Phân tích các đặc điểm của nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong việc vận dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn quản lý – Luận văn, đồ án
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động có mục đích nào, quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là những tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả các công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công.
Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước mang tính khách quan và khoa học.Nên các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước phải được xây dựng, tổng kết và rút ra từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước.
Trên thực tế, việc tiến hành hoạt động quản lý hành chính nhà nước cần phải dựa trên rất nhiều nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác nhau, trong đó có những nguyên tắc được xác định là những nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. Đây là những nguyên tắc có tính bao trùm, chi phối toàn bộ các hoạt động cơ bản của quản lý hành chính nhà nước đồng thời là cơ sở để hình thành, xây dựng và tổ chức thực hiện những nguyên tắc khác trong quản lý hành chính nhà nước.
Với tầm quan trọng như vậy nên nhóm chúng em quyết định chọn đề “Phân tích các đặc điểm của nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong việc vận dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay.”
19 trang
|
Chia sẻ: lvcdongnoi
| Lượt xem: 40114
| Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích các đặc điểm của nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong việc vận dụng các nguyên tắc đó trong thực tiễn quản lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng tháng Tám đã thắng lợi và nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước Việt Nam kiểu mới đã ra đời. Kể từ đó sự phát triển của Nhà nước Việt Nam kiểu mới luôn gắn với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thực tế lịch sử đã chỉ rõ, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là hạt nhân của mọi thắng lợi của của cách mạng nước ta.
Bằng những hình thức và phương pháp hoạt động của mình, Đảng cộng sản giữ vai trò quyết định đối với việc xác định phương hướng hoạt động của Nhà nước trên mọi lĩnh vực. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước mang tính toàn diện cả về chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tư tưởng văn hóa. Tuy vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của nhà nước không đồng nghĩa với việc can thiệp vào các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan nhà nước, mà đó chính là việc Đảng định hướng về mặt tư tưởng, xác định đường lối quan điểm giai cấp, phương châm chính sách, công tác tổ chức trên lĩnh vực chuyên môn.
Hơn nữa, sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản với hoạt động của nhà nước không phải là không có giới hạn. Hiến pháp của nước ta đã xác định rõ: “mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật” (Điều 4 – Hiến pháp 1992).
Những thành quả cách mạng mà nhân dân ta giành được trong công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc, xây dựng đất nước, đặc biệt là những thành công đạt được trong công cuộc đổi mới hiện nay là cơ sở để khẳng định rằng sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động quản lý nhà nước là một tất yếu khách quan. Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của nhà nước nói chung, hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng được thừa nhận là nguyên tắc cơ bản và được đặt lên hàng đầu trong quản lý hành chính nhà nước. Điều 4 Hiến pháp 1992 – đã khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Nguyên tắc đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện ở cá hình thức và phương pháp hoạt động của Đảng:
– Đảng đưa ra những đường lối, chủ trương, chính sách của mình về các lĩnh vực hoạt động khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Điều 22 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã xác định “Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội….”. Tuy vậy, ở đây cần nhấn mạnh rằng nghị quyết của Đảng không phải là văn bản mang tính quyền lực – pháp lý. Những Nghị quyết này được thực hiện trên thực tế thông qua hàng loạt những hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Qua những hoạt động này, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng sẽ được thực hiện hóa trong quản lý hành chính nhà nước.
– Vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong công tác tổ chức cán bộ. Đây là công việc có vai trò đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước. Điều 4 Pháp lệnh Cán bộ, công chức đã ghi nhận “Công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng cộng sản Việt Nam…”, thể hiện ở chỗ: Các tổ chức Đảng bồi dưỡng, đào tạo những Đảng viên ưu tú, có phẩm chất và năng lực để gánh vác những nhiệm vụ trong bộ máy hành chính nhà nước. Tổ chức Đảng có ý kiến về việc bố trí những cán bộ phụ trách vào những vị trí lãnh đạo của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên vấn đề bầu, bổ nhiệm được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước theo nội dung, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Ý kiến của Đảng là cơ sở để các cơ quan nhà nước xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng.
– Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước bằng hình thức kiểm tra. Kiểm tra của các tổ chức Đảng là kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Việc kiểm tra này nhằm đánh giá tình hiệu quả, thực tế của các chính sách mà Đảng đề ra, trên cơ sở đó khắc phục những khiếm khuyết, phát huy những mặt tích cực trong công tác lãnh đạo. Điều này đảm bảo cho hoạt động của các tổ chức Đảng có tính thông tin hai chiều.
Cũng thông qua công tác kiểm tra Đảng, các tổ chức Đảng biết được tình hình thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách do mình đề ra, trên cơ sở đó có các biện pháp uốn nắn kịp thời nhằm làm cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước đi them đúng định hướng phù hợp với lợi ích của giai cấp, lợi ích dân tộc.
– Cùng với những hình thức nêu trên, sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý hành chính nhà nước còn được thực hiện thông qua uy tín và vai trò gương mẫu của các tổ chức Đảng và các Đảng viên. Việc nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật được coi là kỷ luật của tổ chức Đảng. Chính điều đó đã tạo cơ sở quan trọng để nâng cao uy tín của Đảng đối với nhân dân, với cơ quan nhà nước, làm cho các tổ chức Đảng trở thành hạt nhân lãnh đạo của các cơ quan hành chính nhà nước.
Ví dụ đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách hành chính trong tiến trình đổi mới.
Từ xác định những nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân là công tác tổ chức và đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ chức bộ máy nhà nước đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối.
Đến Đại hội VII, Đảng xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII thông qua đã khẳng định bước tiến về lý luận, nhận thức về nền hành chính nhà nước. Chiến lược cũng nêu trọng tâm cải cách “nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả”.
Sau Đại hội VII, từ 1992 đến 1995 là giai đoạn phát triển mạnh tư duy, quan niệm, nhận thức của Đảng về nền hành chính nhà nước và về cải cách hành chính. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII (1/1995) đánh dấu bước phát triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước. Lần đầu tiên 3 nội dung chủ yếu của cải cách hành chính nhà nước được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8, đó là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Tiếp tục khẳng định cải cách hành chính là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh yêu cầu tiến hành cải cách hành chính đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật, coi đó là một giải pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 1996-2000.
Từ việc kiểm điểm tình hình và rút kinh nghiệm thực tiễn, Đảng đã đi đến khẳng định trong điều kiện một Đảng cầm quyền, sự đổi mới chưa đồng bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị là trở ngại lớn của công cuộc cải cách hành chính trong thời gian qua. Không thể tiến hành cải cách riêng nền hành chính tách rời sự đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân. Cũng không thể cải cách hành chính một cách biệt lập mà không đồng thời đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp. Từ nhận thức đó, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) đề ra chủ trương tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị gắn liền với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, với việc kiên quyết sắp xếp một bước bộ máy các tổ chức trong hệ thống chính trị, thực hiện tinh giảm biên chế, cải cách chính sách tiền lương.
Đại hội IX (năm 2001) bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới như điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rõ chức năng quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng…
2. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước.
Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được nhà nước xã hội chủ nghĩa ghi nhận và thực hiện. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do nhân dân lao động tự tổ chức và lập nên để thực hiện quyền lực và phục vụ lợi ích của mình. Thông qua nhà nước, nhân dân lao động có thể phát huy tài năng sức lực của chính mình trong việc quản lý và phát triển xã hội. Điều 2 Hiến pháp 1992 (sủa đổi năm 2001 ) nêu rõ: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nền tảng là giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.
Để đảm bảo tính chất nhân dân là chủ thể đặc biệt của nhà nước pháp quyền, việc tạo điều kiện để nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước phải được ghi nhận và đảm bảo thực hiện như là một nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. Điều 3 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 khẳng định: “Nhà nước đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Quyền được tham gia vào quản lý hành chính nhà nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân được hiến pháp ghi nhận và trên thực tế, nguyên tắc này đã được đảm bảo thực hiện thông qua hàng loạt những hoạt động cụ thể.
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước là nguyên tắc rất quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước. Nó khẳng định vai trò đặc biệt của nhân dân lao động trong quản lý hành chính nhà nước nói riêng va quản lý xã hội nói chung. Điều này phù hợp với nguyên lý “Nhân dân là gốc của quyền lực Nhà nước” – một nguyên lý rất khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã vạch ra và được thực tiễn lịch sử chưng minh. Không chỉ vây, nguyên tắc này cũng xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện để đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được tham gia vào quản lý hành chính nhà nước.
Các hình thức tham gia vào quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động bao gồm:
a. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Các cơ quan nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước. Vì vậy, tham gia vào hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước là hình thức tham gia tích cực, trực tiếp vào quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Người lao động nếu đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn, yêu cầu mà pháp luật quy định đều có thể tham gia vào các hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cụ thể là:
Người lao động có thể trở thành thành viên của các cơ quan quyền lực nhà nước – họ là những đại biểu được lưa chọn thông qua con đường bầu cử. Khi ở cương vị này, người lao động hoàn toàn có thể trực tiếp xem xét và giải quyết các vấn đề của đất nước thông qua các cơ quan nhà nước ở Trung ương hay địa phương tuỳ vào vị trí của mình.
b. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
Nhà nước ta tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham gia một cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Trong các văn bản pháp luật của nhà nước có rất nhiều các quy định liên quan tới vị trí, vai trò, quyền hạn va nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong quản lý hành chính nhà nước nói riêng và quản lý nhà nước nói chung. Điều 9 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) khẳng định: “Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thanh viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Các tổ chức xã hội được nhà nước hỗ trợ về vật chất và tinh thần để nhân dân lao động hòan toàn thể hiện được quyền làm chủ của mình thông qua các tổ chức này. Nhân dân lao động thể hiện được sự sáng tạo của mình trong việc quản lý hành chính nhà nước thông qua các tổ chức xã hội, vì thế mà các tổ chức xã hội thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Đây có thể coi là hình thức hoạt động có ý nghĩa lớn trong việc thúc đẩy và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
c. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Hoạt động tự quản ở cơ sở trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước của ta từ lâu đã trở thành hoạt động mang tính chất truyền thống. Đây là hoạt động do nhân dân lao động tự thực hiện và chúng có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác của quản lý hành chính nhà nước và quản lý xã hội. Trên thực tế, ở bất kỳ địa phương nào hiện nay đều có hoạt động tự quản bởi lẽ chúng rất gần gũi với đời sống của mỗi công dân như: hoạt động quản lý an ninh trật tự, công tác vệ sinh môi trường, tổ chức đời sống công cộng….Chính trong những hoạt động tự quản này, nhân dân lao động tham gia tích cực, nhiệt tình va cụ thể, bởi vậy, quyền tham gia quản lý hành chính nhà nước và quản lý xã hội thực sự được tôn trọng và đảm bảo thực hiện.
d. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước.
Điều 53 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) đã quy định công dân có quyền “tham gia quản lý hành chính nhà nước và xã hội, tham gia thao luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Để đảm bảo thực hiện quyền cơ bản này của nhân dân, pháp luật đã quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Các quyền và nghĩa vụ này của công dân có thể thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hoặc có thể được chính người dân trực tiếp thực hiện. Sự tham gia trực tiếp đó cũng chính là một hình thức tham gia vào quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Cùng với sự phát triển của xã hội, các quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được tôn trọng và đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ hơn. Chính vì thế, đây cũng chính là một hình thức quan trọng không thể thiếu để nhân dân lao động có thể phát huy quyền làm chủ của mình đối với nhà nước.
Thực tiễn về tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước của nhân dân:
Người lao động nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật quy định có thể tham gia ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước thông qua con đường bầu cử. Với tư cách là đại biểu Quốc hội, người lao động trực tiếp xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của từng địa phương, trong đó có các vấn đề về quản lý hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, nhân dân lao động có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước khác như toà án, viện kiểm soát… Với tư cách là những cán bộ, công chức, nhân dân lao động sẽ sử dụng một cách trực tiếp quyền lực nhà nước để tiến hành những công việc khác nhau của quản lý hành chính nhà nước thể hiện vai trò làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình.
Ngoài ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền bầu cử để lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước trung ương hay địa phương.
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập trung dân chủ có tầm quan trọng đặc biệt. Một mặt, nó bảo đảm sự thống nhất ý chí và lợi ích vì những mục đích và nhiệm vụ của toàn xã hội. Và, mặt khác, nó bảo đảm phát huy tính chủ động và sáng tạo của các tổ chức, cá nhân và quần chúng đông đảo trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể, trong những hoàn cảnh và cơ sở cụ thể. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta, vì lẽ đó hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Trên cơ sở nguyên lý chung và nội dung có tính phổ biến của nguyên tắc tập chung dân chủ, cần vận dụng vào tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước tùy theo đặc điểm của những đối tượng quản lý khác nhau (ngành, cấp, lĩnh vực…). Sự quản lý thống nhất của Nhà nước không những không hạn chế mà còn bao hàm và phát huy cao độ tính đa dạng của các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở. Tính thống nhất ấy còn được tạo thành và giữ vững bởi tính chủ động, sáng tạo và cách mạng của quần chúng nhân dân. Dưới sự quản lý thống nhất và tập trung của Trung ương, Nhà nước phân chia những đơn vị hành chính – lãnh thổ (tỉnh – thành phố, huyện – quận, xã – phường). Nguyên tắc tổ chức đoì hỏi một mặt giữ vững quyền tập trung quản lý những vấn đề cơ bản trong tay Nhà nước ở Trung Ương (Chính phủ, các Bộ); mặt khác, phát huy dân chủ một cách mạnh mẽ, giao đầy đủ quyền và trách nhiệm giải quyết cho cấp nào, nơi nào có điều kiện am hiểu cụ thể nhất.
Sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là một yêu cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trong điều kiện hiện nay. Những biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện trong năm điểm sau:
a.Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp:
Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân, đó là những cơ quan quyền lực Nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Sau đó, thông qua các cơ quan quyền lực này, các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. VD: Hội đồng nhân dân có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, phó chủ tịch, và các thành viên khác của ủy ban nhân dân cùng cấp. Bên cạnh đó, cơ quan quyền lực Nhà nước còn có quyền hạn nhất định trong việc sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính cùng cấp. Về hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Phải có những sự phụ thuộc nêu trên mới đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đó cũng chính là bảo đảm yếu tố tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước – cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Tuy nhiên, yếu tố dân chủ vẫn được thể hiện rõ nét thông qua việc cơ quan hành chính nhà nước có quyền chủ động sáng tạo trong quá trình thực hiện Hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực không can thiệp vào hoạt động mà chỉ tạo điều kiện, giúp đỡ, cho ý kiến để các cơ quan hành chính hoàn thành được nhiệm vụ, chức năng của mình.
b.Sự tuân thủ của địa phương đối với Trung ương, của cấp dưới đối với cấp trên:
Muốn đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới, của địa phương thì cần phải tồn tại sự tuân thủ một cách nghiêm túc. Nếu không có sự tuân thủ thực hiện nghiêm túc thì việc buông lỏng sự lãnh đạo, sự quản lý tập trung của trung ương và cấp trên là không tránh khỏi, tiếp đó lại nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Và cần nhấn mạnh rằng sự tuân thủ này fải được thể hiện trên cả hai phương diện: tổ chức & hoạt động. Mặc dù vậy, tuân thủ ở đây không mang tính cứng nhắc, mà nó dựa trên cơ sở pháp luật, tức là chỉ tuân thủ những mệnh lệnh hợp pháp. Trong thực tế, để tránh hiện tượng quan liêu, áp đặt ý chí làm thủ tiêu tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới thì cấp trên, trung ương cần lắng nghe, tôn trọng ý kiến, đề xuất của cấp dưới, địa phương.
c.Sự phân cấp quản lý:
Sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả nhất mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được gọi là sự phân cấp quản lý. Mỗi cấp quản lý có những nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương tiện cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của riêng cấp đó. Trong phạm vi thẩm quyền được giao, mỗi cấp quản lý được quyền tiến hành những công việc nhất định để phát huy sự sáng tạo của mình.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ va nó chỉ được thực hiện khi việc phân cấp quản lý đảm bảo những yêu cầu sau đây:
– Việc phân cấp quản lý phải bảo đảm cho Trung ương có quyền quyết định trong những lĩnh vực và những vấn đề quan trọng, chiến lược nhằm phát triển cân đối, hài hòa trong toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
– Không ngại giao quyền cho các địa phương và đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động tích cực và sáng tạo trong quản lý, bên cạnh đó sẽ tránh được tình trạng Trung ương hay cấp trên quá tải vì các công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa phương và cơ sở.
– Việc phân cấp quản lý phải thật cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định pháp luật. Khi phân cấp quản lý đòi hỏi phải xem xét, đánh giá hết sức kỹ lưỡng để có thể đưa ra những quyết định hợp lý, không mang tính chung chung, tùy tiện. Tất cả các nội dung của việc phân cấp quản lý bao giờ cũng phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật của các cấp có thẩm quyền.
d. Sự hướng về cơ sở:
Mọi cơ quan nhà nước phải tạo điều kiện thuân lợi cho các đơn vị cơ sở (kinh tế, văn hóa-xã hội…) hoàn thành tốt công việc của mình vì đó chính là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội trực thuộc. VD: đối với những cơ sở kinh tế Nhà nước phải bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp, hướng dẫn về các thủ tục pháp lý… đối với các cơ sở văn hóa – xã hội cần được Nhà nước cung cấp các trang thiết bị cần thiết để hoạt động, tạo những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động có hiệu quả.
e. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính ở địa phương:
Các cơ quan hành chính địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều: chiều ngang và chiều dọc. Xét theo chiều ngang là sự phụ thuộc nhất định của các cơ quan hành chính vào các cơ quan quyền lực nhà nước: tức là sự phụ thuộc của ủy ban nhân dân vào hội đồng nhân dân cùng cấp (VD: UBND phải chịu sự giám sát trực tiếp của HĐND…). Xét theo chiều dọc là sự phụ thuộc nhất định của cơ quan hành chính địa phương với các cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp: như giữa UBND cấp tỉnh với Chính phủ, UBND cấp huyện với cấp tỉnh, cấp xã với cấp huyện.
Mỗi chiều phụ thuộc lại có tính chất, chức năng riêng của nó. Chiều phụ thuộc ngang tạo điều kiện giúp cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên đã bàn giao. Chiều phụ thuộc dọc là để tập trung quyền lực nhà nước giúp cấp trên chỉ đạo hoạt động cấp dưới, tạo thành một hoạt động thống nhất.
Trong thời gian qua, bộ máy hành chính Nhà nước ta còn quá cồng kềnh, có nhiều khâu trung gian và đầu mối không cần thiết, chức năng và thẩm quyền chưa được xác định thật sự chính xác và hợp lý, các hình thức và phương pháp hoạt động còn nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ cán bộ quản lý non kém, hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính thấp, pháp chế trong quản lý không nghiêm. Vì vậy cần nhấn mạnh rằng, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước theo đúng tinh thần chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng ta phụ thuộc lớn vào trình độ phát triển kinh tế – chính trị, khoa học – kỹ thuật, nên pháp luật và pháp chế, truyền thống văn hóa lịch sử, trình độ giáo dục của đội ngũ viên chức Nhà nước, ý thức và dân trí của công dân.
4. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
Các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam có quyền bình đẳng với nhau trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Nguyên tắc đó được đề cập đến trong cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam… Các chính sách kinh tế – xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”. Và được xác định tại Điều 5 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001): “Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”. Đó là nền móng cho việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc trong quản lý hành chính nhà nước.
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc thể hiện trong công tác đào tạo và sử dụng cán bộ. Nhà nước có các chính sách ưu tiên đối với con em các dân tộc ít người, động viên, khuyến khích về tinh thần để họ tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt. Nhà nước bao giờ cũng dành một tỷ lệ nhất định số cán bộ, công chức là người dân tộc trong biên chế các cơ quan nhà nước. Thực tế, trong số đại biểu Quốc hội các khoá, đại biểu là người dân tộc thiểu số luôn chiếm một tỷ lệ nhất định (Quốc hội khoá XI có 79 đại biểu là người dân tộc thiểu số, Quốc hội khoá XII có 87 đại biểu là người dân tộc thiểu số). Nhà nước có chính sách khuyến khích đối với những người tình nguyện phục vụ ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo… Chính sách ưu tiên của Nhà nước trong công tác cán bộ ở khu vực miền núi biên giới và hải đảo còn thể hiện ở việc quy định chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với cán bộ, công chức làm việc ở khu vực này. Điều 10 Pháp lệnh Cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ, công chức làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo hoặc làm việc trong các nghành nghề độc hại nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi do Chính phủ quy định”.
Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc được biểu hiện trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội. Nhà nước luôn quan tâm đến việc đưa ra các giải pháp về kinh tế, văn hoá – xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số như đầu tư xây dựng các công trình quan trọng về kinh tế, quốc phòng để khai thác những tiềm năng kinh tế, xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các vùng; đưa ra chính sách đúng đắn đối với những người đi xây dựng vùng kinh tế mới, có kế hoạch và thường xuyên tổ chức điều động phân bố lao động tới các vùng dân tộc thiểu số. Trên thực tế, Nhà nước ta đã có những chính sách đối với phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội, từng bước xoá đói giảm nghèo đối với đồng bào các dân tộc thiểu số như:
+ Quyết định số 01/2008/QĐ-UBDT ngày 11/01/2008 của Uỷ ban dân tộc về việc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực II vào diện đầu tư của chương trình 135 giai đoạn II. Quyết định phê duyệt 3149 thôn đặc biệt khó khăn thuộc 1140 xã khu vực II vào diện hỗ trợ đầu tư của chương trình 135 giai đoạn II. Cũng theo Quyết định, từ nay đến năm 2010, Uỷ ban nhân dân các tỉnh có nhiệm vụ cân đối nguồn vốn bổ sung từ ngân sách Trung ưong để phân bổ cho các thôn bản khó khăn của các xã khu vực II đều được đầu tư theo đúng kế hoạnh và mục tiêu của Chương trình.
+ Theo Quyết định 198/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo sống phân tán ở vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt sẽ được ngân sách trung ương hỗ trợ 6 triệu đồng/1 hộ để làm nhà ở.
5. Nguyên tắc pháp chế XHCN
Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước sử dụng pháp luật với tính chất là một phương tiện quan trọng để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, phương tiện này chỉ thực sự phát huy vai trò, tác dụng khi nó được tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh trên thực tế. Vì vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa với nội dung là sự tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước. Điều 12 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước có nghĩa là phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu sau, cụ thể:
a. Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật: Nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động này đòi hỏi:
– Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước phải được ban hành đúng thẩm quyền. Pháp luật quy định cho mỗi chủ thể quản lý hành chính nhà nước có những thẩm quyền nhất định để giải quyết các công việc khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Yêu cầu này buộc các chủ thể quản lý hành chính khi xem xét và nghiên cứu hệ thống pháp luật hiện hành để xem mình có thẩm quyền quyết định công việc đó hay không. Việc cơ quan, địa phương này giải quyết, can thiệp vào công việc của cơ quan, địa phương khác, ngành này giải quyết công việc của ngành khác, địa phương vi phạm thẩm quyền của trung ương và ngược lại, đều là những việc làm vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước.
– Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước phải có nội dung hợp pháp và thống nhất. Các văn bản dùng để ban hành các quy định áp dụng trong quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo phù hợp với các văn bản pháp luật của chue thể quản lý hành chính nhà nước ở cấp trên và các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ban hành. Các văn bản dùng để giải quyết các công việc cụ thể của quản lý hành chính nhà nước phải có nội dung phù hợp với pháp luật, hình thành trên cơ sở pháp luật và để thi hành hay chỉ đạo thực hiện pháp luật.
– Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước phải ban hành đúng tên gọi và hình thức được pháp luật quy định. Thực tế, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội thông qua ngày 12/11/1996 đã xác định cụ thể vầ tên gọi và hình thức các loại văn bản quy phạm pháp luật mà các chủ thể coa thẩm quyền được phép ban hành trong hoạt động của mình.
– Các văn bản trong quản lý hành chính nhà nước phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
b. Trong hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật
Tổ chức thực hiện pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước thực chất là hoạt động tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật do chủ thể quản lý hành chính nhà nước ban hành. Thông qua các công việc cụ thể mà hoạt động này đảm bảo cho pháp luật trở thành hiện thực trong thực tiễn quản lý hành chính nàh nước. Đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi:
– Triệt để tôn trọng các văn bản pháp luật về thẩm quyền và nội dung ban hành. Tình trạng lạm quyền, không tuân thủ các nghĩa vụ được pháp luật quy định phải được loại trừ khỏi hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
– Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt, theo đúng các quy định của pháp luật, để bảo đảm pháp luật được thi hành một cach nghiêm chỉnh và thống nhất.
– Phải xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước. Các cơ quan như: Cơ quan có thẩm quyền cử phạt vi phạm hành chính, cơ quan làm công tác xét xử… có trách nhiệm phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước.
Trên thực tế, nguyên tắc này đã được ứng dụng, thực hiện khá triệt để cụ thể: trong hoạt động khiếu nại tố cáo, Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14/02/2008 về việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh, đời sống nhân dân.
Nội dung phản ánh kiến nghị là những vướng mắc cụ thể trong thực hiện quy định hành chính do hành vi chậm trễ, gây phiền hà hoặc không thực hiện, thực hiện không đúng quy định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của cán bộ công chức; sự không phù hợp của quy định hành chính với thực tế; sự không đồng bộ, không thống nhất của các quy định hành chính… hoặc các sáng kiến ban hành mới quy định hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh, đời sống nhân dân.
Các phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính được thực hiện thông qua một trong ba hình thức: Văn bản, điện thoại, phiếu lấy ý kiến.
Cơ quan tiếp nhận phản ánh, kiến nghị (Văn phòng Chính phủ, Văn phòng các Bộ, Văn phòng UBND cấp tỉnh) bố trí cán bộ, công chức hoặc bộ phận thực hiện, đồng thời lắp đặt số điện thoại chuyên dùng, kết nối mạng máy tính điện tử và thiết lập địa chỉ website, email tiếp nhận phản ánh, kiến nghị.
Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm công khai địa chỉ cơ quan, địa chỉ thư tín, số điện thoại chuyên dùng… thực hiện việc tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ (Website Chính phủ) hoặc Trang tin điện tử do Thủ tướng chính phủ chỉ định. Tương tự như vậy, Văn phòng các Bộ, Văn phòng UBND cấp tỉnh có trách nhiệm công khai địa chỉ cơ quan, địa chỉ thư tín… trên Cổng thông tin điện tử, Trang tin điện tử của Bộ, cơ quan mình và niêm yết công khai tại trụ sở các cơ quan hành chính trực thuộc.
Các phản ánh, kiến nghị phải được các cơ quan chức năng liên quan giải quyết dứt điểm, công khai, minh bạch, hợp lý. Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm tổ chức công khai kết quả xử lý phản ánh, kiến nghị qua các hình thức: Đăng tải trên Cổng thông tin hoặc Trang tin điện tử của cơ quan; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; gửi công văn thông báo cho cá nhân, tổ chức có phản ánh, kiến nghị.
Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính liên quan đến hoạt động, kinh doanh, đời sống nhân dân.
PHẦN HAI:
CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC – KỸ THUẬT
LÝ LUẬN VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỂ VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
6. Nguyên tắc quản lí theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương.
Ngành là một phạm trù chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức sản xuất – kinh doanh có cùng cơ cấu kinh tế – kĩ thuật hay các tổ chức, đơn vị hoạt động với mucjh đích giống nhau. Ngoài ra, ngành là một “hệ thống cơ quan Nhà nước từ trung ương tới địa phương”.
Cùng với sự phát triển của xã hội là việc chuyên môn hóa các hoạt động của con người trong đời sống xã hội. Đây là cơ sở kết quả của việc phân chia các hoạt động của xã hội thành các ngành khác nhau.
Có sự phân chia lĩnh vực hoạt động của xã hội thành các ngành tất yếu dẫn đến việc thực hiện hoạt động quản lý theo nhành.
– Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý các đơn vị, tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế – kĩ thuật hoặc hoạt động với mục đích giông nhau nhằm làm cho hoạt động các tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được yêu cầu của nhà nước và xã hội.
Trong điều kiện khối lượng các công việc quản lý ngành cùng chiều và mang tính phức tạp thì đòi hỏi sự chuyên môn hóa khác nhau của các chủ thể trong hoạt động quản lý ngành. Chính điều này làm nảy sinh nhu cầu quản lý theo chức năng (quản lý theo lĩnh vực)
– Quản lý theo chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất định của quản lý hành chính nhà nước như kế hoạch, tài chính, giá cả, khoa học, công nghệ, lao động, nội vụ, quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế, tổ chức và công vụ.
Cơ quan quản lý theo chức năng là cơ quan quản lý một lĩnh vực chuyên môn hay một nhóm lĩnh vực chuyên môn có liên quan với nhau.
Hoạt động quản lý theo ngành và theo chức năng được thực hiện với các hình thức và quy mô khác nhau, có thể trên phạm vi toàn quốc, trên từng địa phương, hay vùng lãnh thổ.
Tổ chức đứng ra thực hiện quản lý theo ngành và theo chức năng là các Bộ, cơ quan nganh Bộ. Chia 2 loại:
+ Bộ quản lý theo ngành là cơ quan có trách nhiệm quản lý những ngành kinh tế, kĩ thuật, văn hóa xã hội như: Nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, văn hóa, giáo dục, y tế.
+ Các bộ quản lý theo chức năng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp Chính phủ nghiên cứu và xây dựng các chiến lược kinh tế – xã hội nói chung, dự án kế hoạch tổng hợp và cân đối liên ngành, phục vụ và tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ quản lý ngành hoàn thành nhiệm vụ.
Bộ là một phạm trù thuộc về tổ chức nhà nước để chỉ một loại cơ quan có thẩm quyền quản lý ngành, lĩnh vực chuyên môn ở trung ương có nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau: xây dựng và thực hiện các quy hoạch, các dự án phát triển toàn ngành, kế hoạch hàng năm và dài hạn của ngành…Bộ, cơ quan nganh bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có quyền ban hành các văn bản pháp luật để thực hiện pháp luật một cách thống nhất trong từng ngành, quyết định các chính sách, chế độ, biện pháp tăng cường cải tiến cơ cấu tổ chức hoạt động quản lý ngành và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch cũng như nhiệm vụ được giao.
Quản lý theo địa phương là quản lý trên một phạm vi lãnh thổ nhất định theo sự phân vạch địa giới hành chính của nhà nước. Theo quy định nước ta, việc quản lý theo địa phương được thực hiện ba cấp:
– Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
– Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
– Xã, phường, thị trấn
Để đảm bảo cho hoạt động quản lý theo địa phương thực hiện có hiệu quả cần phân chia địa giới các đơn vị hành chính hteo quy mô hợp lý có tính đến các yếu tố kinh tế, chính trị xã hội, thành phần dân tộc..
UBND các cấp là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của các ngành phát sinh trên địa bàn địa phương. Các sở, phòng ban, ban chuyên môn được thành lập.
Hoạt động quản lý theo địa phương tập trung vào nội dung sau: xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trên toàn lãnh thổ, xây dựng và quản lý kết cấu hạ tầng cho sản xuất, đời sống dân cư sống và làm việc trên lãnh thổ, tổ chức điều hòa phối hợp sự hợp tác, liên kết, liên doanh các đơn vị kinh tế, văn hóa, xã hội trên lãnh thổ, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự và kỷ cương của nhà nước.
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, quản lý theo ngành và quản lý theo chức năng luôn kết hợp chặt chẽ với quản lý theo địa phương. Chính là sự phối hợp giữa quản lý theo chiều dọc của các Bộ với quản lý theo chiều ngang của chính quyền địa phương, theo sự phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý giữa các ngành các cấp. Sự kết hợp này trở thành một nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. Vì:
– Mỗi đơn vị, tổ chức của một ngành đều nằm trên lãnh thổ của một địa phương nhất định. Kết hợp quản lý ngành với quản lý theo địa phương trong việc phát triển ngành đó ở địa bàn lãnh thổ của địa phương.
– Ở mỗi địa bàn lãnh thổ nhất định có những nét đạc thù riêng của hoạt động ngành, lĩnh vực chuyên môn do có sự khác nhau về yếu tố tự nhiên, văn hóa – xã hội nên quản lý theo ngành, theo chức năng kết hợp quản lý theo địa phương mới nắm bắt đạc thù và bảo đảm phát triển, các ngành ở địa phương.
Trên lãnh thổ địa phương có hoạt động của các đơn vị, tổ chức các ngành khac nhau. Hoạt đọng của các đơn vị, tổ chức thuộc các ngành có mối liên hệ móc xích xuyên suốt trong phạm vi toàn quốc.
Nếu tách rời hoạt động quản lý theo ngành và theo địa phương dẫn đén tình trạng cục bộ khép kín trong ngành hay tình tràng cục bộ, bản vị, địa phương làm cho hoạt động các ngành không phát triển được một cách toàn diện, không đáp ứng được các yêu cầu của nhà nước và xã hội.
Vì vậy, trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước cần biết kết hợp giữa hoạt động quản lý theo ngành, chức năng và hoạt động quản lý theo địa phương thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước. Sự phối hợp được biểu hiện:
+ Trong hoạt động quy hoạch và kế hoạch: Bộ và chính quyền địa phương trong những vấn đề có liên quan có nhiệm vụ trao đổi, phối hợp chặt chẽ để xây dựng, thực hiện quy hoạch, kế hoạch ngành, lĩnh vực chuyên môn.
+ Trong xây dựng và chỉ đạo bộ máy chuyên môn: Các bộ, chính quyền địa phương điều hòa, phối hợp hoạt động của các cơ quan quản lý, chuyên môn địa phương nhằm phát huy mọi khả năng vật chất – kĩ thuật trong phạm vi lãnh thổ để phát triển sản xuất, bảo đảm lợi ích cả nước và lợi ích địa phương.
+ Xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật: Bộ chỉ đạo xây dựng cơ sở vật chất thống nhất trong toàn ngành, cung cấp cho địa phương các loại vật tư kĩ thuật và thiết bị chuyên dùng trong phạm vi của Bộ, chính quyền địa phương bảo đảm kết cấu hạ tầng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi địa phương.
+ Ban hành và kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật. Các bộ trong phạm vi thẩm quyền ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư có hiệu lực bắt buộc đối với chính quyền địa phương và có quyền kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Trên cơ sở thẩm quyền của mình chính quyền địa phương cũng có quyền ra quyết định bắt buộc đối với các ngành ở địa phương và kiểm tra việc thực hiện chúng.
Thực tế việc tuân thủ nguyên tắc này thể hiện:
Thực hiện chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ, bộ đội biên phòng đã triển khai các biện pháp cụ thể như: quy định công khai hóa thủ tục biên phòng tại các cửa khẩu bằng các bảng hướng dẫn bằng tiếng Việt, tiếng Anh và ngôn ngữ nước đối diện; tổ chức hòm thư góp ý tại các cửa khẩu; cải tiến phương thức kiểm tra, giám sát biên phòng tại các cảng biển. Ðổi mới quy trình kiểm tra, kiểm soát tại các cửa khẩu đường bộ (theo Nghị định 32/CP), sắp xếp lại vị trí làm việc của các cơ quan theo dây chuyền kiểm soát mới, có luồng ưu tiên cho khách du lịch, biển bảng chỉ dẫn cho hành khách, xây dựng quy trình kiểm tra, kiểm soát đối với khách du lịch Ca-ra-van, du lịch Trung Quốc theo Quy chế 849 đã giảm thời gian làm thủ tục, đoàn có số lượng 100 khách thời gian làm thủ tục khoảng từ 45 đến 60 phút…
Các cải tiến này giúp BÐBP ở các cửa khẩu phối hợp các cơ quan chức năng tại cửa khẩu kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ người, phương tiện, tạo điều kiện thông thoáng cho lưu thông cửa khẩu phù hợp tình hình hiện nay.
7. Nguyên tắc quản lí theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và phối hợp quản lý liên ngành.
Sự phát triển của một ngành rất cần phải có hoạt động quản lý theo chức năng của các cơ quan chuyên môn có trách nhiệm nhằm đảm bảo cho các hoạt động chuyên môn diễn ra trong phạm vi ngành được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất.Bên cạnh đó, sự tồn tại và phát triển của một ngành nào đó luôn nằm trong mối liên hệ và phụ thuộc vào các ngành khác có liên quan. Do đó, cần thiết phải kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo chức năng, phối hợp quản lý liên ngành.
Ở nước ta, hệ thống các cơ quan chuyên môn tổng hợp được hình thành để thực hiện việc quản lý theo chức năng. Theo hệ thống dọc, có bộ, sở, phòng ban chuyên môn quản lý theo chức năng. Ở mỗi cơ quan quản lý theo ngành đều có các bộ phận quản lý theo chức năng như các vụ, cục, ban…..chịu sự quản lý của cơ quan quản lý theo chức năng có thẩm quyền ở trên.
Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý ở các đơn vị, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế – kỹ thuật hay hoạt động với cùng một mục đích giống nhau nhằm làm cho hoạt động của các tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được yêu cầu của nhà nước và xã hội. Hoạt động quản lý theo ngành được thực hiện với hình thức, qui mô khác nhau, có thể trên phạm vi toàn quốc, trên từng địa hay một vùng lãnh thổ.
Quản lý theo chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất định của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Cơ quan quản lý theo chức năng là cơ quan quản lý một lĩnh vực chuyên môn hay một nhóm các lĩnh vực chuyên môn có liên quan với nhau.
Các cơ quan quản lý theo ngành cấp cao nhất là các cơ quan hành chính Nhà nước Trung ương của Chính phủ, được gọi là các Bộ, có trách nhiệm quản lý những ngành kinh tế – kỹ thuật, văn hoá, xã hội, ví dụ như: nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, thương mại, văn hoá thông tin, giáo dục, y tế. Bộ quản lý ngành có thể tập hợp với nhau thành một hoặc một nhóm liên quan rộng. Nó có trách nhiệm chỉ đạo toàn diện các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, kinh doanh do mình quản lý về mặt nhà nước.
Ngoài các Bộ quản lý theo ngành, còn có những Bộ quản lý theo chức năng. Các Bộ quản lý theo chức năng có vai trò giúp Chính phủ nghiên cứu và xây dựng các chiến lược kinh tế – xã hội nói chung, dự án kế hoạch tổng hợp và cân đối liên ngành cũng như phục vị và tạo điều kiện thuận lợi cho các Bộ quản lý ngành hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ như: Bộ kế hoạch và đầu tư…
Nguyên tắc này thể hiện ở những nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý theo chức năng, cơ quan quản lý ngành trong việc thực hiện các công việc của quản lý hành chính Nhà nước, cụ thể là:
– Các cơ quan quản lý theo chức năng có quyền ban hành các quy định, các mệnh lệnh cụ thể liên quan đến chức năng quản lý của mình theo quy định của pháp luật, có tính chất bắt buộc thực hiện đối với các ngành, các cấp đồng thời các cơ quan quản lý theo chức năng kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ do mình ban hành, xử lý họac đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm các chính sách, chế độ do mình ban hành theo quy định của pháp luật.
Nghị định của chính phủ số 61/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn va cơ cấu tổ chức của Bộ kế hoạch và đầu tư. Tại Điều 2 của Nghị định đã quy định rõ tại khoản 3 và 4 quyền hạn của Bộ:
3. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ;
4. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và chịu trách nhiệm thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt và các văn bản pháp luật khác thuộc phạm vi quản lý của Bộ; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
Và để cụ thể hóa quyền này của mình:
-Các cơ quan quản lý ngành có quyền ban hành các quyết định quản lý có tính chất bắt buộc phải thực hiện đối với các ngành có liên quan trong phạm vi những vấn đề thuộc quyền quản lý của ngành và kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý đó.
Tương tự như với Bộ kế hoạch và đầu tư (Cơ quan quản lý theo chức năng của Bộ máy hành chính nhà nước), Bộ y tế (Cơ quan quản lý theo ngành của Bộ máy hành chính nhà nước) trong Nghị định số 188/2007/NĐ-CP tại Điều 2 khoản 4 và 5 cũng được quy định về quyền hạn :
4. Ban hành theo thẩm quyền các quyết định, chỉ thị, thông tư về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
5. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình mục tiêu quốc gia sau khi được phê duyệt; tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ và các vấn đề liên quan đến sức khỏe.
Và để cụ thể hóa quyền Bộ y tế :
– Trong phạm vi công việc của mình, các cơ quan quản lý theo ngành, quản lý theo chức năng có quyền phối hợp với nhau để ban hành các quyết định quản lý có hiệu lực chung trong phạm vi hoạt động các ngành hoạc lĩnh vực chuyên môn mà chúng được phân công quản lý.
Ví dụ: Trong lĩnh vực xây dựng, có sự kết hợp giữa Bộ Xây dựng, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Giao thông vân tải…Trong đó, Bộ Xây dựng có vai trò trung tâm, kết hợp với các bộ và các cơ quan hữu quan lập nên các dự án qui hoạch xây dựng tương ứng.
Lời kết
Như đã trình bày ở trên, ta nhận thấy các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước với nội dung đa dạng có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có nội dung riêng, phản ánh những quy luật khách quan khác nhau trong quản lý hành chính nhà nước. Vì lẽ đó, có nhiều nguyên tắc khác nhau được đặt ra trong quản lý hành chính nhà nước. Những nguyên tắc này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành một thể thống nhất. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc khác. Tính thống nhất này có được là nhờ bản thân nội dung của các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước đều thể hiện bản chất của nhà nước, đều được xây dựng xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về quản lý nhà nước. Hơn nữa, nội dung các nguyên tắc này đều đề cập đến các khía cạnh khác nhau của cùng một hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Do vậy, tính hệ thống, thống nhất của các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước trở thành một thuộc tính vốn có của chúng.
Ngoài ra, việc phân loại chúng một cách khoa học nhằm xác định cụ thể vị trí, vai trò của chúng trong quản lý hành chính nhà nước, trên cơ sở đó xây dựng và áp dụng chúng một cách có hiệu quả trong thực tiễn quản lý hành chính là điều vô cùng cần thiết. Như trên bài đã nêu, có hai loại nguyên tắc: các nguyên tắc chính trị xã hội, và các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật là để thực hiện một cách đúng đắn các nguyên tắc chính trị xã hội và việc thực hiện các nguyên tắc chính trị xã hội là cơ sở để thực hiện các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật. Ta nhận thấy trong thực tiễn quản lý hành chính, để phối hợp thực hiện hai nguyên tắc trên không dễ dàng, và chỉ khi phối hợp thực hiện một cách hợp lý thì công tác quản lý hành chính của nhà nước ta mới thực sự đạt hiệu quả.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích các đặc điểm của nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong việc vận dụng các nguyê.doc