Phân tích các quy định của pháp luật về hoạt động đại diện cho thương nhân – Hỗ trợ pháp lý cho Doanh Nghiệp – Trang thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Trong kinh doanh hiện nay, thương nhân không nhất thiết phải trực tiếp thực hiện mọi công việc, mà có thể sử dụng dịch vụ để giao cho những thương nhân khác đại diện mình thực hiện công việc nhưng vẫn dưới danh nghĩa của mình.
Hiện nay hoạt động thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ với sự tham gia đông đảo của các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và các tổ chức, cá nhân tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Do đó, hoạt động của thương nhân diễn ra rất sôi nổi và ngày càng mở rộng ở nhiều thị trường trên thế giới. Chính vì thế, các vấn đề liên quan đến thương nhân, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam trở thành một trong số những nội dung rất được quan tâm đối với các chủ thể áp dụng pháp luật Việt Nam. Quá trình hoạt động kinh doanh, công việc mà thương nhân phải thực hiện là rất đa dạng. Trong kinh doanh hiện nay, thương nhân không nhất thiết phải trực tiếp thực hiện mọi công việc, mà có thể sử dụng dịch vụ để giao cho những thương nhân khác đại diện mình thực hiện công việc nhưng vẫn dưới danh nghĩa của mình. Dịch vụ đó gọi là đại diện cho thương nhân là một lựa chọn đáp ứng được nhu cầu của thương nhân. Bài viết này tác giả sẽ đi làm rõ một số vấn đề về đại diện thương mại cũng như ưu nhược điểm của hoạt động này.
1. Khái niệm thương nhân
Thương nhân là chủ thể chính tham gia các quan hệ pháp luật thương mại Việt Nam. Chủ thể này được pháp luật quy định cụ thể tại khoản 1 điều 6 Luật Thương mại năm 2005 cụ thể như sau: “ 1. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Từ quy định tại khoản 1, điều 6, Luật Thương mại năm 2005 thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Quyền hoạt động thương mại của thương nhân được nhà nước bảo hộ. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm.
Đặc điểm của thương nhân
Từ khái niệm về thương nhân quy định tại điều 6 Luật Thương mại năm 2005, có thể đưa ra thương nhân một số đặc điểm sau :
– Chủ thể trở thành thương nhân bao gồm: Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp; Cá nhân có năng lực hành vi dân sự và điều kiện phù hợp với Luật Thương mại. Trong phạm vi bài viết này tác giả chỉ đề cập đến thương nhân chủ thể là các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp
– Chủ thể trở thành thương nhân phải hoạt động thương mại thường xuyên;
– Chủ thể đó trở thành thương nhân phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
2. Khái niệm về đại diện cho thương nhân và đặc điểm của đại diện cho thương nhân
2.1.Khái niệm đại diện cho thương nhân
Đại diện là một thuật ngữ quen thuộc xuất hiện hàng ngày trong cuộc sống và nó cũng đã được ghi nhận và đưa ra khái niệm cụ thể dưới góc độ pháp lý theo các văn bản luật như: Bộ Luật dân sự năm 1995, Bộ Luật Dân sự năm 2005 và hiện nay tại điều 134 Bộ Luật Dân sự năm 2015 đưa ra khái niệm về nội dung này:
“1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2. Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.
3. Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.”
Như vậy có thể hiểu đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Xuất phát từ khái niệm đại diện trong Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại năm 2005 cũng có quy định về đại diện cho thương nhân tại điều 141 như sau:
“1. Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện.
2. Trong trường hợp thương nhân cử người của mình để làm đại diện cho mình thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự”.
2.2. Đặc điểm của đại diện cho thương nhân
Từ khái niệm về đại diện cho thương nhân ta có thể thấy rằng đại diện cho thương nhân có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về bản chất: Đại diện thương mại là quan hệ trung gian thương mại, quan hệ đại diện theo ủy quyền. Hoạt động này chỉ được diễn ra khi một chủ thể có nhu cầu giao công việc cho một chủ thể khác thay mình thực hiện. Đây cũng là một trong bốn hoạt động trung gian thương mại
Thứ hai về chủ thể tham gia quan hệ đại diện: Quan hệ đại diện cho thương nhân phát sinh giữa bên đại diện và bên giao đại diện. Trong quan hệ đại diện cho thương nhân thì cả bên đại diện và bên giao đại diện đều phải là thương nhân. Bên giao đại diện là một thương nhân có quyền thực hiện những hoạt động thương mại nhất định (như mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại) nhưng lại muốn giao quyền đó cho thương nhân khác, thay mình thực hiện hoạt động thương mại. Bên đại diện cho thương nhân cũng phải là thương nhân thực hiện hoạt động đại diện một cách chuyên nghiệp. Do đó, có thể thấy hoạt động đại diện cho thương nhân liên quan tới 3 chủ thể: bên giao đại diện, bên đại diện và bên thứ ba (có thể là một hoặc một số người).
Thứ ba, về tư cách pháp lý trong giao dịch với bên thứ ba, trong quan hệ với bên giao đại diện, bên đại diện sẽ nhân danh chính mình nhưng trong quan hệ với bên thứ ba thì họ sẽ nhân danh bên giao đại diện mà không nhân danh chính mình. Do đó, trong phạm vi ủy quyền, bên đại diện được giao dịch với bên thứ ba và mọi hành vi do bên đại diện thực hiện trực tiếp mang lại hậu quả pháp lý cho bên giao đại diện. Khi bên đại diện giao dịch với bên thứ ba thì về mặt pháp lý, các hành vi do người này thực hiện được xem như là chính người ủy quyền (người giao đại diện) thực hiện. Bên giao đại diện phải chịu trách nhiệm về các cam kết do bên đại diện thực hiện trong phạm vi ủy quyền. Đây là điểm khác biệt cơ bản của hoạt động đậi diện cho thương nhân so với các hoạt động trung gian thương mại khác. Trong quan hệ đại diện cho thương nhân, giữa bên đại diện và bên giao đại diện có sự ràng buộc khá chặt chẽ.
Thứ tư, về nội dung của hoạt động đại diện cho thương nhân: Pháp luật không quy định cụ thể nội dung đại diện cho thương nhân gồm những gì. Do vậy căn cứ vào từng trường hợp mà các bên tham gia quan hệ thỏa thuận với nhau. Nội dung phạm vi đại diện thường gắn với các hoạt động thương mại. Hoạt động đại diện thương mại thường khá rộng, được tiến hành trong suốt thời gian đại diện, không giới hạn vào một vụ việc cụ thể.Các bên có thể thỏa thuận về việc bên đại diện được thực hiện một phần hoặc toàn bộ các hoạt động thương mại thuộc phạm vi hoạt động của bên giao đại diện. Hoạt động đại diện cho thương nhân thường bao gồm: việc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh cho thương nhân giao đại diện; được ủy quyền tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường, lựa chọn đối tác, đàm phán, giao kết hợp đồng với bên thứ ba trên danh nghĩa của bên giao đại diện và được tiến hành trọng suốt thời gian đại diện. Cùng một lúc, bên đại diện có thể tiến hành hoạt động này cho nhiều thương nhân nhưng không được nhân danh bên được đại diện để xác lập giao dịch với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (khoản 2 điều 141 Bộ Luật Dân sự năm 2015).
Thứ năm, về cơ sở pháp lý cho hoạt động đại diện cho thương nhân: Quan hệ đại diện cho thương nhân phát sinh trên cơ sở hợp đồng đại diện cho thương nhân. Quan hệ đại diện cho thương nhân là quan hệ đại diện theo ủy quyền được quy định trong Bộ luật dân sự, bởi vậy, hợp đồng đại diện cho thương nhân là một dạng đặc biệt của hợp đồng ủy quyền. Khác với hợp đồng ủy quyền trong dân sự chỉ mang tính chất đền bù khỉ được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, hợp đồng đại diện cho thương nhân luôn mang tính chất đền bù. Xét về bản chất chúng ta có thể thấy rằng, hợp đồng đại diện cho thương nhân là một dạng riêng của hợp đồng ủy quyền được quy định tại mục 13 Bộ Luật dân sự năm 2015 nhưng đồng thời là hợp đồng dịch vụ. Bởi vậy, đối tượng của hợp đồng đại diện cho thương nhân là những công việc mà bên đại diện phải tiến hành trên danh nghĩa và theo sự chỉ dẫn của bên giao đại diện. Hợp đồng đại diện cho thương nhân phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 142 Luật Thương mại). Để đảm bảo quyền tự do của các bên khi giao kết hợp đồng, Luật Thương mại năm 2005 đã bỏ quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng đại diện cho thương nhân nhưng xuất phát từ bản chất của quan hệ đại diện cho thương nhân và để hạn chế tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng đại diện cho thương nhân, khi giao kết hợp đồng này các bên có thể thỏa thuận về những điều khoản sau: Phạm vi đại diện; thời hạn đại diện; mức thù lao trả cho bên đại diện; thời điểm phát sinh quyền được hưởng thù lao, thời gian và phương thức thanh toán tiền thù lao cho việc đại diện; quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng.
Thứ sáu, về mục đích của đại diện cho thương nhân: mục đích của hoạt động đại diện thương mại là sinh lời. Do đó, quan hệ đại diện thương mại luôn mang tính song vụ, đền bù.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động đại diện thương mại
3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên đại diện
Trong quan hệ đại diện cho thương nhân trên thực tế, có thể thấy bên giao đại diện không những cho phép và ủy quyền cho bên đại diện quan hệ với bên thứ ba mà còn thường xuyên giao tiền và tài sản của mình cho bên đại diện thực hiện việc quản lý. Do đó, nếu bên đại diện sơ suất hay thiếu trung thực thì có thể làm ảnh hưởng tới quyền lợi của bên giao đại diện. Chính vì vậy, pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều có quy định bên đại diện có nghĩa vụ phải phục tùng, cần mẫn, trung thành và có nghĩa vụ thông báo đối với bên giao đại diện theo quy định của pháp luật. Luật Thương mại năm 2005 đã quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của bên đại diện cụ thể như sau:
* Quyền của bên đại diện
Theo quy định của pháp luật thì bên đại diện có các quyền sau:
– Quyền hưởng thù lao được quy tại điều 147 Luật Thương mại năm 2005: Bên đại diện có quyền được hưởng thù lao đối với các hợp đồng được giao kết trong phạm vi đại diện theo ủy quyền. Mức thù lao và thời điểm phát sinh quyền được hưởng thù lao được bên đại diện và bên giao đại diện thỏa thuận trong hợp đồng đại diện. Các bên tham gia vào hợp đồng đại diện có thể thỏa thuận phương pháp xác định thù lao tùy theo điều kiện cụ thể của hợp đồng đại diện. Quy định của Luật Thương mại năm 2005 không ấn định thời điểm và các điều kiện phát sinh quyền hưởng thù lao của bên đại diện, mà quyền này sẽ do các bên tham gia hợp đồng đại diện tự do thỏa thuận. Trên thực tế, quyền được hưởng thù lao của bên đại diện thường phát sinh sau khi các hợp đồng giao dịch giữa bên giao đại diện và bên thứ ba được giao kết thành công nếu đáp ứng các điều kiện sau:
+ Hợp đồng giao dịch phải được giao kết trong phạm vi đại diện được ủy quyền;
+ Chỉ dẫn của bên giao đại diện đều được bên đại diện chấp hành nghiêm chỉnh;
+ Hợp đồng giao dịch với bên thứ ba đã được giao kết dưới tác động của bên đại diện.
Nếu các bên không thỏa thuận mức thù lao cho bên đại diện trong hợp đồng đại diện thì mức thù lao cho bên đại diện được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ theo quy định của Luật Thương mại.
– Quyền yêu cầu thanh toán chi phí (điều 148 Luật Thương mại năm 2005): Trong hợp đồng đại diện, bên đại diện và bên giao đại diện có quyền thỏa thuận về nghĩa vụ thanh toán các chi phí liên quan đến việc thực hiện các hoạt động đại diện theo ủy quyền. Các bên có thể thỏa thuận mọi chi phí phải trả cho hoạt động đại diện đều do bên đại diện tự chịu, và bên giao đại diện không có nghĩa vụ thanh toán các chi phí đó cho bên đại diện. Để bảo vệ lợi ích chính đáng của bên đại diện, pháp luật thương mại có quy định bên đại diện có quyền yêu cầu bên giao đại diện thanh toán các khoản chi phí phát sinh hợp lý để thực hiện hoạt động đại diện trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng đại diện.
– Quyền được cầm giữ tài sản, tài liệu được giao (điều 149 Luật Thương mại năm 2005): thực chất đây là một quyền phái sinh từ quyền được hưởng thù lao và được thanh toán các chi phí hợp lý đã đến hạn của bên đại diện, bởi để đảm bảo cho các quyền được hưởng thù lao và được thanh toán các chi phí hợp lý được thực hiện, thì bên đại diện có quyền cầm giữ tài sản, tài liệu được giao trong quá trình thực hiện hoạt động đại diện theo ủy quyền trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác trong hợp đồng đại diện.
* Nghĩa vụ của bên đại diện (điều 145 Luật Thương mại năm 2005):
Theo quy định tại Điều 145 Luật thương mại 2005, trừ trường hợp có thỏa thuận khác thì bên đại diện có các nghĩa vụ sau;
– Thực hiện hoạt động thương mại dựa trên danh nghĩa và vì lợi ích của bên giao đại diện. Các hoạt động thương mại mà bên đại diện được bên giao đại diện ủy quyền thực hiện thường là các hoạt động tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, lựa chọn bên thứ ba có nhiều khả năng trở thành đối tác kinh doanh của bên giao đại diện hoặc tiến hành giao kết hợp đồng với bên thứ ba thay cho bên giao đại diện. Trong phạm vi đại diện được ủy quyền, bên đại diện phải thực hiện các hoạt động thương mại nhân danh bên giao đại diện chứ không được nhân danh cá nhân bên đại diện. Những giao dịch thương mại do bên đại diện thực hiện nhân danh bên giao đại diện nếu vượt quá phạm vi đại diện mà không được bên giao đại diện chấp nhận thì bên đại diện phải chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với bên thứ ba, trừ trường hợp bên thứ ba đã biết hoặc phải biết về việc bên đại diện không có thẩm quyền đại diện. Khi thực hiện giao dịch với bên thứ ba, bên đại diện phải có nghĩa vụ thông báo cho bên thứ ba về thời hạn, phạm vi được ủy quyền đại diện của mình cũng như thông báo về việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền đại diện. Khi thực hiện các hoạt động thương mại trong phạm vi được ủy quyền, bên đại diện phải tuân thủ nguyên tắc thực hiện hợp đồng trung thực, theo tinh thần hợp tác và bảo đảm tin cậy lẫn nhau. Bên đại diện có nghĩa vụ hoạt động vì quyền và lợi ích hợp pháp của bên giao đại diện, bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích hợp pháp của bên giao đại diện thông qua việc nỗ lực hoạt động để tìm kiếm khách hàng, nguồn hàng, tìm hiểu diễn biến của thị trường, tình hình hoạt động của bên thứ ba hoặc giữ gìn tốt các quan hệ kinh doanh cho bên giao đại diện. Tuy nhiên, nghĩa vụ này không có nghĩa là bên đại diện không được phép đại diện cho hai hoặc nhiều thương nhân cùng một lúc với điều kiện là trong hợp đồng đại diện không có những hạn chế như vậy.
– Thông báo cho bên giao đại diện về cơ hội và kết quả thực hiện của các hoạt động thương mại đã được ủy quyền đại diện: Bên đại diện có nghĩa vụ phải nỗ lực để cung cấp cho bên giao đại diện về các thông tin mà mình biết hay phải biết với cương vị là bên đại diện theo quy định. Bên đại diện có nghĩa vụ phải thông báo kịp thời cho bên giao đại diện về diễn biến của thị trường, tình hình kinh doanh, khả năng trả nợ của đối tác và kết quả của các hoạt động đã thực hiện để bên giao đại diện có thể chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh cho phù hợp với tình hình thị trường cũng như kịp thời đưa ra các chỉ dẫn cụ thể cho bên đại diện.
– Tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn của bên giao đại diện nếu những chỉ dẫn của bên giao đại diện không vi phạm quy định của pháp luật. Nghĩa vụ này của bên đại diện đòi hỏi trong phạm vi được ủy quyền đại diện thì bên đại diện phải tuân theo mọi chỉ dẫn của bên giao đại diện. Bên đại diện có nghĩa vụ phải trao đổi, thông báo cho bên giao đại diện khi không thể thực hiện những chỉ dẫn của bên giao đại diện hoặc việc thực hiện những chỉ dẫn đó có nguy cơ gây thiệt hại cho bên giao đại diện. Ngoài ra, bên đại diện có quyền từ chối thực hiện những chỉ dẫn của bên giao đại diện nếu những chỉ dẫn của bên giao đại diện vi phạm các quy định của pháp luật hoặc không phù hợp với hợp đồng đại diện.
– Bảo quản tài liệu, tài sản được giao để thực hiện hoạt động đại diện theo ủy quyền. Bên đại diện phải có trách nhiệm phải bảo quản tài sản, tài liệu được giao và phải hoàn trả tài sản, tài liệu đó cho bên giao đại diện khi ben đại diện kết thúc hoạt động đại diện theo ủy quyền. Bên đại diện phải có nghĩa vụ bảo quản tài sản được giao riêng biệt bởi bên giao đại diện giao đối với tài sản của mình.
– Trong thời gian làm đại diện và trong thời hạn 2 năm kể từ khi hợp đồng đại diện chấm dứt, bên đại diện không được tiết lộ hoặc cung cấp cho người khác các bí mật liên quan đến hoạt động thương mại của bên giao đại diện.
3.2.Quyền và nghĩa vụ của bên giao đại diện
Mặc dù cả bên đại diện và bên giao đại diện đều có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đại diện, tuy nhiên trên thực tế nghĩa vụ của bên đại diện thường được quan tâm nhiều hơn. Điều đó xuất phát từ bản chất của quan hệ đại diện cho thương nhân, trong quan hệ đại diện người phải thực hiện nghĩa vụ đại diện theo hợp đồng và theo quy định của pháp luật chủ yếu là bên đại diện. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thương mại hiện hành, bên giao đại diện cũng có một số quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định.
* Quyền của bên giao đại diện
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về quyền của bên giao đại diện. Tuy nhiên, do tính chất của hợp đồng đại diện cho thương nhân là hợp đồng song vụ nên thông qua các nghĩa vụ của bên đại diện, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia. Do đó ta có thể xác định được quyền của bên giao đại diện bao gồm các quyền sau:
– Quyền không chấp nhận hợp đồng giao dịch do bên đại diện ký không đúng thẩm quyền đại diện theo ủy quyền. Bên giao đại diện có quyền yêu cầu bên đại diện và bên thứ ba đã ký kết giao dịch bồi thường thiệt hại phát sinh nếu bên đại diện và bên thứ ba cố ý xác lập, thực hiện giao dịch vượt quá thẩm quyền đại diện.
– Quyền yêu cầu bên đại diện phải cung cấp các thông tin liên quan đến việc thực hiện hoạt động thương mại được ủy quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng đại diện.
– Quyền đưa ra những chỉ dẫn cho bên đại diện và yêu cầu bên đại diện phải tuân thủ các chỉ dẫn đó
*
Nghĩa vụ của bên giao đại diện
Nghĩa vụ của bên giao đại diện được quy định cụ thể tại điều 146 Luật Thương mại năm 2005. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng đại diện, bên giao đại diện có các nghĩa vụ sau:
– Nghĩa vụ thông báo: bên giao đại diện có nghĩa vụ thông báo ngay cho bên đại diện về việc giao kết hợp đồng mà bên đại diện đã giao dịch, thông báo về việc thực hiện hợp đồng mà bên đại diện đã giao kết. Đối với hoạt động ngoài phạm vi đại diện được ủy quyền thực hiện mà bên đại diện đã thực hiện thì bên giao đại diện phải thông báo ngay việc chấp nhận hoặc không chấp nhận cho bên đại diện. Bên giao đại diện có nghĩa vụ phải thông báo kịp thời cho bên đại diện về khả năng không giao kết được hoặc không thực hiện được các hợp đồng giao dịch trong phạm vi đại diện.
– Nghĩa vụ cung cấp tài sản, tài liệu, thông tin cần thiết để bên đại diện thực hiện hoạt động đại diện: đây được hiểu là nghĩa vụ mà bên giao đại diện phải thực hiện nhằm tạo điều kiện cho bên đại diện thực hiện hoạt động đại diện nhưng cũng là để phục vụ cho lợi ích của bên giao đại diện.
– Nghĩa vụ trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại diện: đây là nghĩa vụ quan trọng của bên giao đại diện đối với bên đại diện. Thù lao mà bên giao đại diện phải thực hiện thanh toán cho bên đại diện có thể bao gồm thù lao theo hợp đồng đại diện và những khoản thù lao phát sinh khác do bên đại diện phải thực hiện các nghĩa vụ ngoài những nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đại diện. Ngoài ra, bên giao đại diện còn có nghĩa vụ phải thanh toán cho bên đại diện những chi phí liên quan đến việc đại diện, nếu các bên không có thỏa thuận khác trong hợp đồng đại diện.
Hiện nay, đại diện cho thương nhân là dịch vụ phổ biến, được ưa chuộng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Với những đặc điểm và những quy định của pháp luật được phân tích trên các thương nhân cần nghiên cứu kỹ về quyền và nghĩa vụ cũng như những mặt mạnh, yếu của hoạt động này để sử dụng, kinh doanh có hiệu quả.
Lê Tâm