Phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa gắn với kinh tế số tại Việt Nam | Tạp chí Quản lý nhà nước
Mục Lục
(Quanlynhanuoc.vn) –
Những năm qua, phương thức lãnh đạo của Ðảng, hoạt động của Nhà nước từng bước được
đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong thời gian tới, với sự bùng nổ của công nghệ số và cách mạng
công nghiệp 4.0 thì việc phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam cần bảo đảm đồng bộ và
gắn kết với xu thế kinh tế số. Bài viết khái quát các quan điểm về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế số, trao đổi về thực trạng, khó khăn, thách thức và một số vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với kinh tế
số tại Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đó chính là nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN.
Đại hội XIII của Đảng nêu rõ một trong những đột phá chiến lược trong giai đoạn tới, trong đó nhấn mạnh đến phát triển kinh tế số (KTS). KTS là một phần của nền kinh tế trong đó bao gồm: các mô hình kinh doanh tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp (DN). Điểm khác biệt lớn nhất hiện nay trong phát triển KTS là sự hội tụ loạt công nghệ mới (điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo…) trong bối cảnh cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0. Phát triển KTS là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Sử dụng KTS sẽ góp phần tăng năng suất lao động. Trong nền KTS, các DN sẽ đổi mới quy trình sản xuất – kinh doanh sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại đến sử dụng… Qua việc sử dụng công nghệ, các sản phẩm dịch vụ được phản ánh từ người sử dụng để có thể điều chỉnh cho phù hợp. Bên cạnh đó, người ta cũng có thể sử dụng công nghệ số và dữliệu để tạo ra những sản phẩm hoàn toàn mới như Grab, Uber, AirBnb…
Thực tế hơn 35 năm đổi mới cho thấy, việc xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN là lựa chọn đúng đắn của Đảng ta, cơ bản đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Đến nay, nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế. Phương thức lãnh đạo của Ðảng, hoạt động của Nhà nước cũng từng bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế… Mặc dù thời gian qua, nước ta phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thách thức, nhất là tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu do đại dịch Covid-19 nhưng nhờ phát triển KTTT định hướng XHCN một cách sáng tạo, kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 – 2020 vẫn đạt khoảng 6%/năm. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ khoảng 4,3%/năm giai đoạn 2011 – 2015 lên khoảng 6%/năm giai đoạn 2016 – 2020…1.
Thể chế KTTT định hướng XHCN là cơ sở để Việt Nam hoàn thành mục tiêu “kép”, vừa phòng, chống dịch thành công, vừa tập trung nguồn lực phát triển kinh tế, đồng thời vẫn đạt được mức tăng trưởng đáng kể được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để giúp nền kinh tế tiếp tục đối phó với những rủi ro, thách thức, bảo đảm phát triển ổn định bền vững, cần tính đến vấn đề phát triển KTS trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với kinh tế số ở Việt Nam
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định, qua hơn 35 năm đổi mới, nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN ngày càng đầy đủ hơn.Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới…
Đánh giá lại kết quả của việc vận dụng nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta trên các mặt kinh tế – xã hội có thể thấy một số thành tựu đáng kể. Về kinh tế, công cuộc đổi mới từ năm 1986 đã nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Giai đoạn 2016 -2020, GDP đầu người đạt trên 2.700 USD năm 2020, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, tốc độ tăng trưởng hằng năm đạt khá cao, đặc biệt trong năm 2020, dù ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 khiến nhiều nền kinh tế hàng đầu trên thế giới bị suy giảm hoặc tăng trưởng âm song Việt Nam vẫn tăng trưởng trên 2,9%2.
Về xã hội, dân số Việt Nam đã đạt 96,5 triệu người vào năm 2019 và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu người tới năm 2050. Hiện nay, 70% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhập tương đương trong khu vực. Tầng lớp trung lưu đang hình thành, hiện chiếm khoảng 13% dân số và dự kiến sẽ tăng lên đến 26% vào năm 2026. Y tế của nước ta cũng đạt nhiều tiến bộ khi mức sống ngày càng cải thiện. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới, với 87% dân số có bảo hiểm y tế…3.
Tuy nhiên, những kết quả trong phát triển kinh tế của nước ta không thể không đề cập đến những tác động từ CMCN 4.0 nói riêng và KTS. Hiện nay, thế giới đang chứng kiến những chuyển biến nhanh như vũ bão của cuộc CMCN 4.0, đang tác động mạnh mẽ đến hầu hết các ngành, các lĩnh vực, từ đó tác động đến cơ cấu nền kinh tế. Trong 10 năm qua, KTS Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cả nền tảng hạ tầng và thị trường kinh doanh. Với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển KTS ở mức khá trong khu vực ASEAN. Việt Nam đã ghi nhận sự xuất hiện xu hướng số hóa ở nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, từ thương mại, thanh toán cho đến giao thông, giáo dục, y tế… Nền KTS Việt Nam năm 2019 trị giá 12 tỷ USD (đóng góp 5% GDP quốc gia trong năm 2019), cao gấp 4 lần so với giá trị của năm 2015 và dự đoán chạm mốc 43 tỷ USD vào năm 2025, với các lĩnh vực: thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe công nghệ4.
Nhận thức được tầm quan trọng của KTS trong phát triển nền kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách cụ thể và định hướng lớn đối với vấn đề này. Tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025, nền KTS Việt Nam sẽ đạt 20% GDP, phát triển được một cộng đồng DN công nghệ số Việt Nam lớn mạnh. Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/2020 QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển KTS, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 KTS chiếm 20% GDP; tỷ trọng KTS trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; đến năm 2030, KTS chiếm 30% GDP; tỷ trọng KTS trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%5. Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nhất trí thông qua Nghị quyết của Đại hội, khẳng định rõ, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc CMCN 4.0, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển KTS, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế…
Bên cạnh những kết quả, thành tựu nổi bật, đến nay, phát triển KTTT định hướng XHCN gắn với KTS tại nước ta vẫn còn một số bất cập hạn chế. Việc hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Trong bối cảnh công nghệ số tác động đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung, việc đổi mới mô hình tăng trưởng có tính đến các yếu tố mới như xu hướng công nghệ là hết sức quan trọng. Thể chế, chính sách đối với phát triển KTTT định hướng XHCN tại Việt Nam gắn với KTS còn nhiều bất cập. Trong điều hành, quản lý nền kinh tế, các khuôn khổ pháp lý vẫn chưa theo kịp để điều chỉnh sự phát triển nhanh chóng của các mô hình kinh doanh gắn với công nghệ số, nên gây ra những khó khăn cho cộng đồng DN và thất thu thuế đối với ngân sách nhà nước. Mức độ chủ động tham gia phát triển nền KTS nước ta còn không ít hạn chế, có phần tự phát.
Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực phát triển kinh tế – xã hội; hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia mới được hình thành, chưa đồng bộ và hiệu quả. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế. Đây là một trong những vấn đề cần hết sức quan tâm khi mà hiện nay, theo nhận xét của giới chuyên gia, giá trị đóng góp cho tăng trưởng kinh tế chủ yếu là các DN có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi các DN trong nước phần lớn chỉ làm gia công, mà ít tạo được giá trị gia tăng.
Trình độ ứng dụng công nghệ vào các hoạt động quản lý điều hành, sản xuất – kinh doanh của DN Việt Nam tuy được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Bên cạnh đó, còn một số hạn chế, thách thức khác, như: thể chế KTTT định hướng XHCN còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa được tháo gỡ; năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách còn thấp; cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu; sự kết nối và chuyển giao công nghệ giữa các DN FDI và DN trong nước còn nhiều hạn chế… Những vấn đề này cũng đều có tác động đến phát triển KTTT định hướng XHCN gắn với KTS tại Việt Nam.
Một số vấn đề đặt ra
Dưới tác động của dịch bệnh, chiến tranh thương mại và đặc biệt là sự phát triển vũ bão của công nghệ số, sẽ làm thay đổi các chuỗi cung ứng, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu. Tại Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng đại dịch Covid-19 và công nghệ số sẽ thúc đẩy quá trình phát triển KTS đi nhanh hơn. Nổi bật trong số đó là hoạt động thương mại điện tử, giao dịch kinh tế không tiền mặt ngày càng phát triển tại Việt Nam, tạo cơ hội cho các DN kịp thời nắm bắt, ứng dụng các công cụ của KTS. Thực tế này đặt ra những yêu cầu mới trong quản lý, điều hành nền kinh tế để phù hợp xu thế phát triển chung, đồng thời đặt ra một số vấn đề cần giải quyết, cụ thể:
Một là, cần nhận thức đúng đắn về phát triển KTTT định hướng XHCN gắn với KTS. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển. Đồng thời, nâng cao nhận thức vềphát triển nền KTS trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất cho thích ứng xu hướng phát triển này. Trong nền KTTT định hướng XHCN, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các DN, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa -xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Hai là, tạo thuận lợi cho KTS. Hoàn thiện chính sách cạnh tranh đối với KTS; bổ sung, sửa đổi các quy định về thuế để điều chỉnh các hoạt động trên nền tảng số; tăng cường hiệu lực bảo hộ sở hữu trí tuệ, đặc biệt gắn với thực hiện các FTA thế hệ mới, như: Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA); điều chỉnh các quy định liên quan đến thị trường lao động và an sinh xã hội trong bối cảnh số và phát triển hạ tầng số. Trong quá trình chuyển đổi sang nền KTS, rất nhiều các quan hệ lao động sẽ được định vị lại như quan hệ đối tác, quan hệ giữa chủ – người lao động. Đặc biệt với sự tham gia của Việt Nam vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới hiện nay như CPTPP và EVFTA thì phải có sự thay đổi các quy định này để tạo điều kiện thuận lợi cho cả người sử dụng cũng như người lao động. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển KTS; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới…
Ba là, cần “luật hóa” những nội dung về KTS để bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất cho triển khai và thực hiện chương trình nghị sự về KTS. Tiếp tục chú trọng nghiên cứu, đề xuất thêm những chính sách ưu đãi về thuế cho các lĩnh vực phần mềm, khu công nghệ cao, công viên phần mềm. Có chính sách khuyến khích DN đầu tư, phát triển, kinh doanh công nghệ mới, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở Việt Nam. Có chính sách để phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, khoa học và công nghệ… trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại.
Bốn là, triển khai các biện pháp kỹ thuật và phi kỹ thuật để nâng cao hiệu quả quản lý các nền tảng số toàn cầu hoạt động xuyên biên giới tại Việt Nam, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng đối với DN trong nước. Chú trọng đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số cũng như các giải pháp công nghệ số hiện đại để triển khai ứng dụng số kết nối thông minh, đẩy nhanh ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt, hiệu quả hóa Chính phủ điện tử… bảo đảm an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và DN được thừa hưởng những tiện ích do KTS mang lại.
KTTT định hướng XHCN tại Việt Nam là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Định hướng XHCN của nền KTTT được bảo đảm bởi vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo, được thể hiện ở hệ thống pháp luật, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Thực tiễn chứng minh đây là định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta để phù hợp với bối cảnh lịch sử của quốc tế và đất nước. Trước sự phát triển mạnh mẽ của xu thế công nghệ số, KTS, chúng ta cần nhanh chóng nâng cao nhận thức về phát triển KTTT định hướng XHCN tại Việt Nam gắn với KTS; tiếp tục hoàn thiện các thể chế, khuôn khổ pháp lý nhằm tạo thuận lợi cho KTS với sự quản lý chặt chẽ, hiệu quả của Nhà nước.
Chú thích:
1. Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030. http://nhandan.com.vn, ngày 20/10/2020.
2. Phụ lục Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 2. H.NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2021.
3. Thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. http://tap- chitaichinh.vn, ngày 23/01/2021.
4. Google, Temasek và Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á năm 2019”, ngày 03/10/2019.
5. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
TS. Luyện Thị Hồng Hạnh
Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên