Phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam: Đề xuất một số giải pháp

Theo Bộ Công Thương, chỉ số năng lực hoạt động
của ngành logistics năm 2021 đạt 3,34 điểm, tăng so
với 3,27 điểm của năm 2018. Việt Nam cũng là nước
được xếp hạng trong top 10 Chỉ số logistics thị trường
mới nổi với tốc độ tăng trưởng khá cao, ở mức 14%-
16%/năm. Nhìn chung, số lượng và chất lượng dịch vụ
logistics được nâng cao, đóng góp quan trọng vào
kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam.

Hiện nay, số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực
logistics tại Việt Nam đã tăng từ con số 37.000 năm
2017 lên 41.000 năm 2020 và đang tiếp tục phát triển
sang các lĩnh vực vận chuyển, lưu kho, thông quan
và phân phối giao nhận. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp dịch vụ logistics cũng đang nỗ lực chuyển đổi
phương thức hoạt động, tăng cường đầu tư trang
thiết bị, chú trọng đào tạo phát triển nhân lực, tích
cực chuyển đổi số và chuyển đổi xanh nhằm thích
ứng với điều kiện phát triển mới, đáp ứng nhu cầu,
tiêu chuẩn ngày càng cao của khách hàng trong
việc sử dụng các dịch vụ thân thiện với môi trường.

many-ways-transporting-goods-freight-world-trade-loading-trucks-logistics-warehouse-delivery-from-online-store_1-compressed.jpg

Mặc dù vậy, hạn chế trong phát triển ngành dịch vụ
logistics ở nước ta vẫn còn lớn. Theo đó, số lượng
doanh nghiệp dịch vụ logistics phát triển nhanh,
nhưng chất lượng còn thấp, quy mô nhỏ và đang gặp
một số khó khăn nhất định. Ngoài ra, ngành logistics
Việt Nam thời gian qua dường như chỉ mới tập trung
phát triển thị trường nội địa, chưa phát triển tương
xứng với tiềm năng, chi phí cao, năng lực cạnh tranh
hạn chế, liên kết với các ngành hàng xuất khẩu chưa
chặt chẽ, thiếu nhân lực chất lượng cao…

Đề xuất một số giải pháp

Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước cần có hướng
dẫn cụ thể hơn nữa về thủ tục hành chính, giúp quá
trình hợp tác đầu tư giữa các doanh nghiệp thuận lợi,
tiết kiệm thời gian. Đồng thời, hiện nay thương mại
điện tử phát triển mạnh, xu thế vận tải xuyên biên
giới giữa các nước, do vậy thủ tục hải quan tuy đã
được cải tiến rất nhiều, nhưng các thủ tục nhà nước
liên quan tới lĩnh vực này cần thuận lợi hơn.

Thứ hai, hiện nay, giữa các cơ quan quản lý nhà
nước đã có sự chia sẻ liên kết dữ liệu, song cần
tăng cường chia sẻ hơn nữa giữa các cơ quan quản
lý nhà nước và doanh nghiệp. Đặc biệt, Nhà nước
cần tạo ra một nền tảng ở một số khu vực để liên
kết giữa các thành tố trong chuỗi cung ứng. Cần
tạo sự liên kết giữa các thành tố trong chuỗi cung
ứng, như: hải quan, cảng, hãng vận tải đường bộ,
hãng tàu… giúp giảm thời gian giao nhận hàng
nhanh hơn. Nhìn chung, cơ quan quản lý phải coi
logistics là ngành công nghiệp hỗ trợ để có chính
sách hỗ trợ phù hợp, chẳng hạn như cho phép
doanh nghiệp gia công đóng gói, dán nhãn hàng
hóa tại kho ngoại quan.

Thứ ba, cần tiêu chuẩn hóa dịch vụ hạ tầng logistics
bằng việc áp dụng giá cước chuẩn hóa, thống nhất
hệ thống thu phí. Ngoài ra, Việt Nam cần hình thành
hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử. Trong đó các bên
liên quan đến logistics như công ty vận tải, kho
hàng, hải quan… được kết nối thông qua hệ thống
điện tử duy nhất thì việc nhận và xử lý nghiệp vụ sẽ
tiết kiệm nhiều thời gian.

Thứ tư, nhằm đảm bảo vai trò của logistics trong
việc duy trì các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ
vừa phải có tư duy, tầm nhìn, giải pháp khác biệt,
định hình các hướng đi mới để bắt kịp với thế giới,
thể hiện vai trò hàng đầu trong nỗ lực bảo vệ môi
trường và giảm phát thải khí nhà kính, cần phối hợp
chặt chẽ với các bộ, ngành, cơ quan liên quan tiếp
tục tập trung cụ thể hóa và tham mưu thể chế hóa
các quan điểm, đường lối của Đảng và Chính phủ
về phát triển ngành dịch vụ logistics của Việt Nam.

Thứ hai, hiện nay, giữa các cơ quan quản lý nhà
nước đã có sự chia sẻ liên kết dữ liệu, song cần
tăng cường chia sẻ hơn nữa giữa các cơ quan quản
lý nhà nước và doanh nghiệp. Đặc biệt, Nhà nước
cần tạo ra một nền tảng ở một số khu vực để liên
kết giữa các thành tố trong chuỗi cung ứng. Cần
tạo sự liên kết giữa các thành tố trong chuỗi cung
ứng, như: hải quan, cảng, hãng vận tải đường bộ,
hãng tàu… giúp giảm thời gian giao nhận hàng
nhanh hơn. Nhìn chung, cơ quan quản lý phải coi
logistics là ngành công nghiệp hỗ trợ để có chính
sách hỗ trợ phù hợp, chẳng hạn như cho phép
doanh nghiệp gia công đóng gói, dán nhãn hàng
hóa tại kho ngoại quan.

Thứ ba, cần tiêu chuẩn hóa dịch vụ hạ tầng logistics
bằng việc áp dụng giá cước chuẩn hóa, thống nhất
hệ thống thu phí. Ngoài ra, Việt Nam cần hình thành
hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử. Trong đó các bên
liên quan đến logistics như công ty vận tải, kho
hàng, hải quan… được kết nối thông qua hệ thống
điện tử duy nhất thì việc nhận và xử lý nghiệp vụ sẽ
tiết kiệm nhiều thời gian.

container-ship-loading-unloading-deep-sea-port-compressed(1).jpg

Thứ tư, nhằm đảm bảo vai trò của logistics trong
việc duy trì các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ
vừa phải có tư duy, tầm nhìn, giải pháp khác biệt,
định hình các hướng đi mới để bắt kịp với thế giới,
thể hiện vai trò hàng đầu trong nỗ lực bảo vệ môi
trường và giảm phát thải khí nhà kính, cần phối hợp
chặt chẽ với các bộ, ngành, cơ quan liên quan tiếp
tục tập trung cụ thể hóa và tham mưu thể chế hóa
các quan điểm, đường lối của Đảng và Chính phủ
về phát triển ngành dịch vụ logistics của Việt Nam.

Đồng thời, nghiên cứu, xây dựng và trình cấp có
thẩm quyền ban hành Chiến lược phát triển ngành
logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045, bảo đảm đáp ứng những yêu cầu phát
triển của lĩnh vực này trong bối cảnh và tình hình
mới phù hợp với xu hướng quốc tế. Trong đó, chú
trọng định hướng phát triển logistics xanh và các
giải pháp thân thiện với môi trường; hoàn thiện
thể chế, chính sách, pháp luật về dịch vụ logictics,
vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới,
nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics… tạo
cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động logictics và
phát triển logistics xanh tại Việt Nam. Cùng với đó,
tiến hành rà soát, cập nhật, bổ sung các nội dung
nhiệm vụ để triển khai thực hiện có hiệu quả Kế
hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển
dịch vụ logistics giai đoạn đến năm 2025. Chuẩn bị
kế hoạch hành động cho giai đoạn 2026 – 2030.

(*) Trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại
TP. Hồ Chí Minh