Phân tích kỹ năng sử dụng từ, câu, đoạn trong văn bản pháp luật ?

Thưa luật sư, tôi là sinh viên hệ đại học từ xa chuyên ngành luật. Tôi có chuyên đề “Trình bày kỹ năng sử dụng từ, câu, đoạn trong văn bản pháp luật ? “, do không có điều kiện tiếp xúc với tài liệu mong luật sư cung cấp một số vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề này ? (Giàng A Phương, Lào cai).

Trả lời:

1. Cách sử dụng từ trong văn bản pháp luật

Hệ thống ngôn ngữ trong tiếng Việt bao gồm nhiều đon vị khác nhau, trong đó:

“Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất cỏ nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định, dùng để đặt câu ”.

Sự kết hợp giữa các từ sẽ tạo thành các câu, sự liên kết nhiều câu sẽ tạo thành văn bản thông qua đon vị trung gian là các đoạn. Như vậy, có thể thấy việc sử dụng từ giữ vai trò quyết định đến sự thành công của việc sử dụng ngôn ngữ trong văn bản nói chung và văn bản pháp luật nói riêng.

Khi sử dụng từ tiếng Việt để hình thành các câu trong văn bản pháp luật, người soạn thảo văn bản cần lưu ý một số vấn đề sau:

1.1 Lựa chọn và sử dụng từ chính xác

Việc sử dụng từ chính xác được biểu hiện ở nhiều phương diện khác nhau:

Thứ nhất, từ dùng trong văn bản pháp luật phải chính xác về chính tả. Chính xác về chính tả là cách viết chữ được coi là chuẩn, theo nghĩa hẹp là cách viết các âm, vần, tiếng, từ; theo nghĩa rộng ngoài nội dung nói trên còn bao gồm cả cách viết hoa, viết tắt, cách viết tên riêng tiếng Việt và tên riêng tiếng nước ngoài. Dùng từ chính xác về chính tả là điều kiện tiên quyết để bảo đảm được nghĩa cơ bản của từ. Nếu mắc lỗi chính tả trong văn bản pháp luật sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự chính xác của nội dung văn bản, đồng thời có thể làm giảm uy tín của Nhà nước. Chẳng hạn, “kiểm sát” là từ dùng để chỉ công tác kiểm tra, giám sát của một cơ quan nhà nước (viện kiểm sát) lại viết thành “kiểm soát” là từ để chỉ hoạt động kiểm tra, xem xét những việc cụ thể trong phạm vi của chủ thể có thẩm quyền (ví dụ: kiểm soát hành lý, kiểm soát giao thông, kiểm soát ô nhiễm…). Hay “công ti họp danh” là một loại hình công ty được Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định (Xem: Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014) lại viết thành “công ty hợp doanh” là loại hình hoàn toàn không được Nhà nước quy định.

Viết hoa đúng cũng là một biểu hiện của việc dùng từ chính xác, hơn thế nó còn góp phần thể hiện tính nghiêm túc của văn bản pháp luật. Cách viết hoa trong văn bản pháp luật phải tuân thủ những quy định thông thường của tiếng Việt, đồng thời Nhà nước cũng đã có những quy định cụ thể về cách viết hoa trong văn bản của các cơ quan nhà nước (Xem: Phụ lục II Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ quy định về công tác văn thư). Theo đó, một số trường hợp viết hoa thường gặp trong các văn bản pháp luật hiện hành được quy định như sau:

– Tên người, tên địa danh: Viết hoa tất cả các chữ cái đầu của các âm tiết tạo thành tên riêng và không dùng gạch nối. Ví dụ: Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Việt Nam, Hà Nội, Đà Lạt…

– Tên đơn vị hành chính: Viết hoa chữ cái đầu tạo thành tên riêng đơn vị hành chính và không dùng gạch nối. Ví dụ: tỉnh Phú Thọ, huyện Gia Lâm, thành phố Nam Định…; trường hợp đặc biệt (tên riêng đơn vị hành chính là tên người, sự kiện lịch sử, con số hay tên thủ đô): Viết hoa chữ cái đầu của cả danh từ chung chỉ đơn vị hành chính đó. Ví dụ: Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Quận 5, Phường Tô Hiệu…

– Tên riêng của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cơ sở đào tạo, đơn vị kinh tế…: Viết hoa chữ cái đầu trong cụm từ dùng làm tên và các chữ cái đầu trong các âm tiết chỉ tính chất, chức năng, nhiệm vụ tạo thành tên riêng đó. Ví dụ: Chính phủ, Bộ Tư pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão trung ương…

– Các chức danh quan trọng của Đảng và Nhà nước, các chức vụ trong các cơ quan nhà nước: Viết hoa chữ cái đầu tiên của cụm từ chỉ chức danh đó. Ví dụ: Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ưỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh…

– Tên của các loại văn bản: Viết hoa chữ cái đầu của từ chỉ tên loại văn bản và từ chỉ tên riêng của văn bản trong trường hợp nói đến một văn bản cụ thể. Ví dụ: Luật Đất đai; Nghị quyết số… của Hội đồng nhân dân huyện…; Quyết định số… của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh…

Trường hợp viện dẫn các điều, khoản, điểm của một văn bản cụ thể: viết hoa chữ cái đầu của điều.

Ví dụ: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự.

Viết tắt đúng cách cũng là một yếu tố bảo đảm cho việc dùng từ được chính xác về mặt chính tả. Khi soạn thảo văn bản pháp luật, nói chung không nên viết tắt một cách tuỳ tiện, không được thay chữ viết bằng con số hay kí hiệu riêng. Trong văn bản pháp luật, từ viết tắt thường được sử dụng để trình bày một số chi tiết thuộc về hình thức văn bản như kí hiệu văn bản, ví dụ: QĐ-UBND (Quyết định – Uỷ ban nhân dân) hay thể thức đề kí văn bản, ví dụ: KT. CHỦ TỊCH (KT = kí thay), TM. UỶ BAN NHÂN DÂN (TM = thay mặt); trình bày tên một cơ quan, tổ chức hoặc một số thuật ngữ chuyên ngành hay những từ, cụm từ thông dụng, được sử dụng nhiều lần trong văn bản. Tuy nhiên, để bảo đảm sự chặt chẽ của văn bản, trong trường hợp thứ hai, các chữ viết tắt lần đầu của từ, cụm từ phải được đặt trong dấu ngoặc đơn ngay sau từ, cụm từ đó. Ví dụ: hội đồng nhân dân (HĐND), văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)…

Thứ hai, từ dùng trong văn bản pháp luật phải chính xác về nghĩa:

Việc hiểu chính xác nghĩa của từ (bao gồm cả nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp) để sử dụng đúng trong từng trường hợp cụ thể là điều kiện quan trọng để bảo đảm cho việc nắm bắt chính xác nội dung của văn bản. Nghĩa từ vựng được nêu trong từ điển, do vậy khi soạn thảo văn bản pháp luật cần có thói quen sử dụng từ điển thường xuyên để dùng từ đúng nghĩa với từng trường hợp cụ thể. Có như vậy từ dùng mới biểu đạt được chính xác nội dung người viết cần thể hiện. Ví dụ: Trong tiếng Việt, các từ “nhiệm vụ”, “trách nhiệm”, “bổn phận”, “nghĩa vụ” đều có nghĩa chung là “phần việc mình phải gánh vác, phải làm”, nhưng được dùng trong các trường họp khác nhau. Trong đó, nhiệm vụ là “công việc phải làm, phải gánh vác” nhưng nhiệm vụ thường là phần việc cụ thể phải trực tiếp làm; trách nhiệm là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận về mình” nhưng thường dùng để nói về phần việc trực tiếp phải để tâm đến với tư cách là một thành viên của một tập thể, một tổ chức xã hội; bổn phận cũng là “phần việc, phần trách nhiệm bản thân phải làm” nhưng bổn phận thường dùng để nói về nhiệm vụ phải làm theo yêu cầu của đạo lý; nghĩa vụ thường dùng để nói về nhiệm vụ phải gánh vác đối với xã hội theo yêu cầu của đạo lý hoặc theo quy định của pháp luật.

Mặt khác, để bảo đảm sự chính xác cho các từ được sử dụng, về nguyên tắc cần phải loại trừ hiện tượng mơ hồ về nghĩa của từ. Mỗi từ, mỗi chữ dùng trong văn bản pháp luật phải được hiểu và chỉ được hiểu theo một nghĩa nhất định. Vì vậy, trong văn bản pháp luật nên sử dụng các từ đơn nghĩa và nghĩa đã được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, hiện tượng từ đa nghĩa rất phổ biến trong tiếng Việt. Khi sử dụng những từ này để soạn thảo văn bản cần phải lựa chọn một nghĩa gần với nghĩa đen nhất và gắn vào đó những dấu hiệu nhất định để buộc người đọc chỉ được hiểu theo nghĩa đã được tiêu chuẩn hoá. Chính việc kết hợp giữa từ cần dùng với các từ khác để tạo thành câu sẽ giúp người đọc hiểu từ đó theo một nghĩa duy nhất mà người viết muốn dùng; ttánh được tình trạng có nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một quy định của pháp luật.

Ví dụ: Từ “thanh tra” có hai nghĩa:

1) Điều tra, xem xét để làm rõ sự việc (được sử dụng với tư cách của động từ);

2) Người làm nhiệm vụ thanh tra (được sử dụng với tư cách của danh từ). Khi quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra huyện là:

“a) Thanh tra việc thực hiện chỉnh sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân cap huyện, của uỷ ban nhân dân cấp xã” (Xem: Điểm a khoản 2 Điều 27 Luật Thanh tra năm 2010), với việc kết hợp giữa các từ ngữ khác, từ “thanh tra” được sử dụng với tư cách của một động từ và chỉ được hiểu theo nghĩa thứ nhất.

Trường hợp dùng từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa thì phải giải thích theo nghĩa được sử dụng trong văn bản. Chẳng hạn, trong ngôn ngữ thông dụng, từ “hàng hoá” rất quen thuộc với mọi người và được hiểu theo nghĩa rất rộng, là “sản vật dùng để bán nói chung”. Nhưng khái niệm “hàng hoá” trong Luật Hải quan năm 2014 lại chỉ được hiểu trong giới hạn phạm vi nhất định và được giải thích rõ tại khoản 6 Điều 4 của Luật này: “Hàng hoá bao gồm động sản có tên gọi và mã số theo Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc được lưu giữ trong địa bàn hoạt động hải quan”.

Nếu sử dụng từ theo nghĩa ước lệ cũng cần nêu rõ trong văn bản. Ví dụ: “Nghị định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp nhà nước (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức”) .Như vậy, trường hợp này, từ “văn bản” không được sử dụng theo nguyên nghĩa là “bản chép tay hoặc in ấn với một nội dung nhất định, thường để lưu lại lâu dàĩ” mà được sử dụng theo nghĩa ước lệ, chỉ toàn bộ những văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể đã nêu tại Điều trên.

1.2 Lựa chọn và sử dụng từ bảo đảm tính thống nhất, phổ thông

Thực tế cho thấy, các vùng dân cư khác nhau đôi khi sử dụng hệ thống ngôn ngữ không hoàn toàn giống nhau. Đe bảo đảm cho mọi người hiểu và thực hiện thống nhất các văn bản pháp luật, trong trường hợp có sự không thống nhất về từ ngữ giữa các địa phương, cần sử dụng những từ ngữ phổ thông trong cả nước mà tiêu biểu là ngôn ngữ ở Thủ đô Hà Nội. Nếu văn bản do địa phương ban hành, để phù hợp với đối tượng tác động ở địa phương, có thể dùng ngôn ngữ địa phương nhưng khi cần phải có chú thích bằng từ ngữ chính thức chung cho cả nước (đặt trong dấu ngoặc đơn).

Đe bảo đảm tính phổ thông trong ngôn ngữ văn bản pháp luật, người soạn thảo văn bản cần tránh sử dụng tiếng lóng, những từ địa phương (phương ngữ). Ví dụ: không viết “cấm quẹo trái”, “đèn báo thắng”, “nón bảo hiểm” (từ địa phương Nam Bộ) trong các văn bản pháp luật mà phải dùng “cấm rẽ trái”, “đèn báo phanh”, “mũ bảo hiểm” là từ phổ thông trên cả nước.

Văn bản pháp luật thường lựa chọn những từ ngữ chính xác về nội dung, trang trọng, trung hoà về sắc thái biểu cảm và được sử dụng thống nhất trong từng văn bản và trong cả hệ thống văn bản pháp luật. Đặc biệt, văn bản pháp luật thường sử dụng một lớp từ ngữ riêng (gọi là lớp từ hành chính hay thuật ngữ hành chính), bao gồm: tên gọi các cơ quan, tổ chức từ trung ương đến cơ sở (Chính phủ, bộ, uỷ ban nhân dân, sở, phòng, ban, công ti…); tên gọi các chức vụ của các cơ quan đó (Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, chủ tịch uỷ ban nhân dân, chánh văn phòng, giám đốc sở, trưởng phòng…); các hoạt động công vụ của các cơ quan, tổ chức (lập pháp, lập quy, ban hành, giải quyết, quy định, quyết định…). Các từ ngữ này vừa thông dụng, dễ hiểu đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, vừa bảo đảm được sự trang trọng, lịch sự của các cơ quan quản lý.

Đồng thời, văn bản pháp luật cũng nên sử dụng những từ ngữ trung tính (phi giới tính) để chỉ cả hai giới như: công dân, mọi người, công chức, viên chức, người lao động, người lái xe, người vi phạm… Ví dụ: Nên viết “thủ trưởng cơ quan” thay vì “ông/bà thủ trưởng cơ quan”, không dùng đại từ “anh” “chị” trong các quy định của văn bản pháp luật.

Việc sử dụng một số nhóm từ đặc biệt cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới tính phổ thông, tính thống nhất của ngôn ngữ văn bản pháp luật.

Trước hết là nhóm từ cổ. Trong tiếng Việt, có nhiều từ được sử dụng ở những giai đoạn lịch sử trước đây nhưng hiện tại đã có các từ khác được hình thành để thay thế, do đó những từ cũ (được coi là từ cổ) không còn phù hợp nên ít được sử dụng. Ví dụ: Từ “hợp đồng” trong các văn bản hiện hành dùng để thay thế cho từ “giao kèo”, “khế ước” trong các văn bản trước kia. Văn bản pháp luật được ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội hiện tại hoặc giải quyết các công việc đang diễn ra. Đối tượng tác động của văn bản pháp luật là những cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thời hiện đại. Như vậy, nếu sử dụng từ cổ sẽ gây khó khăn cho người tiếp nhận văn bản, thậm chí có thể làm cho văn bản bị lạc hậu. Trong ngôn ngữ văn bản pháp luật, không sử dụng từ cổ. Hàng loạt từ cổ trước kia được thay thế bằng từ mới trong các văn bản pháp luật hiện hành: con ở – người giúp việc gia đình; người làm thuê – người lao động; tình tiết gia trọng – tình tiết tăng nặng… Trong trường họp càn thiết phải sử dụng đến các từ, thuật ngữ cổ, cần phải xác định rõ về nghĩa, tạo được cách hiểu thống nhất. Chẳng hạn, các thuật ngữ cổ như “bãi nại”, “tống đạt”, “thừa phát lại”… bắt đầu sử dụng lại trong hệ thống pháp luật nước ta sau một thời gian dài cũng phải được Nhà nước xác định nghĩa một cách rõ ràng.

Cùng với nhóm từ cổ, việc sử dụng nhóm từ mới khi soạn thảo các văn bản pháp luật cũng cần phải rất thận trọng. Nhóm từ mới nói chung tính phổ biến chưa cao, độ ổn định về nghĩa chưa lớn nên không tuỳ tiện sử dụng trong các văn bản pháp luật. Thói quen tuỳ tiện dùng cách ghép chữ hoặc rút ngắn các cụm từ trong khi viết văn bản như “tai, tệ nạn xã hội”, “phối, kết hợp công tác”, “kích cầu du lịch”… có thể tạo ra những từ vô nghĩa hoặc nghĩa không xác định, đồng thời sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tính phổ thông và đôi khi là cả tính nghiêm túc của văn bản. Khi cần thiết phải sử dụng từ mới để nói về những hiện tượng mới phát sinh mà nhà quản lý cần điều chỉnh, cần phải quy định chính thức về nghĩa của từ để tạo ra cách hiểu và áp dụng thống nhất.

Một nhóm từ khác cũng được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản pháp luật là từ Hán – Việt (từ Việt gốc Hán). Từ Hán – Việt chiếm số lượng đáng kể trong tiếng Việt và được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hoá và đặc biệt là pháp luật vì một số lý do: thói quen của người soạn thảo văn bản; một số từ Hán – Việt có nghĩa trang trọng hơn từ thuần Việt tương ứng, đặc biệt là so với các từ thông tục; một số từ Hán – Việt biểu thị những nội dung mà trong tiếng Việt tương ứng với những từ nhiều âm tiết hoặc một tổ hợp từ.

Nhằm bảo đảm tính phổ thông của ngôn ngữ văn bản pháp luật và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khi sử dụng từ Hán – Việt cần lưu ý một số điểm sau đây:

Một là chỉ sử dụng từ Hán – Việt trong những trường hợp thật cần thiết, như khi: không có từ thuần Việt tương ứng để thay thế (ví dụ: tự do, hạnh phúc, cách mạng, nhân dân, kinh tế, đại hội…); có từ thuần Việt tương ứng nhưng nghĩa không khái quát, trang trọng bằng từ Hán – Việt (ví dụ: độc lập – đứng một mình); có từ thuần Việt tương ứng nhung cấu trúc không gọn bằng từ Hán – Việt (ví dụ: Kết hôn – nam, nữ chính thức lấy nhau làm vợ, chồng; nghệ nhân – người chuyên làm nghề biểu diễn hay nghề thủ công, mĩ nghệ với trình độ lão luyện, tài ba); làm giảm tính chất tục tĩu, thiếu nhã nhặn của từ thuần Việt; bảo đảm tính nghiêm túc, lịch sự trong các văn bản pháp luật (ví dụ: xây nhà hộ sinh; nghiêm cấm đại tiện, tiểu tiện ở nơi công cộng…).

Hai là khi sử dụng từ Hán – Việt, cần hiểu rõ ý nghĩa từ vựng của từ để dùng đúng trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ: “sát nhập” và “sáp nhập”. “Sát” có nghĩa là giáp liền nhau; “sáp” có nghĩa là cắm vào, hợp vào làm một (trong tiếng Việt, nó hầu như không được dùng độc lập); “nhập” là vào. “Sáp nhập” có nghĩa khái quát là hợp lại làm một. Do đó, khi muốn thể hiện ý họp nhất những tổ chức, đơn vị… nào đó làm một, thành một thể thống nhất thì dùng “sáp nhập” chuẩn xác hơn là dùng “sát nhập”: Sáp nhập xã N và xã M thuộc huyện A thành xã NM, sáp nhập Uỷ ban Thể dục Thể thao, Tổng cục Du lịch và mảng văn hoá của Bộ Vãn hoá và Thông tin thành Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch…

Thói quen sử dụng từ điển tiếng Việt nói chung và từ điển Hán – Việt nói riêng sẽ giúp cho người soạn thảo văn bản pháp luật nắm được chính xác nghĩa của các từ để dùng từ đúng nghĩa từ vựng; mặt khác còn giúp phân biệt các từ Hán – Việt trùng âm với từ thuần Việt. Chẳng hạn: “yếu điểm” (từ Hán – Việt) là điểm chính, điểm quan trọng lại được sử dụng là “điểm yếu” (từ thuần Việt) có nghĩa là nhược điểm, chỗ còn yếu kém. Đồng thời, điều này còn giúp tránh được lỗi dùng thừa từ thường gặp, như: đường quốc lộ, nhà chuyên gia…

Một nhóm từ quan trọng và không thể thiếu khi soạn thảo văn bản pháp luật là các thuật ngữ chuyên môn. Thuật ngữ chuyên môn được dùng để biểu thị một cách cô đọng và chính xác nhất những khái niệm có liên quan tới lĩnh vực chuyên môn nhất định. Mỗi thuật ngữ chuyên môn chứa đựng trong đó một khối lượng tri thức nhất định có nội dung sâu sắc hơn những từ ngữ thông thường.

Tuy nhiên, nếu sử dụng rộng rãi loại từ này có thể làm cho văn bản trở nên khó hiểu đối với đại đa sổ nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu lực, hiệu quả của văn bản. Khi sử dụng các thuật ngữ chuyên môn cần quán triệt phương châm sau:

– Chỉ nên sử dụng trong các văn bản pháp luật khi đề cập tới những nội dung mang tính chuyên môn và đối tượng thi hành chủ yếu là những nhà chuyên môn.

– Chỉ sử dựng những thuật ngữ chính thức, đã được Nhà nước xác định rõ ràng về nghĩa. Thông thường, thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong các văn bản luật, để tạo một cách hiểu thống nhất cho người đọc, nhà làm luật ngay ở chương đầu của văn bản đã xác định rõ ràng về nghĩa của các từ, thuật ngữ được dùng trong văn bản.

Ví dụ: Trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thuật ngữ “vi phạm hành chỉnh” được nhà làm luật giải thích như sau: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính” (khoản 1 Điều 2).

Đối với các văn bản áp dụng pháp luật, người soạn thảo văn bản tuyệt đối không được tự mình đặt ra những thuật ngữ mới chưa từng được sử dụng trong các văn bản pháp luật trước đó, nghĩa chưa rõ ràng hoặc chưa được công nhận rộng rãi, vì sẽ không tạo được cách hiểu thống nhất cho những người sẽ tuân thủ hay áp dụng pháp luật.

– Phải sử dụng đúng nghĩa mà Nhà nước quy định, tức là phải tuân thủ nội hàm của khái niệm cần sử dụng. Chẳng hạn, thuật ngữ “thời hiệu” và “thởi hạn” trong xử lý vi phạm hành

chính; “tội phạm” và “phạm tội” trong luật hình sự là hai thuật ngữ pháp lý khác nhau (Xem: Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Bộ luật Hình sự năm 2015). Vì vậy, nếu dùng đồng nhất hai khái niệm này là không chính xác và có thể làm phát sinh nhiều vấn đề pháp lý phức tạp. Để bảo đảm tính thống nhất cho ngôn ngữ văn bản pháp luật, khi sử dụng các thuật ngữ chuyên môn phải bảo đảm sụ thống nhất ở cả hai cấp độ: trong cùng một văn bản và trong cả hệ thống văn bản pháp luật. Tránh tình trạng thuật ngữ “trẻ em” được pháp luật hiện hành quy định “là người dưới 16 tuổi” – Xem: Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016, nhưng khi sử dụng trong văn bản, người soạn thảo lại đưa ra cách hiểu: trẻ em là những người chưa trưởng thành. Việc dùng nhiều từ khác nhau để chỉ cùng một khái niệm trong một văn bản pháp luật (ví dụ: hội đồng nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan dân cử ở địa phương) có thể gây khó khăn không nhỏ cho người tiếp nhận văn bản. Điều này vừa không bảo đảm tính thống nhất của việc sử dụng ngôn ngữ trong văn bản pháp luật vừa ảnh hưởng tới tính chính xác của thuật ngữ được dùng.

Khi văn bản được gửi tới nhiều đối tượng có trình độ văn hoá, chuyên môn, nghề nghiệp khác nhau, nên hạn chế việc sử dụng các thuật ngữ chuyên môn vì không phải mọi thuật ngữ đều dễ hiểu đối với mọi đối tượng. Thay vì cách viết: “Trên đây là những quy định về bảo vệ môi trường, Ưỷ ban nhân dân huyện yêu cầu các cơ quan, đơn vị, tổ chức cá nhân có liên quan nghiên cứu và thực hiện nghiêm túc. Nếu ai cố tình vi phạm sẽ bị chế tài”, cần lựa chọn cách diễn đạt dễ hiểu hơn với những từ thông dụng . Nếu ai cố tình vi phạm, tuỳ tính chất, mức độ sẽ bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự theo quy định của pháp luật”.

Trong trường họp bắt buộc phải dùng những thuật ngữ không quen với người đọc thì cần có phần giải thích (đặt trong ngoặc đơn). Ví dụ: “Khi có những điều kiện nhất định do pháp luật quy định, người thuê nhà có quyền lưu cư (được ở lại nhà mình đã thuê theo hợp đồng với chủ sở hữu) với thời hạn không quá ba tháng khi họp đồng thuê nhà đã hết hạn”.

2. Sử dụng câu trong văn bản pháp luật

Việc đặt câu trong văn bản pháp luật phải tuân theo quy tắc chung của tiếng Việt. Tuy nhiên, để bảo đảm các yêu cầu về tính nghiêm túc, khách quan, tính chính xác cũng như tính thống nhất, phổ thông của ngôn ngữ văn bản pháp luật, khi viết câu trong nhóm văn bản này cần đáp ứng một số vấn đề sau:

2.1 Xác lập các câu ngắn gọn, rõ ràng

Một yêu cầu cơ bản trong cách hành văn của văn bản pháp luật là phải ngắn gọn, rõ ràng. Văn bản pháp luật có ngắn gọn mới dễ hiểu và dễ thi hành. Nếu viết những câu dài có thể gây sự khó hiểu và dễ mất đi tính chính xác của văn bản. Chính vì vậy, nên viết những câu ngắn, đủ hai thành phần nòng cốt (chủ ngữ và vị ngữ) để bảo đảm tính nghiêm túc, sự chính xác cho ý cần diễn đạt. Nên sử dụng câu thuận (câu có chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau) để người đọc văn bản dễ tiếp thu. Ví dụ: “Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số”. Tuy nhiên, trong văn bản pháp luật vẫn có thể chấp nhận những kiểu câu khuyết chủ (chủ ngữ ẩn). Ví dụ: “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.

Đe viết được các câu rõ nghĩa, trước hết câu đó phải có đủ những từ cần thiết để thể hiện một nội dung trọn vẹn, rõ ràng. Chẳng hạn, các văn bản luật Việt Nam hiện hành khi quy định về độ tuổi để các đối tượng tác động được thực hiện một hành vi nào đó thường dùng hai cách viết “từ… tuổi trở lên” hoặc “từ đủ… tuổi trở lên” tạo nên hai thời điểm tính tuổi khác hẳn nhau trong thực tế áp dụng pháp luật.

Đồng thời người viết cần nắm vững cách thức kết họp các từ để tạo thành câu đúng ngữ pháp và thể hiện đúng mục đích của chủ thể ban hành văn bản. Ví dụ.- Các cách kết hợp từ sau: “Cấm họp chợ trên đường bộ” (từ phủ định + hành vi) hoặc “không được họp chợ trên đường bộ” (từ phủ định + hành vi) tạo nên những câu đúng ngữ pháp và rõ nghĩa, giúp người đọc hiểu đúng ý đồ của người viết. Tuy nhiên, trong trường họp “Cấm không được họp chợ trên đường bộ”, người soạn thảo sử dụng cách viết “phủ định của phủ định” khiến người đọc có thể khẳng định theo chiều ngược lại: Được họp chợ trên đường bộ.

Với nhóm văn bản quy phạm pháp luật, một số quy tắc dùng từ và diễn đạt sau đây cần được đặc biệt chú ý để cho văn bản soạn thảo đạt độ chính xác cao, mặt khác thể hiện rõ tính nghiêm khắc, quyền uy của pháp luật:

– Khi nêu các giả định trong các quy phạm pháp luật thì nên dùng các cụm từ thể hiện khả năng chứ không dùng các từ hoặc cụm từ biểu đạt một sự khẳng định tuyệt đối. Các từ, ngữ thích hợp nhất và được dùng phổ biến nhất là: nếu, khi, trong trường hợp, hoặc, hay… Việc sử dụng các từ, ngữ này cũng cần phải linh hoạt để tránh lặp lại trong một quy định.

– Khi quy định những xử sự mà chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực hiện thì không nên dùng các từ “nên” hay “không nên”, “cần” mà dùng các từ: phải, có nghĩa vụ, có trách nhiệm, cấm, nghiêm cấm, không được…

– Khi quy định những xử sự mà chủ thể có thể lựa chọn thực hiện hay không thực hiện thì dùng: có quyền, được quyền, được, được phép…

Việc sắp xếp trật tự các từ trong câu sao cho thật chặt chẽ, logic cũng là một điều kiện quan trọng để bảo đảm sự chính xác, rõ ràng về nghĩa của các câu viết.

Sử dụng đúng các từ nối giữa các thành phần câu cũng là cách để diễn đạt rõ ràng, chính xác ý đồ của nhà quản lý. Chẳng hạn, trong các văn bản quy phạm pháp luật, từ nối “và” được sử dụng để nối giữa nhiều điều kiện đồng thời được đưa ra trong một quy định hoặc một sự việc mang tới đồng thời nhiều hậu quả pháp lý… Ví dụ: “Người bị buộc tội được coi là không cỏ tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và cỏ bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp ỉuật”.(l> Từ nối “hoặc” được sử dụng nếu trong một quy định đưa ra nhiều điều kiện mang tính loại trừ lẫn nhau hoặc một sự việc mà chỉ xảy ra một hậu quả pháp lý trong số nhiều hậu quả pháp lý có thể xảy ra.

Ví dụ: “Người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giả trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm ”.

2.2 Sử dụng một số kỹ thuật đặc thù khi viết những câu dài

Trong trường hợp phải viết những câu dài, nhiều vế, nhiều bộ phận, người viết văn bản cần lưu ý tách các vế câu, các bộ phận của câu theo những khuôn mẫu nhất định, như: dùng các cặp từ liên kết “tuy – nhưng”, “nếu – thì”, “không những – mà còn”… trong những văn bản viết theo “kết cấu văn nghị luận” (như chỉ thị); dùng các dấu câu, đặc biệt là dấu chấm phẩy (;) tách thành nhiều đoạn trình bày theo mẫu có sẵn trong các văn bản viết theo “kết cấu điều khoản” (như luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định…).

Ví dụ: Quyết định bổ nhiệm Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh A, câu trong quyết định này được viết như sau:

CHỦ TỊCH UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH

Căn cứ Luật Tổ chức chỉnh quyền địa phương ngày … tháng … năm …;

Căn cứ Luật Cán bộ, công chức ngày… tháng… năm …;

Căn cứ Nghị định số …/…/NĐ-CP ngày … tháng … năm … của Chỉnh phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;

Theo đề nghị của Giám đổc Sở Nội vụ,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1……………………………………………………………………………..

Điều 2……………………………………………………………………………..

Xét về cấu trúc ngữ pháp, toàn bộ nội dung quyết định trên đây chỉ là một câu, trong đó “Chủ tịch ưỷ ban nhân dân tỉnh” là chủ ngữ, “Quyết định” là vị ngữ, các điều khoản là bổ ngữ, các bộ phận đồng chức “căn cứ”, “theo đề nghị” là trạng ngữ của câu. Trong “câu” trên có rất nhiều câu hoàn chỉnh. Đây là cách đặt câu đặc trung trong văn bản pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp luật viết theo “kết cấu điều khoản”.

Trong những câu dài thì không nên liệt kê và tách biệt các nội dung bằng dấu câu (liệt kê theo hàng ngang), mà nên tách câu thành những đoạn ngắn phản ánh những nội dung độc lập để đánh sổ riêng (liệt kê theo hàng dọc). Phương pháp trình bày này giúp giảm bớt các từ ngữ trùng lặp, làm cho nội dung văn bản được thể hiện một cách ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu; tăng khả năng nắm bắt nhanh cho người đọc văn bản. Chẳng hạn, cách liệt kê theo hàng ngang trong quy định sau đây đã tạo sự trùng lặp làm nội dung điều khoản dài dòng và khó nắm bắt:

“Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vỉ vi phạm sau đây:

a) Buông cả hai tay khi đang điều khiển xe; dùng chăn điều khiển xe; ngồi về một bên điều khiển xe; nằm trên yên xe điều khiến xe; thay người điều khiển khi xe đang chạy; quay người về phía sau để điều khiển xe hoặc bịt mắt để điều khiển xe.

Nếu sử dụng cách thức liệt kê theo hàng dọc, quy định trên có thể được diễn đạt ngắn gọn, chính xác hơn mà vẫn không làm thay đổi nội dung:

“Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với người điều khiển xe vi phạm một trong các hành vi sau đây:

a) Điều khiển xe trong các tư thế:

– Buông cả hai tay;

– Dùng chân;

– Ngồi về một bên;

– Nằm trên yên;

– Quay người về phía sau;

– Bịt mắt.

b) Thay người điều khiển xe khi xe đang chạy;

Chính vì tính ưu việt như trên mà phương pháp trình bày này được dùng khá phổ biến trong các văn bản pháp luật hiện hành.

2.3 Lựa chọn, sử dụng các kiểu câu và dấu câu phù hợp

Biết cách lựa chọn đúng những kiểu câu phù hợp và viết những câu chuẩn ngữ pháp cũng là một cách để bảo đảm tính chính xác cho ngôn ngữ văn bản pháp luật.

Câu trong tiếng Việt có thể là câu khẳng định, câu phủ định, câu cảm thán, câu nghi vấn, câu chủ động hay câu bị động…; mỗi kiểu câu đều có những đặc điểm và ưu thế riêng. Việc lựa chọn và sử dụng các kiểu câu phù hợp với từng loại văn bản và từng tình huống cụ thể sẽ giúp cho việc chuyển tải ý đồ của người viết đến người đọc được dễ dàng và có hiệu quả hom.

Để bảo đảm tính nghiêm túc, khách quan của ngôn ngữ văn bản pháp luật, không sử dụng kiểu câu cảm thán, câu nghi vấn hay lối diễn đạt văn hoa, sáo rỗng. Phong cách hành chính của văn bản pháp luật đòi hỏi cách diễn đạt rõ ràng, dứt khoát nên rất thích họp với các kiểu câu khẳng định, phủ định hay câu chủ động.

Câu khẳng định là câu xác định một sự kiện, một hành vi nào là “có”, câu phủ định dùng để xác định là “không”. Câu khẳng định thường được sử dụng để xác lập các quy phạm cho phép hay bắt buộc. Ví dụ: “Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp”; “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật định” (Xem: Khoản 1 Điều 22 và Điều 47 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013). Câu phủ định thường dùng trong trường hợp đưa ra các quy phạm ngăn cấm.

Ví dụ: “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” – (Xem: Khoản 3 Điều 24 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013).

Câu chủ động là câu trong đó chủ thể thực hiện một hành động trong thế chủ động, được sử dụng khi muốn chỉ rõ cả hành động và chủ thể của hành động.

Ví dụ: “Gia đình, Nhà nước và xã hội có nghĩa vụ bảo vệ trẻ em”. Câu bị động thường nhấn mạnh vào hành động mà có thể không làm rõ trách nhiệm của đối tượng phải thực thi hành động và cơ chế bảo đảm thực hiện. Ví dụ: “Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo”. Người soạn thảo văn bản pháp luật cần tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để lựa chọn các kiểu câu phù hợp nhằm chuyển tải rõ ràng nhất nội dung của văn bản pháp luật. Chẳng hạn, đối với các quy định liên quan đến quyền, lợi ích của công dân trong văn bản quy phạm pháp luật, việc đặt câu ở thể chủ động sẽ giúp người đọc văn bản hiểu rõ được trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, từ đó bảo đảm tính khả thi cho các quy phạm. Tuy nhiên, nếu văn bản pháp luật viết theo “kết cấu nghị luận”, chẳng hạn chỉ thị về tăng cường công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, để bày tỏ thái độ khách quan của chủ thể ban hành văn bản khi đánh giá tình hình thực tế, người viết có thể sử dụng câu bị động “Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm trên dịa bàn huyện chưa được quan tâm đúng mức…” thay cho câu chủ động “Thời gian qua, các cơ quan chức năng của huyện đã không quan tâm đến công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm…”.

Câu còn phải được đánh dấu câu phù hợp. Dấu câu trong tiếng Việt rất phong phú, có 10 loại dấu câu thường dùng: dấu chấm (.); dấu chấm hỏi (?); dấu chấm than (!); dấu phảy (,); dấu chấm phảy (;); dấu hai chấm (:); dấu ba chấm (…); dấu ngoặc đơn (); dấu ngoặc kép (“ ”); dấu ngang cách (-). Các dấu câu này được sử dụng rất linh hoạt trong khi viết, cần phải hiểu rõ tác dụng của từng loại dấu câu trong tiếng Việt để sử dụng cho đúng trong văn bản pháp luật. Việc dùng dấu câu một cách hợp lý, đúng lúc, đúng chỗ làm cho các quan hệ về ngữ pháp, ngữ nghĩa của câu được tách bạch, rõ ràng. Ngược lại, khi dùng không chính xác thì nó làm cho câu viết trở nên lộn xộn, tối nghĩa, thậm chí bị hiểu sai về nghĩa.

Để bảo đảm tính chính xác cho nội dung văn bản pháp luật, đặc biệt là nhóm văn bản quy phạm pháp luật, nên hạn chế dùng dấu ba chẩm (…), vì có thể dẫn đến việc người áp dụng pháp luật tự ý thêm những nội dung mới theo ý chủ quan, làm sai lệch tinh thần của văn bản. Dấu chấm hỏi (?), chấm than (!) không được sử dụng trong văn bản pháp luật để bảo đảm sự nghiêm túc của chủ thể ban hành và tính khách quan của văn bản pháp luật.

3. Xây dựng đoạn trong văn bản pháp luật

3.1 Chia tách đoạn và cách thức trình bày đoạn văn

Đoạn văn là đon vị cấu thành nên văn bản, thường gồm một số câu hên kết chặt chẽ với nhau về nội dung và hình thức, thể hiện một chủ đề nhỏ của văn bản. Thông thường, đoạn văn được định vị trong một khổ viết, tính từ chỗ lùi đầu dòng và viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất cho đến chỗ dấu chấm xuống dòng.

Đoạn văn trong văn bản pháp luật có thể là một câu hoặc nhiều câu liên kết với nhau cùng triển khai một chủ đề bộ phận theo định hướng chung của toàn văn bản. Việc xác định một đoạn văn là một câu hay nhiều câu được tiến hành trên cơ sở nội dung của chúng. Nếu một câu đã phản ánh đầy đủ một nội dung (chủ đề) độc lập thì câu đó tạo thành một đoạn văn. Nếu một nội dung độc lập được phản ánh bằng nhiều câu, mỗi câu thể hiện những ý khác nhau nhưng đều nhằm triển khai nội dung chung đó thì chúng hợp thành một đoạn văn; góp phần cùng với các đoạn văn khác hoàn thiện chủ đề chung của toàn văn bản.

Như vậy, việc chia tách các đoạn văn trong văn bản pháp luật tuỳ thuộc vào nội dung của mỗi đoạn văn và đặc trưng của từng kiểu kết cấu. Với những văn bản viết theo “kết cấu điều khoản”, mỗi điều được xem là một đoạn, trong đó có thể gồm nhiều đoạn nhỏ hơn. Các đoạn nhỏ này có thể là các khoản hoặc chỉ là các câu sau mỗi chỗ chấm xuống dòng. Ví dụ:

“Điều 71. Thỉnh giảng

1. Thỉnh giảng là việc cơ sở giảo dục mời người đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 67 của Luật này đến giảng dạy. Người được cơ sở giảo dục mời giảng dạy được gọi là giáo viên thỉnh giảng hoặc giảng viền thỉnh giảng.

2. Giáo viên, giảng viên thỉnh giảng phải thực hiện nhiệm vụ quy định tại Điểu 69 của Luật này. Giảo viên, giảng viên thỉnh giảng là cán bộ, công chức, viên chức phải bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ nơi mình công tác.

3. Khuyến khích việc mời nhà giảo, nhà khoa học trong nước, nhà khoa học là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài đến giảng dạy tại cơ sở giáo dục theo chế độ thỉnh giảng”.

Cả Điều 71 Luật Giáo dục năm 2019 đều quy định về nội dung “Thỉnh giảng”, do vậy nó là một đoạn văn. Tuy nhiên, khoản 1, khoản 2 trong Điều luật này lại trình bày một ý tương đối độc lập nên nó là những đoạn nhỏ hơn nằm trong một đoạn lớn.

Với văn bản pháp luật viết theo “kết cấu văn nghị luận” mỗi đoạn bao gồm nhiều câu văn cùng triển khai về một nội dung nhất định, phục vụ cho việc thể hiện chủ đề chung của toàn văn bản. Trong trường họp này, đoạn văn có thể có cấu trúc ba phần:

– Phần chủ đề (có thể đứng ở đầu đoạn hoặc cuối đoạn tuỳ thuộc vào việc người viết trình bày nội dung đoạn văn theo hướng diễn dịch hay quy nạp): giới thiệu chủ đề của toàn đoạn.

– Phần khai triển: thuyết minh, diễn giải các nội dung liên quan đến chủ đề của đoạn.

– Phần kết thúc: nhấn mạnh lại nội dung chính của đoạn văn hoặc có thể chuyển tiếp để dẫn xuống đoạn văn dưới.

Ví dụ:

“Trong thời gian qua, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả bước đầu: việc quản lý chất lượng VSATTP trong lĩnh vực chế biến, kinh doanh lương thực, thực phẩm được tăng cường và từng bước đi vào nền nếp… Điều này đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện nhận thức và thực hành của người dân về lựa chọn, sử dụng, chế biến, bảo quản thực phẩm lưu thông nhằm tạo lập một thị trường thực phẩm vệ sinh, an toàn trên phạm vi toàn tỉnh, có tác dụng thiết thực trong phòng, chống ngộ độc thực phẩm. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại như: một số loại hàng hoá, thực phẩm không có xuất xứ rõ ràng hoặc hàng nhập lậu, không qua kiểm dịch, hàng quá hạn vẫn lưu thông trên thị trường; nhiều cơ sở sản xuất, chế biến lương thực, thực phẩm vẫn chưa thực hiện đúng quy trình VSATTP. Nguyên nhân của tình trạng trên là do ỷ thức tự giác chấp hành quy định pháp luật về VSATTP của người sản xuất, chế biến, kinh doanh và người tiêu dùng còn hạn chế; sự phối hợp giữa cảc ban, ngành, địa phương chưa chặt chẽ; việc kiểm tra, xử lý vi phạm chưa được tiến hành triệt để và đồng bộ. Đe tăng cường hơn nữa công tác đảm bảo VSATTP trong thời gian tới, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo:… ”

Có nhiều trường hợp, đoạn văn chỉ có phần khai triển (phần giải thích). Khi đó các câu trong đoạn đều có chứa đựng lượng thông tin và có giá trị như nhau mà không có câu chủ đề của đoạn. Kiểu cấu trúc này thường được sử dụng rộng rãi trong các văn bản chỉ thị, khi cấp có thẩm quyền chỉ đạo công việc đến các cơ quan, đơn vị cấp dưới.

Ví dụ:

“1. Sở Y tế chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành có liên quan, đẩy mạnh công tác tuyên truyền năng cao nhận thức trong cộng đồng về vệ sinh an toàn thực phẩm: hướng dẫn người tiêu dùng lựa chọn các thực phẩm an toàn. Tổ chức thanh tra, Idem tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm; phát hiện và ngăn chặn kịp thời việc nhập lậu mặt hàng thực phấm giả, thực phấm không rõ nguồn gốc, xuất xứ, thực phẩm quá hạn sử dụng và thực phẩm khác không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm…”

3.2 Liên kết trong đoạn và liên kết giữa các đoạn

Trong văn bản, mỗi câu đều có quan hệ về ngữ nghĩa và logic với những câu xung quanh. Các câu trong văn bản cần phải có sự liên kết với nhau một cách chặt chẽ để tạo thành các đoạn và sự liên kết giữa nhiều đoạn sẽ tạo thành văn bản nhằm chuyển tải đến người đọc một thông tin trọn vẹn. Việc liên kết các câu thành đoạn văn và liên kết các đoạn văn thành văn bản quyết định tới tính liên kết, thống nhất, chỉnh thể của văn bản pháp luật. Nói chung, phương thức liên kết giữa các đoạn văn bản không nằm ngoài những phương thức được sử dụng để liên kết các câu văn.

Các phương thức hên kết giữa các câu trong đoạn và các đoạn trong văn bản pháp luật thường được người soạn thảo sử dụng là:

– Phương thức nối: Phương thức này sử dụng các từ chỉ quan hệ và những từ ngữ có khả năng chuyển tiếp để liên kết giữa các câu trong đoạn và các đoạn trong văn bản. Đây là biện pháp được sử dụng phổ biến trong văn bản quản lý nhà nước.

Phương tiện dùng trong phương thức nối là các từ nối (từ quan hệ, liên từ, giới từ): và, hoặc; hay; với, cùng, tại, bởi, do… hoặc cặp từ (có thể lược bỏ một vế): (vì… nên; nếu… thì; tuy… nhưng; bởi vậy… cho nên…) hay các từ ngữ có ý nghĩa chuyển tiếp: tóm lại, nhìn chung, một là, hai là, tuy nhiên, mặt khác…

– Phương thức lặp: Đây là phương thức lặp lại trong câu sau một số từ, cụm từ hoặc cấu trúc của câu trước đó. Phương thức liên kết này giúp thể hiện tính khuôn mẫu của văn bản pháp luật, góp phần thể hiện sự quyền uy của chủ thể quản lý, do vậy nó được sử dụng thường xuyên trong việc xác lập phần cơ sở ban hành của nhóm văn bản pháp luật viết theo “kết cấu điều khoản”.

Ví dụ:

“Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật Viên chức ngày 15 tháng 11 năm 2010;

Căn cứ Nghị định sổ 29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chỉnh phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức,

– Phương thức thế: Đây là phương thức sử dụng trong câu hoặc đoạn sau một từ hoặc một cụm từ có giá trị tương đương với một từ hoặc cụm từ đã sử dụng trong câu hay đoạn trước; nhờ đó, các câu, các đoạn này liên kết với nhau.

Phương tiện dùng trong phương thức thế là các đại từ thay thế như này, ấy, đó, vậy…; hoặc các từ, cụm từ đồng nghĩa.

Ví dụ: “Căn cứ quy định của Luật này, Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền xử phạt, mức tiền phạt cụ thể theo từng chức danh và thẩm quyền lập biên bản đối với vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước; chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính và quy định mẫu biên bản, mẫu quyết định sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính” (Xem: Điều 4 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. thuần tuý mang tính hình thức được sử dụng rất phổ biến trong các văn bản pháp luật. Sự xuất hiện của các yếu tố nằm ngoài nội dung văn bản (có thể là các số tự nhiên hoặc các chữ cái được xếp theo bảng chữ cái tiếng Việt) vừa có ý nghĩa định vị các đoạn văn trong văn bản, vừa tạo sự gắn kết giữa các đoạn văn thành một chỉnh thể thống nhất).

Từ “Luật này” được dùng để thay thế cho Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Phương thức liên kết này vừa giúp cho các phần của văn bản gắn kết với nhau, vừa có tác dựng làm giảm độ dài do trùng lặp của văn bản.

3.3 Sắp xếp các đơn vị ngôn ngữ

Việc phân chia, sắp xếp một cách hợp lý các đơn vị ngôn ngữ trong văn bản cũng là một yếu tố quan trọng bảo đảm cho văn bản pháp luật có sự liên kết chặt chẽ về mặt nội dung. Việc dùng các phần, chương, mục, điều, khoản, điểm để đặt tên và đánh dấu các đơn vị nội dung (trong văn bản trình bày theo “kết cấu điều khoản”) hay phần, khoản, điểm (trong văn bản trình bày theo “kết cấu văn nghị luận”) là một phương thức liên kết.

Nguyên tắc của việc sắp xếp bố cục nội dung của văn bản pháp luật cần bảo đảm tính chặt chẽ, logic, dễ hiểu, dễ theo dõi. Việc chia nhỏ đề mục và đặt tên cho các đề mục nhằm cung cấp những thông tin nhất định cho người đọc, giúp người đọc dễ dàng nắm bắt nội dung của văn bản. Đồng thời, trật tự sắp xếp các câu văn trong đoạn và các đoạn trong văn bản cũng cần bảo đảm tính khoa học và hợp lý. Thông thường, để trình bày một vấn đề nào đó, người soạn thảo văn bản thường đi từ khái quát đến cụ thể, từ vấn đề quan trọng đến vấn đề ít quan trọng hơn, từ những quy định chung đến các quy định riêng. Chẳng hạn, các quy định về nội dung (như quy định về thẩm quyền, quyền, nghĩa vụ) phải được trình bày trước các quy định về trình tự, thủ tục; quy định về quyền và nghĩa vụ trình bày trước các quy định về chế tài và các nguồn lực bảo đảm thực hiện; quy định về trường hợp phổ biến trình bày trước quy định về trường hợp đặc thù; quy định chung trình bày trước quy định ngoại lệ… Đây chính là hướng tư duy, cách diễn đạt theo thói quen phổ biến của người Việt. Điều này giúp văn bản pháp luật dễ được tiếp thu và thực hiện.

Ví dụ: Việc sắp xếp các chương của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) theo trật tự hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm. Trong Phần các tội phạm, trật tự các điều được sắp xếp theo mức độ nghiêm trọng (giảm dần) của các nhóm tội: các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân… Tại mỗi điều, nhà làm luật đều sắp xếp nội dung vấn đề cần trình bày theo hướng từ quy định chung, mang tính phổ biến đến quy định ngoại lệ, đặc thù. Đồng thời, việc dùng các con số trong dãy số tự nhiên để đặt tên các điều và đặt trước các khoản giúp cho việc diễn đạt nội dung được rõ ràng, mạch lạc và giúp người đọc văn bản dễ tiếp thu, giúp người sử dụng văn bản dễ nhớ, dễ viện dẫn.

Chẳng hạn:

“Điều 98. Tội vô ý làm chết người

1. Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội làm chết nhiều người thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm

Một cách sắp xếp khác cũng thường được sử dụng là theo trình tự, diễn biến của vấn đề được nêu trong văn bản pháp luật. Chẳng hạn, trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính, điều khoản tuyên bố về việc phạt tiền phải được đặt trước điều khoản nói về việc nộp phạt. Hoặc việc sắp xếp các phần, chương, điều trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng tuân theo trình tự về thời gian của sự việc, phù hợp với thủ tục do pháp luật quy định: Khởi tố – Điều tra – Truy tố – Xét xử (Sơ thẩm – Phúc thẩm) – Thi hành…

Sự sắp xếp vị trí của các phần văn bản như trên tuân theo một trình tự logic không thể đảo ngược. Trong ngôn ngữ học, phương thức liên kết thể hiện mạch logic của văn bản theo trật tự thời gian, không gian, nhân quả… này được gọi là phép “trình tự tuyến tính”. Việc định vị các đoạn văn một cách hợp lý, khoa học vừa phản ánh đúng mối liên hệ khách quan của hiện thực, vừa là một phương thức liên kết rất quan trọng, được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)