành Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
nêu ra 8 phương hướng cơ bản cần quán triệt và thực hiện tốt, trong đó xác định
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI nêu
rõ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một hình thức của kinh tế
thị trường, vừa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ
sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc, bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Đến Đại hội XII của Đảng (2016), Đảng ta có bước tiến mới trong
nhận thức, quan điểm khi khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế; vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; đồng thời có sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của đất nước.

Kế thừa Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng (2021) xác định:
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ  nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế
thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước”[1].

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã khái quát chỉ rõ 4 nội dung cốt lõi trong nhận thức về phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Một là, Đảng ta đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng
tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối
đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của thế giới. Hai là,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền  kinh tế
thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ba là, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đó là một kiểu kinh tế thị trường mới
trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn
dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện
trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Bốn là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa
phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ[2].

 

2. Các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, vai trò của Nhà nước trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Từ chỗ chỉ thừa nhận, cho phép tồn tại, phát triển hai hình thức
sở hữu là toàn dân (Nhà nước) và tập thể, hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể, đến nay, đã thừa nhận sự tồn tại khách quan nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.

Đại hội IX của Đảng tuyên bố xóa bỏ mọi phân biệt đối xử theo
hình thức sở hữu, Nhà nước chỉ ưu đãi hoặc hỗ trợ theo ngành, lĩnh vực ưu tiên
phát triển. Kinh tế tư nhân được xác định có vai trò quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế. Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền của doanh nghiệp
nhà nước.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh
và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh
tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình
thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng.
Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được
xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo
đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa… thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”[3].

Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế. Xác định thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất.

Đại hội XIII của Đảng nêu rõ hơn vị trí, vai trò của các thành
phần kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà
nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy
phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các
nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng,
quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo
chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh
tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Kinh tế tập thể, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp
dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi
ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất
kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình
thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.

Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành,
lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân
mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên
kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty
cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động.

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của
kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ,
phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.

Đại hội XIII của Đảng xác định mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và
hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế
vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai,
minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động;
điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế
với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù
hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị trường đóng vai trò
quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân
bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của
doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai
trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa
các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với
các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh
nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản
biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát 4 quan điểm
quan trọng: Một là, trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế. Hai
là, các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển;
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch
phát triển kinh tế – xã hội. Ba
là, quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển;
thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua
hệ thống an sinh xã hội; phúc lợi xã hội. Bốn là, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều
tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế[4].

 

3. Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Đại hội IX của Đảng xác định gắn kết phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) yêu cầu phải nắm vững
và giải quyết các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Đại hội XII của Đảng xác định: sử dụng các công cụ, chính sách
và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định: Nắm vững và xử lý tốt
các mối quan hệ lớn; trong đó có mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.

Trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân
tích sâu sắc về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định
hướng XHCN trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội,
thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong trong từng bước, từng
chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ
đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, càng không định “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy
theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải
hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra
động lực phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa
đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn
cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển
lành mạnh, bền vững, theo định hướng XHCN”[5].

Những nội dung cốt yếu trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện qua bài viết của đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ở tầm khái quát lý luận rất cao, rất sâu sắc và
toàn diện.

 

                                                Nguồn:hdll.vn
(ngày 22/5/2021)