Phạm trù thực tiễn trong triết học mác – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

Quan điểm
Trong lịch sử triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Mac-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khắc phục những hạn chế trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắng, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, Mác- Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
II. Hoạt động của thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mac-Lênin nói chung.
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội là hình thức hoạt động đặc thù của con người.
Thực tiễn là hoạt động được chủ thể tiến hành để đạt tới mục đích được đặt ra từ trước. Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để làm chủ thế giới. Trong quá trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một “thiên nhiên thứ hai” của mình, một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn không có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính, những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có khoa học, không có lý luận.
Trong quá trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho chúng tinh tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.
Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới. Ăngghen cho rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển nhanh hơn hàng chục trường đại học.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Theo Mac và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lô gic nhưng tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.

doc

23 trang

|

Chia sẻ: lvcdongnoi

| Lượt xem: 13399

| Lượt tải: 10

download

Bạn đang xem trước

20 trang

tài liệu Phạm trù thực tiễn trong triết học mác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

ên phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn.
Triết học Mác không chỉ là sự kế thừa những giá trị của các hệ thống triết học trước đó, mà điều quan trọng là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn của loài người, nhất là thực tiễn cách mạng. Chính Mác đã đưa phạm trù thực tiễn vào triết học và coi đó là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Chính vì vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trở thành nguyên tắc nền tảng của triết học Mác. Sự thống nhất này được thể hiện cả trong thời gian lẫn không gian.
Trong thời gian, tức là theo chiều dọc của lịch sử, triết học Mác luôn thể hiện mình trong những giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển khoa học – công nghệ, thực tiễn sản xuất, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế qua các cuộc cách mạng xã hội… Trong các quá trình này, triết học Mác luôn giữ vai trò định hướng thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt động của con người; đồng thời được thực tiễn lịch sử “phản biện”, kiểm nghiệm, chứng minh và làm phong phú thêm bằng chính “hơi thở” của thời đại. Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, lý luận của các ông (của C.Mác và ông) không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động.
Trong không gian, tức là theo chiều ngang của lịch sử, đó là tính sáng tạo và tính thích nghi của triết học Mác khi được vận dụng vào thực tiễn cách mạng ở những dân tộc và các quốc gia khác nhau. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã chỉ rõ, chúng ta tuyệt đối không coi lý luận của Mác là một cái gì đó nhất thành bất biến và không thể xâm phạm mà trái lại, chúng ta tin rằng nó chỉ đặt cơ sở cho một khoa học, và những người xã hội chủ nghĩa, nếu không muốn lạc hậu với đời sống thực tế, cần đẩy môn khoa học này tiến lên phía trước trên mọi phương diện.
Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của quá trình phát triển xã hội, nhất là trong thời đại ngày nay khi thực tế cuộc sống đang đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh của việc xây dựng, phát triển đời sống kinh tế, văn hóa của xã hội. Hơn lúc nào hết lý luận Mac – Lênin trong sự thống nhất cao với thực tiễn phải thể hiện vai trò hướng dẫn, chỉ đạo trong công việc, giải quyết những vấn đề cấp bách và trọng đại do cuộc sống hiện thực đặt ra cho chúng ta trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay. Những thành qủa mà chúng ta có được ngày hôm nay là kết quả của sự năng động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình vận dụng nguyên tắc thông nhất giữa lý luận và thực tiễn vào hoàn cảnh lịch sử Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Phân tích những mối quan hệ của phạm trù thực tiễn
Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm quan trọng đó không chỉ ở chỗ: “Quan điểm về đời sống về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã đem lại cho chúng ta bài học vô giá là: “Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắng của đảng”. Chính vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là cần thiết.
Để giải quyết vấn đề nêu trên, theo tôi trước hết cần phải xác định rõ khái niệm thực tiễn phân biệt nó với khái niệm hoạt động, sau đó là với khái niệm hoạt động lý luận. Trong các tài liệu khoa học, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thực tiễn, nhưng có thể nói, chưa có một ý kiến thống nhất về vấn đề này.
Vậy thực tiễn là gì? Theo tôi, có thể xác định thực tiễn là hoạt động của một chủ thể lịch sử cụ thể, trong quá trình hoạt động ấy nó tiến hành cải tạo vật chất đối với hiện thực một cách phù họp với các mục đích của bản thân, với mô hình lý tưởng và với trí thức của nó về hiện thực và nhờ mối liên hệ giữa đối tượng hóa và giải đối tượng hoá trong quá trình này mà nó tự cải tạo chính bản thân mình. Định nghĩa này có thể hơi dài, song nó cho phép thâu tóm được mọi hình thức đa dạng của thực tiễn xã hội và phân biệt nó với các hoạt động không phải là hoạt động thực tiễn. Điều cơ bản trong định nghĩa này là ở chỗ khẳng định rằng bằng hoạt động của mình, chủ thể chuyển cái tinh thần, ý niệm thành cái vật chất và qua đó, thể hiện ra là lực lượng tích cực của sự cải tạo.
Vậy thực tiễn và hoạt động khác nhau ở điểm nào? Phải lưu ý rằng có nhiều tác giả đã đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Theo tôi, hoạt động hiểu theo nghĩa chung nhất là phương thức tồn tại và phát triển hiện thực lịch sử. Một số tác giả đã dựa vào câu nói của C.Mác – “Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn” – để đồng nhất hai khái niệm “thực tiễn” và “hoạt động”. Theo tôi, không có cơ sở để đồng nhất hai khái niệm đó. Câu nói mang tính nguyên tắc đó của C .Mác cần phải được hiểu là: Thực tiễn là phương thức mà con người tác động qua lại với thế giới và cải tạo thế giới đó. Mác đem quan điểm đó đối lập lại với quan điểm của chủ nghĩa duy vật trực quan của Phoiơbắc. Không phải lý luận, mà chính thực tiễn là cái tạo thành bản chất của các mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên ở trong lòng xã hội. Bản thân quan hệ lý luận cần được tách biệt và lý giải dưới dạng một thành tố không thể tách rời được của thực tiễn. Song, không nên đồng nhất bản chất của quá trình với bản thân quá trình. Có quan điểm cho rằng, bất kỳ hình thức hoạt động nào (lý luận chẳng hạn) cũng đều có liên quan đến thực tiễn xã hội, phục tùng nó, phát triển trên cơ sở của nó. Quan điểm khác lại coi bản thân hoạt động lý luận là thực tiễn. Thực tiễn bao giờ cũng là sự vật chất hóa các ý niệm, là phương thức chuyển cái ý niệm thành cái vật chất, còn hoạt động lý luận là quá trình ngược lại, mặc dù nó bắt nguồn từ thực tiễn.
Qua đó có thể kết luận rằng phạm trù “hoạt động”, xét về ngoại biên, là rộng hơn phạm trù “thực tiễn”. Vậy thì vấn đề quan hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu như thế nào?
Đây là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của quan hệ lý luận là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là mô hình lý luận của đối tượng. Còn kết quả của hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với đối tượng. Thực tiễn chỉ có mặt ớ nơi có các hình thức hoạt động có đối tượng cảm tính, có sự cải tạo đối tượng trên thực tế, chứ không phải là trong suy nghĩ. Do vậy theo tôi, hoạt động lý luận khoa học, giáo dục, tuyên truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa học chỉ có khả năng đem lại bức tranh lý tưởng về thế giới trong nhưng đặc trưng, bản chất của nó. Vấn đề cũng không thay đổi cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp. Bởi khi đó, bản thân lực lượng sản xuất tồn tại với tư cách là hình thức được đối tượng hoá của khoa học, còn khoa học vân tiếp tục là hình chức hoạt động tinh thần của con người, là sự phản ánh lý tưởng hiện thực.
Vậy phải chăng thực tiễn chỉ đơn giản là sử dụng đối tượng mà không có tính chủ quan, tính hướng đích? Theo tôi, đây là vấn đề quan trọng để phân biệt hoạt động lý luận với thực tiễn. Đúng là thực tiễn không thể thiếu ý thức. Song luận điểm đó không chứng tỏ sự đồng nhất của hai hình thức hoạt động khác nhau là thực tiễn và lý luận. Thứ nhất cần lưu ý rằng tham gia vào thực tiễn chỉ gồm có các kết quả đã đạt được trong quá trình nhận thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt động lý luận có một giá trí độc lập, còn đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở lý luận, có giá trị như là một mô hình của tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó ( mục đích, mô hình, lý tưởng), trong trường hợp này, không có một giá trị độc lập, nó không có nhiệm vụ cải biến đối tượng cảm tính của tự nhiên hay xã hội. Thứ hai, đương nhiên là có một cơ chế (cho dù nó chưa được nghiên cứu đấy đủ) để đưa các kết quả hoạt động lý luận vào thực tiễn. Chính cơ chế này đã chế định một khuynh hướng nghiên cứu mới – nghiên cứu triển khai. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, đòi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực to lớn. Song một điều hiển nhiên là thực tiễn cải tạo xã hội do quần chúng tiến hành đòi hỏi phải hoạch định mục đích, chương trình, phải nhận thức các nhiệm vụ chiến lược và sách lược. Chính vì vậy mà nó không thể thiếu lý luận, lý luận được tiếp biến vào các mục đích và các chương trình, phục tùng nhiệm vụ cơ bản của thực tiễn cải tạo xã hội.
Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ không thể tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng lý luận nhiều đến đâu đi chăng nữa, thì thực tiễn và lý luận vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực tương đối độc lập của hoạt động xã hội và bao giờ hình ảnh lý tưởng (kết quả của hoạt động lý luận) cũng đi trước hoạt động thực tiên. Nói cách khác, hoạt động bao giờ cũng bao hàm hai khâu cơ bản và mối liên hệ giữa chúng luôn mang tính lịch sử – cụ thể – đó là khâu nhận thức lý luận (sản xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực ).
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, theo tôi, còn được làm sáng tỏ hơn và cụ thể hơn khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thề – khách thể. Thực tiễn là khâu trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách thể. Chủ thể ở đây không đơn giản là con người có tư duy lý luận, con người bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua tổng thể các đặc trưng xã hội của nó, còn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động đến khách thể. Thực tiễn có thể nói, là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó mà chủ thể tự đối tượng hoá bản thân, các ý định và mục đích của mình trong khách thể, phát triển các năng lực của mình. Như vậy, ngoài thực tiễn, chủ thể không có một phương thức nào để chuyển từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang việc thực hiện nó trong thế giới.
Nếu ở phần trên chúng ta đã nói rằng thực tiễn là quá trình cải tạo vật chất hiện thực, thì thông qua quan hệ chủ thể – khách thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ thể chuyển hoá cái ý mệnh mục đích, động cơ…) thành cái vật chất (khách thể được cải tạo phù hợp với mục đích). Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá trình thống nhất: Từ cái ý niệm đến cái vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối hoá sự cải tạo vật chất, thì sự định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ bị biến mất, và do vậy, thực tiễn bị biến thành một hành vi máy móc, vô thức. Còn nếu tuyệt đối hoá sự sự chuyển biến cái ý niệm thành cái vật chất, thì chúng ta không thể quan niệm thực tiễn là một quá trình khách quan, và như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Từ đó suy ra rằng thực tiễn và lý luận không thể là tuyệt đối đối lập với nhau. Tính tương đối của sự đối lập ấy trước hết được quy định bởi điều là: Quan hệ lý luận của con người với thế giới không bao giờ có thể là quan hệ tuyệt đối biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, quan hệ lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Nó, rốt cuộc, phải dựa trên cơ sở quan hệ thực tiễn với hiện thực. Đến lượt mình vốn là hoạt động của chủ thể có ý thức và ý chí, thực tiễn luôn bao hàm quan hệ lý luận của chủ thể với khách thể với tư cách là vòng khâu đặt mục đích của hoạt động thực tiễn.
Song, sự đối lập tuyệt đối đó không có nghĩa là không có sự đối lập tuyệt đối giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận do thực tiên chế định và phục vụ thực tiễn, song chúng có tính độc lập tương đối, mang những đặc trưng riêng của hoạt động. Cả khi tạo thành một thể thống nhất trong khuôn khổ của hoạt động xã hội, chúng vẫn là những mặt khác nhau của hoạt động đó. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể “cải tạo” thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng không có khả năng cải biến một cái gì ngoài khả năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng, không phải là thực tiễn, mô hình lý tướng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mô hình lý luận. Theo tôi, cần phái nhấn mạnh tính đặc thù, tính độc lập của lý luận để không rơi vào chủ nghĩa thực dụng thiển cận, để phát hiện ra các quy luật phát triển của riêng lý luận, tính kế thừa lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Song, cũng cần nhấn mạnh một điều khác là: Tính độc lập tương đối của lý luận là có tính chất tương đối. Thí dụ, lý luận cách mạng hoàn toàn không phải là thực tiễn cách mạng. Tuy nhiên vốn được sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã hội, lý luận cách mạng trở thành một bộ phận cấu thành tất yếu của thực tiễn xã hội. Khi tiên đoán tương lai, bản thân lý luận bắt nguồn từ thực tiễn quá khứ và hiện tại. Lý luận hoàn thành một chức năng nào đó trong xã hội không phải là ở ngoài khuôn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, theo tôi cần được-vạch rõ cả trên các bình điện bản thể luận lẫn nhận thức luận. Trước hết cần phải phân biệt tính chất của mối liên hệ này với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức và vật chất. Vật chất có thể tồn tại thiếu ý thức, song thực tiễn không thể tồn tại thiếu ý thức, đương nhiên là hình thức vả trình độ của ý thức có thể rất khác nhau ( cho tới tư duy lý luận). Nếu các đặc tính “thứ nhất” và “thứ hai” áp dụng được vào quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì chúng lại không áp dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn và ý thức. Theo tôi, ở đây chỉ có thể nói tới phương diện chủ đạo của một chủ thể thống nhất. Nói cách khác, xét về phương diện bản thể luận, lý luận và thực tiễn tạo thành một thể thống nhất trong hoạt động xã hội tổng hợp. Sự đối lập của chúng trong khuôn khổ của sự thống nhất này là tương đối. Mặc dù vật chất và ý thức là các mặt đối lập tương đối về mặt bản thể luận, song vật chất là tiên đề, là nguyên nhân phát sinh của ý thức, trong khi đó thực tiễn không thể thiếu ý thức.
Xét về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối đối lập , thì thực tiễn và lý luận lại không tuyệt đối đối lập nhau. Mọi ý kiến khác đều có nghĩa rằng thực tiễn, về nguyên tắc, không thể là phương tiện đối chiếu tri thức về hiện thực và bản thân hiện thực. Trong lý luận nhận thức, tri thức về đối tượng tuyệt đối độc lập với bản thân lý luận. Các nhà duy vật trước Mác đã nhìn thấy điều đó nhưng họ không biết đối chiếu tri thức với đối tượng và do vậy, họ đã bất lực trước các lý lẽ của chủ nghĩa duy tâm và bất khả lý luận. Nếu tuyệt đối đối lập thực tiễn với lý luận, thì chúng ta cũng sẽ vấp phải vấn đề đó. Vậy, đâu là bước chuyển từ lý luận đến thực tiễn? Trong khi đó cuộc cách mạng được C.Mác thực hiện trong nhận thức luận chính là ở chỗ: ông đã đưa thực tiễn vào lý luận nhận thức ở lĩnh vực mà ý thức tuyệt đối đối lập với vật chất, Mác đã phát hiện ra khâu trung gian, bước chuyển từ cái ý niệm đến cái vật chất và từ cái vật chất đến cái ý niệm. Thực tiễn xã hội hoàn thành vai trò thước đo chân lý và cơ sở của nhận thức chính là do nó không đối lập tuyệt đối mà đối lập tương đối với ý thức về mặt nhận thức luận và do nó luôn là hệ thống những hoạt động nhằm đạt tới mục đích xác định. Do vậy, không nên tuyệt đối hoá cả tính chủ quan lẫn tính khách quan của thực tiễn.
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử – xã hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng của quá trình đó, theo tôi, là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta luôn có được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông.
Theo Hồ Chí Minh cho rằng:”Lý luận đi đôi với thực tiễn”, “Lý luận kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Dù nói “đi đôi”, “gắn liền”, “kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh là: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, không có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn. Nếu không có lý luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng, thêm kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có không ít cán bộ, đảng viên “chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Những cán bộ ấy quên rằng, “kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234). Thực chất là họ không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận “như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234 – 235). “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiên mới nảy sinh. Do đó, không vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Người khẳng định, “Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 235). Như vậy cũng có nghĩa là lý luận suông, lý luận sách vở thuần túy. “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5 tr. 234). Do đó, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng mắc phải bệnh giáo điều. Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải được hiểu là, thực tiễn – lý luận, lý luận – thực tiễn luôn hòa quyện, thống nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển.
Hồ Chí Minh không để lại những tác phẩm chuyên khảo về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nhưng ở nhiều bài viết, bài nói Người luôn luôn đề cập tới nguyên tắc cơ bản này bằng nhiều cách nói, cách viết, cách diễn đạt khác nhau nhằm giúp cán bộ, đảng và quần chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu, dễ vận dụng. Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng về việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Một trong những biểu hiện sinh động ấy là, trong hoạt động cách mạng Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó với cơ sở, gần gũi với nhân dân. Trong khoảng 10 năm từ 1955 – 1965, Hồ Chí Minh đã thực hiện trên 700 lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông dân, các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng, các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện, trường học… Như vậy, mỗi năm có tới hơn 70 lần xuống cơ sở, gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân. Điều này đủ thấy Hồ Chí Minh gắn bó với quần chúng, sâu sát với cơ sở, thực tế như thế nào.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên rằng, quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là góp phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để làm tốt điều này thì một mặt, phải ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận cũng như chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, phải có phương pháp học tập đúng đắn, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Nếu không, chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì đã mắc phải bệnh giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, “lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Điều quan trọng nữa theo Người là phải thống giáo điều ngay trong học tập chủ nghĩa Lênin. Khi còn sống Người luôn phê phán kiểu học học thuộc lòng chủ nghĩa Mác- Lênin, “học sách vở Mác – Lênin nhưng không học tinh thần Mác – Lênin” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9 tr. 292). Đó là học theo kiểu “mượn những lời của Mác, Lênin dễ làm cho người ta lầm lẫn” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 497). “Học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Hồ Chí Minh cũng căn dặn cán bộ, đảng viên “học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498). Như vậy, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin không phải vì chủ nghĩa Mác – Lênin, cũng không phải vì học tập thuần túy, càng không phải học tập vì mục đích cá nhân nhằm có cái để mặc cả với tổ chức. Học tập trước hết là để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự Tổ quốc, nhân dân, giai cấp. Cho nên người cán bộ, đảng viên phải có thái độ học tập đúng đắn mới có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với chúng ta. Người cũng lưu ý rằng, không nên coi chủ nghĩa Mác – Lênin là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Có như vậy thì việc nghiên cứu, học tập vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin mới có hiệu quả. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác – Lênin thì còn phải chống giáo điều trong vận dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, ngành khác. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Để chống cả hai loại giáo điều này, theo Hồ Chí Minh thì biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước nhà. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn cách mạng, khi vận dụng kinh nghiệm và lý luận phải xuất phát từ thực tiễn nước nhà. Người cũng nhấn mạnh rằng, cùng với việc chống bệnh giáo điều thì phải đề phòng, ngăn ngừa chủ nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu không có quan điểm đúng đắn trong việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì người ta dễ nhấn mạnh thái quá những đặc điểm dân tộc để phủ nhận những giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin. “Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại, (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Đồng thời, Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết dùng lý luận đã học được để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác. “… công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 243). Người còn nhấn mạnh ” …cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 417). Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy cũng có nghĩa là làm cho lý luận cần được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Cứ như vậy, lý luận luôn được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới được rút ra từ tổng kết thực tiễn. Còn thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận đã được bổ sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Đây là biểu hiện sinh động của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh. “Làm như thế theo Người là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498).
Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả thì phải không ngừng học tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận. Khi có lý luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực tiễn để làm giàu lý luận bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Chỉ thông qua quy trình như vậy thì lý luận mới gắn với thực tiễn, mới không trở thành giáo điều. Đồng thời thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bồi lý luận sẽ không bị mò mẫm, vấp váp, hay chệch hướng. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều cũng không còn chỗ đúng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản để ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có ý nghĩa hết sức to lớn hiện nay, khi mà chúng ta đang tìm lời giải đáp cho nhiều vấn đề thực tiễn đổi mới đặt ra. Bởi lẽ, để tìm lời giải cho những vấn đề đó chúng ta phải tìm ở cả trong chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như ở chính thực tiễn đổi mới hiện nay ở nước ta. Nghĩa là phải bằng phương pháp, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tổng kết những vấn đề thực tiễn hôm nay một cách có lý luận.
CHƯƠNG II:
VAI TRÒ CỦA PHẠM TRÙ THỰC TIỄN
Bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác được thể hiện ở: thứ nhất, thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác là kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội; thứ hai, sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc nền tảng của triết học Mác; thứ ba, triết học Mác là sự thống nhất giữa tính mở, tính phát triển của hệ thống lý luận và tính ổn định của lập trường duy vật biện chứng và những phương pháp luận cơ bản của nó. Đó là những giá trị vĩnh hằng của triết học Mác. Những giá trị đó đã làm nên sức sống của triết học Mác trong xã hội hiện đại, nhưng để giữ được sức sống ấy, bản thân triết học Mác cũng phải được đổi mới trước những biến đổi của đời sống xã hội hiện đại.
Sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội – lịch sử loài người gần 2 thế kỷ qua đã minh chứng cho bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác. Bản chất này của triết học Mác được thể hiện một cách sâu sắc trước hết, ở thế giới quan và phương pháp luận của nó, ở các nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính ổn định và tính mở, tính phát triển của nó.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện trước hết ở chỗ: Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Nhận thức là quá trình con người phản ánh thế giới khách quan một cách biện chứng trên cơ sở thực tiễn lịch sử – xã hội, là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động sáng tạo, biện chứng, là quá trình đi từ cái không biết đến cái đã biết, từ không đầy đủ chính xác thành đầy đủ chính xác hơn. Nhận thức không có sẵn, bất di bất dịch. Quá trình nhận thức gồm hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính gồm các hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Nhận thức lý tính gồm các hình thức: khái niệm, phán đoán và suy luận.
Khi nhận thức của loài người phát triễn sẽ dẫn đến sự xuất hiện của lý luận. Lý luận là sự phát triễn của nhận thức.
Con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải “đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí” mà toán học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự xuất hiện học thuyết mácxít vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản bấy giờ. Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gen người cũng ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người… Có thể nói, suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển;các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin đã viết: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
Thực tiễn là cơ sở động lực chủ yếu trực tiếp của nhận thức
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổ hợp, khái quát hóa trừu tượng hóa để phát triển thành lý tính xây dựng thành lý luận, khoa học phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Do đó thực tiễn đã cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có lý luận. Mọi tri thức xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Trong quá trình tồn tại con người không được thế giới đáp ứng thỏa mãn nên con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn và trong quá trình biến đổi thế giới con người cũng biến đổi luôn bản thân mình, phát triễn năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó con người càng đi sâu nhận thức được thế giới, khám phá được những bí mật của thế giới và nắm được quy luật của thế giới. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triễn của nhận thức, lý luận. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, thúc đẩy sự ra đời phát triễn của các ngành khoa học. Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn trí tuệ con người được phát triễn, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học ra đời rất cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn đưa ra vấn đề cho nhận thức hướng tới để giải đáp đồng thời cũng tạo ra những phương tiện cần thiết cho việc nghiên cứu, đem lại những tài liệu, dữ kiện để tổng kết khái quát thành tri thức lý luận.
Nhận thức, lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn phục vụ mục tiêu phát triễn
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Những tri thức được kiểm nghiệm qua thực tiễn mới thấy rõ tính đúng đắng hay sai lầm của chúng như Mác viết: “ vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn, chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Ở đây chúng ta cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng. Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối.
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng yên mà biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người trở thành những chân lý vĩnh viễn, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì vậy những tri thức được thực tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất định phải tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chửa và phát triễn hoàn thiện hơn.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu sát thực tiễn coi trọng sự tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Tuy nhiên việc coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận, không nên đề cao cái này hạ thấp cái kia và ngược lại. Không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu nhận được trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận. Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức, đồng thời lại thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau, giả định lẫn nhau, thâm nhập và chuyển hóa cho nhau. Nhận thức lý luận và nhận thức kinh nghiệm cũng không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Bởi vì trong nhận thức kinh nghiệm ngoài hoạt động trực quan cảm tính còn có sự tham gia của các yếu tố lý tính nhưng khác nhau về đối tượng, về trình độ, tính chất phản ánh hiện thực, về chức năng cũng như về trật tự lịch sử.
Tri thức kinh nghiệm là tri thức chủ yếu thu được từ quan sát thực nghiệm. Tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn, từ lao động sản xuất, đấu tranh xã hội và thí nghiệm khoa học. Nhưng tri thức kinh nghiệm còn hạn chế bởi nó chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng rẽ, về các mối quan hệ bên ngoài của sự vật và còn rời rạc. Ở trình độ tri thức kinh nghiệm chưa thể nắm được cái tất yếu sâu sắc nhất, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật hiện tượng. Ăngghen nhận xét: “sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu”. Vì vậy không nên dừng lại ở kinh nghiệm mà cần nâng lên trình độ lý luận.
Lý luận là một trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật của lý luận nói chung. Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Nhận thức lý luận là nhận thức hướng vào bản chất quy luật của sự vật, hiện tượng. Do đó theo Mác nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem sự vận động bên ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong của sự vật. Như vậy lý luận thể hiện tính sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến hơn so với tri thức kinh nghiệm. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn.
Tóm lại: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là một khâu của quá trình nhận thức. Trong đó thực tiễn là điểm bắt đầu và là điểm kết thúc của một vòng khâu đó, sự kết thúc này lại bắt đầu từ một vòng khâu khác mới hơn, cao hơn và cứ thế vận động mãi mãi làm cho nhận thức của con người ngày càng đi sâu, nắm vững được bản chất và các quy luật của thế giới khách quan, phục vụ cho hoạt động, biến đổi thế giới.
Vai trò của thực tiễn đối với xã hội loài người
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất, hoạt động có ý thức, mục đích của con người, nhờ đó cải tạo được thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới làm chủ thế giới.
Trong triết học Mác vạch ra phương hướng tồn tại của con người. Mác nhận thấy phương hướng tồn tại của con người chính là hoạt động của họ. Nhu cầu tồn tại của con người hình thành một cách khách quan và có nhiều bật thang trước hết là nhu cầu sống, nhu cầu giao tiếp và tham gia sinh hoạt cộng đồng, nhu cầu phát triển tâm hồn, trí tuệ, nhu cầu phát triển tính cách và tự khẳng định, nhu cầu sáng tạo…Nhu cầu là động lực bên trong của tính tính cực, của sự hứng thú. Kết quả hoạt động thỏa mãn nhu cầu đồng thời làm nảy sinh nhu cầu mới và cả những điều kiện thực hiện nhu cầu mới. Muốn sống muốn tồn tại được thì con người phải có ăn, có mặt và những thứ cần thiết khác, phải sống được rồi mới suy nghĩ, để có những thứ đó con người phải lao động, sản xuất. Như vậy sản xuất của cải vật chất là cơ sở đầu tiên để tồn tại và phát triển xã hội loài người. Lịch sử chân chính là lịch sử của sản xuất, là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất.
Sự quan hệ lẫn nhau giữa người với người rất phức tạp bao gồm quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ tình cảm, quan hệ pháp lý, tôn giáo…Trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quan hệ nền tảng giữ vai trò quyết định các mối quan hệ xã hội còn lại của con người. Quan hệ sản xuất được hình thành một cách tất yếu, độc lập với ý chí của con người, thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất do lực lượng sản xuất chi phối và quyết định.
Vậy xã hội là biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân, “là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”Hệ thống tự nhiên – xã hội là một chỉnh thể trong đó những yếu tố tự nhiên và những yếu tố xã hội tác động qua lại lẫn nhau, quy định sự tồn tại và phát triển của nhau. Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người và cũng chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho các hoạt động sản xuất xã hội. Xã hội gắn bó với tự nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao động là đặc trưng cơ bản đầu tiên phân biệt hoạt động của người với động vật. Song, lao động cũng là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên bởi “lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”.Trong quá trình trao đổi chất này, nếu con người không kiểm tra, điều tiết việc sử dụng, khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên thì khủng hoảng sinh thái sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội bị phá vỡ, sự sống của con người và xã hội loài người bị đe dọa. Chính vì vậy, để giữ được môi trường tồn tại và phát triển của mình, con người phải nắm chắc các quy luật tự nhiên, kiểm tra, điều tiết hợp lý việc bảo quản, khai thác, sử dụng và tái tạo các nguồn vật chất của tự nhiên để đảm bảo sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội. Ngược lại, nếu con người bất chấp quy luật phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên – xã hội thì con người sẽ phải gánh chịu hậu quả khôn lường. “Sự việc đó nhắc nhở chúng ta từng giờ từng phút rằng chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác”.
Việc nhận thức quy luật của giới tự nhiên và sử dụng những quy luật đó một cách có hiệu quả để đảm bảo sự cân bằng hệ thống tự nhiên – xã hội không tách khỏi việc nhận thức quy luật của xã hội và sử dụng những quy luật xã hội.
Với tư cách là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, xã hội vừa phải tuân theo những quy luật của tự nhiên, vừa phải tuân theo những quy luật chỉ vốn có đối với xã hội cũng như các quy luật tự nhiên, các quy luật xã hội mang tính khách quan. Song, lịch sử phát triển của xã hội, về căn bản khác với lịch sử phát triển của tự nhiên ở một điểm: “Trong tự nhiên (chừng nào chúng ta không xét đến ảnh hưởng ngược trở lại của con người đối với tự nhiên) chỉ có những nhân tố vô ý thức và mù quáng tác động lẫn nhau, và chính trong sự tác động lẫn nhau ấy mà quy luật chung biểu hiện ra… Trái lại, trong lịch sử xã hội, nhân tố hoạt động hoàn toàn chỉ là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có nhiệt tình theo đuổi những mục đích nhất định, thì không có gì xảy ra mà lại không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn”.
Do vậy, quy luật xã hội chẳng qua chỉ là quy luật hoạt động của con người theo đuổi mục đích của mình. Mặc dù vậy, quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan. Tính khách quan của quy luật xã hội thể hiện ở chỗ, tuy quy luật xã hội được biểu hiện thông qua hoạt động của con người nhưng nó không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của bất kỳ một cá nhân, hay một lực lượng xã hội nào. Bởi vì, bằng hoạt động thực tiễn, con người tạo ra xã hội, làm nên lịch sử; song, những hoạt động của con người được thực hiện trong những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định, trong những mối quan hệ nhất định giữa con người với con người và giữa con người với giới tự nhiên, mà những điều kiện và những mối quan hệ đó là khách quan đối với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi thế hệ, mỗi con người khi họ theo đuổi mục đích của bản thân mình.
Mặt khác, thông qua hoạt động của con người tính khách quan của quy luật nói chung có những biểu hiện đặc thù ở quy luật xã hội. Quy luật xã hội thường biểu hiện ra như là những xu hướng, mang tính xu hướng. Những mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau vô cùng phức tạp giữa người và người đã tạo ra những hoạt động khác nhau trong xã hội. Tổng hợp những lực tác động lẫn nhau đó tạo thành xu hướng vận động của lịch sử. Xu hướng này là khách quan, không có một thế lực nào có thể thay đổi được.
Tính tất yếu và tính phổ biến là những đặc trưng của quy luật nói chung, cũng là những đặc trưng của quy luật xã hội. Tuy nhiên, tùy thuộc vào phạm vi và cấp độ của các mối quan hệ xã hội mà các quy luật thể hiện chúng cũng có mức độ tất yếu và phổ biến khác nhau.
Ngoài những đặc trưng của quy luật nói chung, quy luật xã hội còn những đặc điểm riêng:
Quy luật xã hội tồn tại và tác động trong những điều kiện nhất định. Khi những điều kiện tồn tại tất yếu của quy luật xã hội mất đi, thì quy luật cũng không còn tồn tại. Chẳng hạn, đấu tranh giai cấp là một trong những động lực của lịch sử, là quy luật của các xã hội có sự đối kháng giai cấp. Quy luật đấu tranh giai cấp đó sẽ chấm dứt hoạt động khi xã hội chấm dứt hoàn toàn sự phân chia thành những giai cấp đối kháng.
Sự tác động của quy luật xã hội diễn ra thông qua hoạt động của con người. Động lực cơ bản thúc đẩy con người hoạt động trong mọi thời đại, mọi xã hội là lợi ích của chủ thể hoạt động. Do vậy, lợi ích trở thành một yếu tố quan trọng trong cơ chế hoạt động của quy luật xã hội và trong sự nhận thức của con người về nó.
Một đặc điểm nữa của quy luật xã hội là để nhận thức được nó cần phải có phương pháp khái quát hóa và trừu tượng hóa rất cao. Bởi vì, sự biểu hiện và tác động của quy luật xã hội thường diễn ra trong một thời gian rất lâu, có khi là trong suốt quá trình lịch sử, do đó không thể dùng thực nghiệm để kiểm tra như những quy luật của tự nhiên, cũng không thể dùng lối suy diễn lôgíc một cách đơn thuần. Đúng như C.Mác viết: “khi phân tích những hình thái kinh tế, người ta không thể dùng kính hiển vi hay những chất phản ứng hóa học được. Sức trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó”.
Quy luật xã hội mang tính tất yếu khách quan. Dù con người có nhận thức được hay không, có tự giác vận dụng hay không, thì quy luật xã hội vẫn luôn tác động ngoài nguyện vọng và ý chí của con người. Khi con người chưa nhận thức và chưa vận dụng được quy luật thì chúng tác động như một lực lượng tự phát và biến con người thành nô lệ của tính tất yếu. Khi con người đã nhận thức được quy luật khách quan và những điều kiện hoạt động của chúng để vận dụng chúng vào các hoạt động có mục đích của mình, thì con người làm chủ được tính tất yếu, nghĩa là con người đạt đến tự do. Như vậy, tự do không có nghĩa là hành động tùy tiện, bất chấp quy luật, trái lại, tự do là nhận thức được quy luật và làm theo quy luật. Quá trình phát triển của xã hội cũng là quá trình con người từng bước vươn tới tự do.
Tóm lại: Đời sống xã hội về thực chất là có tính chất thực tiễn. Để tồn tại và phát triễn, con người không ngừng hoạt động để sản xuất và tái sản xuất ra bản thân mình, của cải vật chất, quan hệ xã hội, năng lực tinh thần, trí tuệ. Không thể thiếu yếu tố nào trong cấu trúc sản xuất xã hội. Song cần nhấn mạnh rằng sản xuất của cải vật chất là yếu tố nền tản vì chính nó tạo ra những điều kiện vật chất cho xã hội tồn tại, là động lực phát triễn xã hội, chi phối các yếu tố khác trong cấu trúc xã hội, là cơ sở lịch sử trong xã hội loài người. Sản xuất vật chất tạo ra những tư liệu sinh hoạt đáp ứng nhu cầu sống còn của con người. Cũng trong quá trình sản xuất vật chất ấy con người đã dần hoàn thiện bản thân mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin (Dùng trong các trường đại học và cao đẳng), Nxb CTQG, HN.2006.
2. Giáo trình triết học Mác – Lênin (Chương trình cao cấp), Nxb Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994.
3. Giáo trình triết học Mác – Lênin, Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb lý luận chính trị, 2005.
4. Giáo trình triết học Mác – Lênin, chủ nghĩa duy vật lịch sử, Nxb Lý luận chính trị, 2005.
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN, 2006.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhạm trù thực tiễn trong triết học mác.doc