Trình bày phẩm chất và năng lực nghề nghiệp của người giáo viên tiểu học

Những phẩm chất và năng lực sư phạm cần có của người giáo viên. trên cơ sở đó rút ra kết luận sư phạm đối với bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản không thiếu của tài liệu tại đây ( 132.68 KB, 24 trang )

ĐỀ BÀI:
Những phẩm chất và năng lực sư phạm cần có của người giáo viên. trên cơ
sở đó rút ra kết luận sư phạm đối với bản thân.

BÀI LÀM
I.

Đặt vấn đề

Chúng ta đã bước sang thế kỷ mới, thế kỷ đang và nhất định sẽ có rất nhiều
những đổi thay to lớn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong giáo dục và đào tạo
đã hình thành và bước đầu phát triển mạnh mẽ các khuynh hướng mới như đa dạng
hoá các loại hình giáo dục, sử dụng công nghệ thông tin trong dạy-học, diễn đàn khoa
học trên mạng Internet … Đảng ta cũng đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội và xác định rõ muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục-đào tạo, phát huy nguồn lực con người,
yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Chúng ta cũng định hướng được
ràng trong giáo dục-đào tạo giáo dục đại học giữ vai trò nòng cốt, bởi vì giáo dục đại
học có mục tiêu là đào tạo những con người có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý
thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin, đang làm thay đổi
nhanh chóng diện mạo của thế giới, thúc đẩy nhanh chóng tốc độ hội nhập và toàn
cầu hoá, theo đó làm thay đổi mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy-học đại học.

Nội dung giáo dục đại học ngày nay mang tính hiện đại và phát triển, phương pháp
giáo dục coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho
người học phát triển tư duy sáng tạo và tạo tiền đề để họ có khả năng tự học suốt đời.
Từ những yêu cầu trên nhiều trường đại học đã tập trung các nguồn lực vào việc

đổi mới phương pháp giảng dạy. Có nhiều giải pháp được đưa ra nhằm nâng cao chất
lượng chất lượng đào tạo, song những giải pháp có thể được coi là cơ bản và quyết
định là xác định và xây dựng nhận thức về vai trò trách nhiệm của người thầy trong
quá trình giảng dạy, tích cực đổi mới phương pháp dạy-học hiệu quả, tăng cường hệ
thống tài liệu và trang thiết bị dạy học, gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học.
Trong bài viết này chúng tôi chỉ muốn đề cập đến vai trò và trách nhiệm của người
thầy trong đổi mới phương pháp giảng dạy ở đại học trên cơ sở thực hiện các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học.
Nghề giáo là một nghề đặc biệt, cũng là một lao động nhưng sản phẩm là con
người, công cụ lao động là nhân cách của chính mình: “dùng nhân cách để đào tạo
nhân cách”. Do đó đòi hỏi ở người GV một phẩm chất đạo đức và năng lực rất cao.
không thể kể hết những yếu tố cụ thể, chỉ xét những điểm chung nhất mà một GV
không thể thiếu:
*Về phẩm chất: Phải có một nhân cách mẫu mực, yêu nghề mến trẻ. Phải luôn
luôn là tấm gương sáng cho mọi người, phải giữ tư cách đạo đức trong nhà trường,
gia đình và xã hội. nói chung trong mọi lúc mọi nơi luôn là nười mẫu mực.

Trong giảng dạy, đặt hiệu quả giáo dục lên hàng đầu, thưởng phạt công minh,
không thiên vị, tất cả vì học sinh.
*Về năng lực: xét 2 mặt là kiến thức giáo dục và kiến thức chuyên môn
-Dạy học không phải chỉ là dạy các chuyên môn của mình, mà còn mặt giáo dục.
người ta còn gọi là dạy chữ và dạy người. khi có đủ tư cách đạo đức gương mẫu, GV
hướng hs hình thành nhân cách đạo đức tốt, tránh những thói hư tật xấu. điều này
luôn lồng ghép khi giảng dạy.
-Kiến thức chuyên môn: hiển nhiên là phải có kiến thức sâu rộng, nắm vững chuyên
môn, phương pháp dạy khoa học, và luôn đổi mới cho phù hợp. biết mười dạy một,
để học sinh học một biết mười. Để đạt được tất cả những điều này tôi nghỉ phải đốt
đuốc mà tìm, nhưng không phải là không có. Những gì tôi trình bài là những gì chung
nhất mà một GV cần có, và còn phải biết áp dụng cho từng tình huống cụ thể

II.
1.

Giải quyết vấn đề
Cấu trúc nhân cách của người thầy giáo

– Cấu trúc nhân cách của mỗi người gồm: phẩm chất (đức) và năng lực (tài).
+ Phẩm chất là thái độ của con người đối vối hiện thực (tự nhiên, xã hội, người
khác, bản thân); là hệ thống những thuộc tính tâm lý biểu hiện các mối quan hệ xã hội
cụ thể của người đó; thường thể hiện qua hành động, hành vi, cách ứng xử
+ Năng lực là mặt hiệu quả của tác động (tác động vào con người, vào sự việc).
+ Phẩm chất và năng lực đều bao hàm ba yếu tố cơ bản: nhận thức, tình cảm, ý
chí. Phẩm chất của nhân cách gồm: ý thức, niềm tin đạo đức (nhận thức), tình cảm

đạo đức, ý chí dạo đức. Năng lực: năng lực trí tuệ (nhận thức), tình cảm trí tuệ và
hành động trí tuệ (ý thức).
– Cấu trúc nhân cách của người thầy giáo:
+ Phẩm chất: thế giới quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hẹ trẻ, lòng yêu
trẻ, lòng yêu nghề nghiệp, những phẩm chất đạo đức phù hợp với hoạt động của
người thầy.
+ Năng lực sư phạm: năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo
dục, tri thức, tầm hiểu biết, năng lực chế biến tài liệu học tập, năng lực dạy học, ngôn
ngữ, vạch dự án phát triển nhân cách học sinh, giao tiếp sư phạm, cảm hóa học
sinh, tổ chức hoạt động sư phạm
1.1.
A.

Những phẩm chất của người thầy giáo:
Thế giới quan khoa học: là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách,

nó quyết định niềm tin chính trị, toàn bộ hành vi cũng như ảnh hưởng của thầy giáo
đối với trẻ.
– Thế giới quan vừa là hiểu biết, quan điểm, vừa là sự thể nghiệm, vừa là tình
cảm sâu sắc về tự nhiên, xã hội và con người.
– Thế giới quan của người thầy giáo là thế giới mác leenin, bao gồm quan điểm
duy vật biện chứng về quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy
– Thế giới quan của người thầy giáo chi phối nhiều mặt hoạt động như thái độ về
việc lựa chọn nội dung, phương pháp dạy và giáo dục, kết hợp giáo dục với thực tiễn,
với chính trị.
– Thế giới quan mác- leenin là kim chỉ nam giúp cho người thầy giáo đi tiên
phong xây dựng xhcn và xây dựng niềm tin cho thế hệ trẻ.
B.
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ: đây là yếu tố hạt nhân trong cấu trúc nhân
cách của người thầy giáo.

– Lý tưởng người thầy giáo luôn luôn đi về phía trước, thấy hết giá trị lao động
của mình đối với thế hệ trẻ, lý tưởng của thầy giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình
thành nhân cách của học sinh.
– Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người thầy giáo biểu hiện bằng niềm say mê
nghề nghiệp, lòng yêu trẻ. Lương tâm nghề nghiệp, tận tụy với công việc, lối giản dị,
giúp cho người thầy giáo vượt qua những khó khăn của cuộc sống đời thường làm
việc tốt, yêu thương học sinh.
– Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ được hình thành và phát triển trong hoạt động tích
cực trong công tác giáo dục, nếu nhận thức về nghề càng cao thì tình cảm ngề nghiệp
cành sâu sắc.
C.
Lòng yêu trẻ: đây là một phẩm chất cao quý của người thầy giáo, một
phẩm chất đặc trưng trong nhân cách của người thầy giáo.

– Người thầy giáo có tình thường đối với con người, đối với trẻ mới có sự sáng
tạo trong nghề sư phạm. Tài sản vô giá của người thầy giáo là tình người, lòng nhiệt
tình thái độ ân cần, chu đáo và vị tha.
– Lòng yêu trẻ của thầy giáo được thể hiện: thầy giáo cảm thấy sung sướng khi
tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế giới độc đáo của trẻ, sung sướng khi tháy trẻ lớn
khôn, tâm hồn trong sáng, trí tuệ được phát triển. thầy giáo luôn quan tâm đầy thiện ý
với trẻ, đối sử công bằng với các em, chân thành, giản dị, nghiêm khắc,yêu cầu cao
đối với các em.
D.
Lòng yêu nghề: muốn hoạt động trong một nghề nào đó có hiệu quả thì
người đó phải có lòng yêu nghề. Nghè sư phạm cũng vậy, người hoạt động phải có
lòng yêu nghề. trên cơ sở lòng yêu trẻ người thầy giáo có động lực để yêu nghề, say
xưa với nghề, có sáng kiến với công việc để hoạt động tốt phục vụ thế hệ trẻ.
Lòng yêu nghề của người thầy được thể hiện: tận tụy với công việc, luôn nghĩ
đến công việc cống hiến cho giáo dục. Trong công việc ( DH và GD) người thầy

luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, luôn cải tiến nội dung và phương pháp
dạy học và giáo dục. Không thỏa mãn với trình độ hiểu biết của mình, tay nghề của
mình, luôn học hỏi và tựu rèn luyện để hoàn thiện mình. Luôn rút ra kinh nghiệm để
hoạt động sư phạm ngày càng tốt hơn, phục vụ các em nhiều hơn, vui mừng khi giao
tiếp với các em nhiều hơn, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giáo dục.

E.
Một số phẩm chất đạo đức cần có của người thầy giáo:
Hoạt động của người thầy giáo là nhăm thay đổi nhân cách học sinh, do đó mối
quan hệ giữa thầy và trò ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học và giáo dục. Đồng
thời người thầy luôn là tâm gương sáng để hóc sinh noi theo về mọi mặt. Vì vậy,
người thầy giáo cần phải có những phẩm chất đạo đức y chí sau:
– Tinh thần trách nhiệm, lòng nhân đạo, lòng tôn trọng, sự công bằng ,thẳng

thắn, giản dị khiêm tốn..
– Tính nguyên tắc, mục đích, kiên trì, tính tự kiềm chế, tính tự chủ, kỹ năng tự
điều chỉnh tâm trạng của mình cho phù hợp với các tình huống sư phạm.
Vậy phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo nên sự cân bằng trong mối quan hệ
thầy trò. Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng
lực của người thầy tác động đến sâu sắc học sinh.
1.2.
Năng lực của người thầy giáo (năng lực sư phạm)
có 3 nhóm năng lực sư phạm:
– Nhóm năng lực dạy học
– Nhóm năng lực giáo dục
– Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm
1.2.1. Nhóm năng lực dạy học
Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học:

Dạy học là quá trình thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động học,

trong đó thầy giáo là người tổ chức, điều khiển hoạt động của trẻ còn trò là người
chủ động tích cực sáng tạo để chiếm lĩnh nền văn hóa xã hội. vậy hoạt động dạy học
chỉ đạt được kết quả cao khi qua trình đó thực sự là quá trình điều khiển, tức là thầy
giáo phải hiểu học sinh trong quá trình dạy học.

Năng lực hiểu học sinh là khả năng thâm nhập vào thế giới bên trong của
học sinh, sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng, có năng lực quan sát tinh
teess những biểu hiện tâm lý trong quá trình dạy học và giáo dục.

Biểu hiện năng lực hiểu học sinh của người thầy giáo:

– Khi chuẩn bị bài có tính đến trình độ nhận thức và khả năng phát triển của học
sinh, hình dung được cái gì các em có thể hiểu được, cái gì các e khó hiểu, hiểu được
ở từng em như vậy.
– Khi chế biến tài liệu, trình bày tài liệu phải biết đặt mình vào địa vị người học.
Đặc biết biết suy nghĩ về đặc điểm của nội dung, biết xác định khối lượng và mức độ
khó khăn, đưa ra cách trình bày kiến thức mới sao cho học sinh dễ hieur, giuos cho
học sinh lĩnh hội được.
– Đưa ra những câu hỏi phù hợp với từng học sinh để các em có thể trả lời được,
biết được những vướng mắc của các em.
– Người giáo viên còn dự đoán được trước những thuận lợi và khó khăn, xác
định đúng mục đích căng thẳng cần thiết khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức.
Vậy để có năng lực này người thầy giáo phải có năng lực, trách nhiệm, yêu
thương đi sâu, đi sát học sinh, nắm vững chuyên môn, am hiểu tâm lý học sinh, tâm
lý lứa tuổi. cần phải có một số phẩm chất tâm lý cần thiết như óc quan sát tinh tế, óc
tưởng tượng, có khả năng phân tích và tổng hợp……

Tri thức và tầm hiểu biết của người thầy giáo: đây là một năng lực cơ bản
người thầy giáo phải có tri thức sâu về chuyên môn và có tâm hiểu biết rộng
bởi vì:
– người thầy giáo phải có nhiệm vụ hình thành và phát triển nhân cách cho học
sinh ( thế hệ trẻ). Để thực hiện nhiệm vụ đó thầy giáo phải trang bị cho họ những tri
thức, kỹ năng, kỹ sảo, quan điểm và thái độ….(nhất là tri thức khoa học do mình phụ
trách).
– Thầy giáo là người tổ chức quá trình tái tạo những tri thức loài người để phát
triển tâm lý con người mới.
– Thấy giáo là nhà giáo dục có hoạt động rất đa dạng và phong phú, không chỉ
giảng dạy chuyên môn và còn hình thành thế giới quan cho trẻ. Đông thời người thầy
giáo có tri thức và tầm hiểu biết để tạo ra uy tin của mình.
người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết được thể hiện:

– Nắm vững và hiểu biết rộng môn mình phụ trách.
– Thường xuyên theo dõi xu hướng, những phát minh khoa học thuộc môn mình
phụ trách và môn học khác. Đồng thời biết tiến hành nghiên cứu khoa học và hứng
thú đối với nó.
– Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để hoàn thiện trí thức cho mình.
Vậy để có năng lực này người thầy giáo phải có nhu cầu mở rộng tri thức và tầm
hieur biết của mình, luôn luôn cố gắng học hỏi và tự học để đào sâu và mở rộng tri
thức. Đồng thời thầy giáo phải tự rèn luyện cho mình kỹ năng tự học.
Năng lực chế biến tài liệu học tâp

– Người thầy giáo không phải truyền đạt một cách máy móc và dập khuôn từng
câu, từng chữ trong sách giáo khoa hay tài liệu, mà phải biết chế biến tài liệu sao cho
phù hợp với logich phát triển khoa học, vừa phải hợp với nhận thức của học sinh để
giúp cho học sinh để hiểu, hiểu bài sâu sắc và vững chắc hơn.
a)
Người thầy giáo biết chế biến tài liệu học tập được thể hiện.
– Đánh giá đúng tài liệu: xác lập được mối yêu cầu kiến thức của chương trình
với trình độ nhận thức của học sinh. Để đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức
của chương trình, làm cho tài liệu đó vừa sức với học sinh.
– Người thầy giáo biết tổ chức cho trẻ giành được tri thức khoa học đã đưuọc gởi
gắm trong tài liệu, truyền được sức sống của kiến thức đó có ý nghĩa sâu sắc đối với
cuộc sống của họ. Người thầy giáo phải nắm bắt được logic phát triển của tri thức,
hiểu thấu đáo, chính xác tài liệu phải biết chế biến nhào nặn bổ sung tài liệu
– Thầy giáo phải có khả năng phân tích, hệ thống hóa kiến thức. Đồng thời có
sáng tạo khi chế biến tài liệu để cung cấp cho học sinh những kiến thức chính, bổ ích,
chính xác, có liên hệ giữa kiến thức cũ với mới, kiến thức bộ môn này với kiến thức
bộ môn khác, biết vận dụng vào thực tiễn cuộc sống
b)
Nắm vũng kỹ thuật dạy học mới:

– Kết quả chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc vào phương pháp dạy của
thầy, do đó thầy phải biết cách dạy, nâng cao trình độ dạy. Tức là thầy phải nắm vững
kỹ thuật dạy học mới.
Kỹ thuật dạy học mới là thầy tổ chức, điều khiển hoạt động của trò nhắm giúp
trò chủ động, tích cực, sáng tạo lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Người thầy giáo nắm vugnx những kỹ thuật dạy học mới được biểu hiện ở
những chỗ:
+ biết tạo cho học sinh ở vị trí người phát minh trong quá trình dạy học.
+ truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học
sinh
+ gây được hứng thú và kích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập
+ tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập

Vậy muốn có năng lực này, người thầy giáo cần phải học tập, nghiên cứu
nghiêm túc cả về lý luận cơ bản, cả về lý luận nghiệp vụ. Đồng thời pahir rèn luyện ta
nghề công phu, có sáng kiến
c)
Năng lực ngôn ngữ: đây là một năng lực quan trọng của người thầy giáo
– Trong dạy học thây fgiaos dùng ngôn ngữ như là công cụ để truyền thụ kiến
thức mới, kiểm tra kiến thức cũ,thuyết phục học sinh tin vào chân lý
Ngôn ngữ còn giúp người thầy giáo thực hiện chức năng dạy học và giáo dục, nó
truyền đạt những thông tin đến học sinh, thúc đẩy sự chú ý va suy nghĩ của học sinh
vào bài giảng, đồng thời điều khiểnđiều chỉnh hoạt động nhận thức của học sinh
– Năng lực ngôn ngữ của người thầy giáo phải được biểu hiện ở cả nội dung và
hình thức của ngôn ngữ:
+ Về nôi dung: chứa đựng mật độ thông tin lớn, diễn tả trình bày phải chính xác,
cô đọng, thâm uyên về sự hiểu biết, suy nghĩ sâu sắc. Lời nói phản ánh được tính ké
tục, đảm bảo thôn gtin liên tục, logic của vấn đề. Đặc biệt nhân cách của người thầy
giáo là hậu thuẫn vững chắc cho lời nói của mình.

+ về hình thức: Hình thức ngôn ngữ của người thầy pahri giản dị, sinh động,
giàu hình ảnh, có ngữ điệu, sáng sủa, biểu cảm, cách phát âm phải chuẩn, không sai
ngữ pháp. Ngôn ngữ của thầy giáo còn thúc đẩy một cách tối đa sự chú ý va suy nghĩ
của học sinh vào bài giảng, tránh câu nói dài, rườm rà, cấu trúc phức tạp, thuật ngữ
khó hiểu. Do đó thầy giáo cần phải suy nghĩ để lựa chọn hình thức trình bày ngăn gọn
đôi khi pha lẫn sự khôi hài, dí dỏm để các em tích cực suy nghĩ học tập sôi nỏi và tiếp
thu tốt hơn.
Tóm lại ngôn ngữ của thầy giáo phải súc tích về nội dung, giản dị về hình
thứ.người thầy giáo cần rèn luyện ngôn ngữ của mình thường xuyên, chuyên cần để
có năng lực ngôn ngữ, ngôn ngữ ngày càng phát triển.

1.2.2. Nhóm năng lực giáo dục:
a) năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh:
– muốn vạch dự án phát triển nhân cách học sinh người thầy giáo pahir biết hình
dung trước biểu tượng nhân cách học sinh mà mình có nhiệm vụ đào tạo.
– năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh là khả năng biết dựa vào
mục đích giáo dục,yêu cầu đào tạo hình dung trước phải giáo dục cho học sinh những
phẩm chất nhân cách nào và hướng hoạt động cho các em phát triển tốt.
– năng lực này của người thầy được thể hiện:
+ thầy giáo có khả năng tiên đoán sự phát triển những phẩm chất và năng lực
của từng học sinh, đồng thời phải nắm được nguyên nhân sinh ra, mức độ phát triển
dố.
+ thầy giáo còn dự đoán được chính xác những biểu hiện nhân cách của những
học sinh khác nhau, sữ thu được trong tương lai dưới ảnh hưởng của những dự án
phát triển nhân cách do mính xây dựng, hình dung được hiệu quả của các tác động
giáo dục nhằm hình thành nhân cách thwo dự án.
Vậy để có được năng lực này người thầy phải có óc tưởng tượng sư phạm, tính
lạc quan sư phạm, có niềm tin vào sức mạnh giáo dục, niềm tin vào con người và có
óc quan sát tinh tế.

b) Năng lực giao tiếp sư phạm:
– trong hoạt động sư phạm diên xra quá trình giao tiếp giữa thầy và trò, quá
trình giao tiếp diên xra có hiệu quả thì làm cho hoạt động sư phạm có hiệu quả hơn.
Do đó người thầy giáo cần phải có năng lực giao tiếp .
– năng lwucj giao tiếp là khả năng nhận thức nhanh chóng những biểu hiện bên
ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của học sinh và của bản thân, đồng thời

biết sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữvà phi ngôn ngữ biết cách tổ chức ,
diều khiển ,điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt được mục đích giáo dục.
– năng lực giao tiếp sư phạm được biểu hiện ở kỹ năng sau:
+ kỹ năng định hướng giao tiếp: là khả năng biết dựa vào sự biểu lộ bên ngoài
nhưn sác thái, biểu cảm, ngữ điệu, thanh điêu của ngôn ngữ, hành vi,cử chỉ, động tác,
thời điểm và không gian giao tiếp mà phán đoán chính xác về nhân cách cũng như
mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp.
+ kỹ năng định vị: là khả năng biết xác định vị trí của mình trong quá trình
giao tiếp, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của đối tượng giao tiếp, là điều kiện đẻ đối
tượng chủ động, thoải mái giao tiếp với mình.
Kỹ năng này đảm bảo sự đồng cảm giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp, là điều
kiện quan trọng dể hai bên hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp.
– Kỹ năng diều khiển quá trình giao tiếp: Biết cách thu hút đối tượng tìm ra đề
tài giao tiếp, duy trì nó, xác định được nguyện vọng hứng thú của đối tượng, biết làm
chủ trạng thái xúc cảm của bản thân và biết sử dụng hợp lý các phương tiện giao tiếp.
Vậy đẻ có năng lực này người thầy giáo phải rẻn luyện nhân cách của mình đó
là lòng nhiệt tình, tôn trọng nhân cách học sinh, có thiện chí quan tâm giúp đỡ người
khác, giúp đõ học sinh, phải biết lắng nghe và dan chủ trong giao tiếp thì dễ dàng
thiết lập mới quan hệ tốt với học sinh, để đạt kết quả cao trong hoạt động sư phạm.

c) năng lực cảm hóa học sinh:

– muốn hiểu được đối tượng giáo dục, muốn cho các tác động sư phạm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách trẻ thì người giáo viên phải có năng lực
cảm hóa học sinh.
– năng lực cảm hóa học sinh là khả năng gây được ảnh hưởng trực tiếp nhân
cách của mình đến học sinh về mặt tình cảm và ý chí. Hay nói cách khác đó là khả
năng làm cho học sinh nghe, tin và làm theo mình bằng tình cảm, niềm tin
– Biểu hiện của năng lực cảm hóa: Người thầy giáo có các phẩm chất và năng
lực; Tinh thần trách nhiệm đối với công việc, có niềm tin vào sự nghiệp, có kỹ năng
truyền đạt niềm ton đó, lòng tôn trọng học sinh có sự chu đáo, ân cần, có đối xử khéo
lwos sư phạm, có lòng vị tha, có các phẩm chất ý chí, có trình độ chuyên môn vững
vàng.
– Vậy đẻ có năng lực này người giáo viên pahir có nhân cách mẫu mực, tróng
sáng, có uy tín, có lời nói, hành vi cử chỉ đẹp, có tinh thần lao động hăng say, sán
tạo, có lý tưởng đào tạo yêu thương học sinh, công bằng tin tưởng dân chủ, chân
thành ,giản dị và biết phát huy tích cực sán tạo của học sinh.
d) Năng lực đối xử khéo léo sư phạm:
Người thầy cần phải có sự khwos léo đối xử sư phạm đê có tác động sư phạm
phù hợp làm cho giáo dục có hiệu quả/

– Năng lực đối xử khéo léo sư phạm: là kỹ năng tìm ra những phương thức tác
động đến học sinh một cách có hiệu quả tốt nhất, có sự cân nhắc đứng đắn nhuwgnx
nhiệm vụ sư phạm cụ thẻ phù hợp với những đặc điểm và khả năng của các nhân
cugnx như tập thể học sinh trong từng tình huốn sư phạm cụ thể.
Nói cách khác sự đối sử khéo léo sư phạm là kỹ năng trong bất cứ trường hợp
nào cugnx tìm ra được những tác dộng sư phạm đúng đắn nhất, hiệu quả nhất
Biểu hiện của sự đối sử khéo léo sư phạm:
– Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những biện
pháp thích hợp không nóng vội,thô bạo.
– Biết biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết những mau lẹ những vấn

đề phức tạp đặt ra trong công tác dạy học và giáo dục
– Có sự nhạy bén về mức độ sử dụng một tác động sư phạm nào?
– Thầy giáo còn phải quan tâm chu đáo,ân cần đến học sinh có tính đến đặt điểm
tâm lý cá nhân
Để có năng lực này người thầy giáo cần phải:
– Sự thống nhất tôn trọng và yêu cầu cao.
– Sự thống nhất tình thương yêu có lý.
– Sự thống nhất và niềm tin và sự kiểm tra sư phạm
– Sự cân bằng ý chí khi giao tiếp kết hợp với tính giản dị, tự nhiên, chân thật, có
thiện chí của những hình thức đối xử.
– Người thầy giáo phải có lương tâm nghê nghiệp, niêm tin yê lòng tôn trọng, có
tinh thông nghề nghiệp.
1.2.3. Nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư pham:
– người thầy giáo ngoài năng lực dạy học và năng lực giáo dục, còn phải có năng
lực tổ chức hoạt đông sư phạm.

Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm được thể hiện:
– Biết tôt chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau của công tác
dạy học và giáo dục ở trên lớp cũng như ngoài lớp cho từng học sinh cũng như tập
thể học sinh.
– Biết đoàn kết học sinh thành một tập thể thống nhất, lành mạnh, có kỹ luật, nề
nếp đảm bảo cho mọi hoạt động của lớp diễn ra một cách thuận lợi
– Biết tổ chức và vận động nhân dân, cha mẹ hoc sinh và các tổ chức hội tham
gia vào sự nghiệp giáo dục theo mục tiêu xác định.

Vậy để có năng lực này người thầy giáo cần phải:
– Biết vạch ra kế hoạch: khi vạch ra kế hoạch phải suy nghĩ một cách chín chắn,
sâu sắc các tình huống giáo dục và đặc điểm đối tượng, kế hoạch vạch ra biết kết hợp
yêu cầu trước mắt và lâu dài, bảo đảm tính nguyên tắc, tính linh hoạt của kế hoạch.

– Biết sử dụng đúng đắn các hình thức và phương pháp dạy học và giáo dục
nhau, nhằm tổ chức tốt các hoạt động học tập và các tác động sâu sắc đến tư tưởng và
tingf cảm của học sinh.
– Biết mức độ và giới hạn từng biện pháp dạy học và giáo dục khác nhau.
– Người thầy giáo phải có nghị lực, dũng cảm tin vào sự đúng đắn của kế hoạch
và biện pháp giáo dục.
d)
Người thầy giáo biết chế biến tài liệu học tập được thể hiện.
– Đánh giá đúng tài liệu: xác lập được mối yêu cầu kiến thức của chương trình
với trình độ nhận thức của học sinh. Để đảm bảo được yêu cầu chung về kiến thức
của chương trình, làm cho tài liệu đó vừa sức với học sinh.
– Người thầy giáo biết tổ chức cho trẻ giành được tri thức khoa học đã đưuọc gởi
gắm trong tài liệu, truyền được sức sống của kiến thức đó có ý nghĩa sâu sắc đối với
cuộc sống của họ. Người thầy giáo phải nắm bắt được logic phát triển của tri thức,
hiểu thấu đáo, chính xác tài liệu phải biết chế biến nhào nặn bổ sung tài liệu

– Thầy giáo phải có khả năng phân tích, hệ thống hóa kiến thức. Đồng thời có
sáng tạo khi chế biến tài liệu để cung cấp cho học sinh những kiến thức chính, bổ ích,
chính xác, có liên hệ giữa kiến thức cũ với mới, kiến thức bộ môn này với kiến thức
bộ môn khác, biết vận dụng vào thực tiễn cuộc sống
e)
Nắm vũng kỹ thuật dạy học mới:
– Kết quả chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc vào phương pháp dạy của
thầy, do đó thầy phải biết cách dạy, nâng cao trình độ dạy. Tức là thầy phải nắm vững
kỹ thuật dạy học mới.
Kỹ thuật dạy học mới là thầy tổ chức, điều khiển hoạt động của trò nhắm giúp
trò chủ động, tích cực, sáng tạo lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Người thầy giáo nắm vugnx những kỹ thuật dạy học mới được biểu hiện ở
những chỗ:

+ biết tạo cho học sinh ở vị trí người phát minh trong quá trình dạy học.
+ truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với học
sinh
+ gây được hứng thú và kích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập
+ tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập
Vậy muốn có năng lực này, người thầy giáo cần phải học tập, nghiên cứu
nghiêm túc cả về lý luận cơ bản, cả về lý luận nghiệp vụ. Đồng thời pahir rèn luyện ta
nghề công phu, có sáng kiến
f)
Năng lực ngôn ngữ: đây là một năng lực quan trọng của người thầy giáo
– Trong dạy học thây fgiaos dùng ngôn ngữ như là công cụ để truyền thụ kiến
thức mới, kiểm tra kiến thức cũ,thuyết phục học sinh tin vào chân lý
Ngôn ngữ còn giúp người thầy giáo thực hiện chức năng dạy học và giáo dục, nó
truyền đạt những thông tin đến học sinh, thúc đẩy sự chú ý va suy nghĩ của học sinh
vào bài giảng, đồng thời điều khiểnđiều chỉnh hoạt động nhận thức của học sinh
– Năng lực ngôn ngữ của người thầy giáo phải được biểu hiện ở cả nội dung và
hình thức của ngôn ngữ:

+ Về nôi dung: chứa đựng mật độ thông tin lớn, diễn tả trình bày phải chính xác,
cô đọng, thâm uyên về sự hiểu biết, suy nghĩ sâu sắc. Lời nói phản ánh được tính ké
tục, đảm bảo thôn gtin liên tục, logic của vấn đề. Đặc biệt nhân cách của người thầy
giáo là hậu thuẫn vững chắc cho lời nói của mình.
+ về hình thức: Hình thức ngôn ngữ của người thầy pahri giản dị, sinh động,
giàu hình ảnh, có ngữ điệu, sáng sủa, biểu cảm, cách phát âm phải chuẩn, không sai
ngữ pháp. Ngôn ngữ của thầy giáo còn thúc đẩy một cách tối đa sự chú ý va suy nghĩ
của học sinh vào bài giảng, tránh câu nói dài, rườm rà, cấu trúc phức tạp, thuật ngữ
khó hiểu. Do đó thầy giáo cần phải suy nghĩ để lựa chọn hình thức trình bày ngăn gọn
đôi khi pha lẫn sự khôi hài, dí dỏm để các em tích cực suy nghĩ học tập sôi nỏi và tiếp
thu tốt hơn.

Tóm lại ngôn ngữ của thầy giáo phải súc tích về nội dung, giản dị về hình
thứ.người thầy giáo cần rèn luyện ngôn ngữ của mình thường xuyên, chuyên cần để
có năng lực ngôn ngữ, ngôn ngữ ngày càng phát triển.
Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những biện
pháp thích hợp không nóng vội,thô bạo.
– Biết biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết những mau lẹ những vấn
đề phức tạp đặt ra trong công tác dạy học và giáo dục
– Có sự nhạy bén về mức độ sử dụng một tác động sư phạm nào?
– Thầy giáo còn phải quan tâm chu đáo,ân cần đến học sinh có tính đến đặt điểm
tâm lý cá nhân
Để có năng lực này người thầy giáo cần phải:
– Sự thống nhất tôn trọng và yêu cầu cao.
– Sự thống nhất tình thương yêu có lý.
– Sự thống nhất và niềm tin và sự kiểm tra sư phạm

– Sự cân bằng ý chí khi giao tiếp kết hợp với tính giản dị, tự nhiên, chân thật, có
thiện chí của những hình thức đối xử.
– Người thầy giáo phải có lương tâm nghê nghiệp, niêm tin yê lòng tôn trọng, có
tinh thông nghề nghiệp.
1.3.
kết luận sư phạm đối với bản thân
Trường sư phạm có nhiệm vụ xây dựng nên những cơ sở trọng yếu để hình
thành nhân cách người thầy giáo tương lai. Thời gian học tập và tu dưỡng của giáo
sinh ở trường sư phạm là cực kỳ quan trọng để tạo ra những tiền đề cần thiết kiến tạo
nhân cách.
Trong hoạt động dạy học, người thầy phải chú ý trau dồi năng lực ngôn ngữ.
Nhịp điệu ngôn ngữ tối ưu là nhịp độ trung bình, hoạt bát.
– Nắm vững mục đích, phương pháp và tổ chức việc tự tu dưỡng của các em.
Trong tổ chức tự tu dưỡng, đầu tiên phải hướng dẫn cho các em lập kế hoạch tự tu

dưỡng, bao gồm: những nét đạo đức mà các em cần rèn luyện, củng cố hay khắc
phục.
– Phải làm cho học sinh hiểu rằng tự tu dưỡng diễn ra trong quá trình hoạt
động thực tiễn mới đem lại kết quả vì chỉ qua thực tiễn thì niềm tin mới được hình
thành.
– Làm cho học sinh hiểu tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên là một việc
làm không thể thiếu của người tự tu dưỡng, vì có như vậy mới có cơ sở để tự khuyến
khích vươn lên và củng cố lòng tin.

Tránh việc giáo dục đạo đức một cách khô khan, cứng nhắc. Bên cạnh việc trang
bị tri thức đạo đưc; cần thiết giúp các em biến những tri thức thành niềm tin đạo đức;
giáo dục bằng những tác động đạo đức của văn học, nghệ thuật, ngoại khóa; tiếp xúc
với người thực, việc thực; bởi vì khi đó hiệu quả giáo dục lớn hơn, có khả năng đi
thẳng vào niềm tin đạo đức của mỗi người.
Chúng ta đã quá quen thuộc với những câu nói, chẳng hạn: Không thầy đố mày
làm nên, Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn
vinh (2). Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hóa chúng trong cuộc sống. Theo tôi, vai
trò của người thầy tác động vào nhân cách người học, ở tầm nhân tố quyết định chất
lượng giáo dục, phải được thể hiện đồng bộ trên cả 3 mặt:
– Hình thành tri thức mới (mới đối với người học).
– Rèn luyện phương pháp tư duy (tư duy độc lập, tư duy phê phán và tư duy sáng
tạo – một điểm đang yếu trong giảng dạy hiện nay).
– Bồi dưỡng tâm hồn trong sáng (bao hàm cả việc giáo dục lý tưởng, lẽ sống,
đạo đức) cho các em. Phải chắp cánh ước mơ cho các em bay cao, bay xa…
Trong mỗi bài giảng, đều nhất thiết phải có được cái mới trên những mức độ
khác nhau để đạt được yêu cầu về cả 3 mặt đó. Tri thức mới, như vật liệu xây
dựng. Phương pháp tư duy tựa như cách thiết kế ngôi nhà. Chỉ có vật liệu mà
không biết cách làm thì cũng như không. Song, nếu có vật liệu, biết cách xây dựng,
mà không chịu / muốn / dám / say mê làm thì cũng vô dụng; nghĩa là không có tâm

hồn hay tâm hồn bệnh hoạn, méo mó thì cũng hỏng.

Trong 3 mặt trên, xét về tầm quan trọng của yêu cầu giáo dục, thìbồi dưỡng tâm
hồn là cái gốc, bởi vậy nên chúng ta mới đề ra khẩu hiệu tiên học lễ, hậu học
văn. Và học lễ thông qua học văn, bởi văn dĩ tải đạo, nghĩa là thông qua dạy
chữ mà dạy người. Đương nhiên không phải sống sượng lắp ghép 3 mặt với nhau.
Thực hiện tốt yêu cầu của cả 3 mặt đó đòi hỏi người dạy phải cónghiệp vụ và năng
lực, năng khiếu sư phạm nhất định. Chính vì vậy mà sư phạm không chỉ là khoa học,
mà còn là nghệ thuật.

III. KẾT LUẬN

Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, trong đó vai trò của
người thầy chính là người lái đò qua sông, dìu dắt các thế hệ trẻ trở thành chủ nhân
tương lai của đất nước.
Một người thầy tốt là một tấm gương sáng cho học sinh  sinh viên noi theo và
động viên, gần gũi, giúp đỡ, khi vấp ngã để trở thành người có ích cho gia đình, xã
hội. Ngược lại, một người thầy không tốt có thể tạo ra những vết đen khó phai trong
nhân cách của học sinh  sinh viên.
Vậy nên, phong cách sư phạm và rất nhiều những yếu tố khác trong nhà trường
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tư duy, nhân cách của người học. Bản tính con
người là muốn được sẻ chia. Tri thức, niềm vui kể cho một người nghe sẽ được nhân
lên thành hai, nỗi buồn kể cho một người nghe sẽ giảm đi một nửa.
Hơn ai hết cách ứng xử của người thầy phải có tính giáo dục. Đứng trên bục
giảng, người thầy không chỉ truyền đạy kiến thức cho học sinh  sinh viên mà còn là
tấm gương để các em noi theo: từ tri thức, vốn sống, lời ăn, tiếng nói, cử chỉ đến hành
động…
Cái khó của người thầy là dạy như thế nào, nói như thế nào, phải ứng xử như thế

nào, phải luôn cân nhắc lời ăn tiếng nói cũng như cử chỉ, hành động, phải ứng xử như
thế nào để được người học kính nể và hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học của mình.
Dạy ở đây, tôi muốn nói dạy theo đúng nghĩa, không chỉ dạy chữ mà còn
dạy người.
Dạy chữ thì dễ, tất nhiên cũng đòi hỏi khả năng chuyên môn nghiệp vụ của
người thầy, nhưng dạy người mới thực sự khó. Bởi nhân cách người học là hình
ảnh nhân cách của người thầy.

Ai cũng biết, chất lượng đội ngũ giáo viên (thể hiện ở đạo đức nghề giáo và
năng lực dạy học) là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định chất
lượng đào tạo. Nghiên cứu các làng có truyền thống hiếu học và khoa bảng cho thấy,
thời phong kiến, những người dạy học được tự do hành nghề, hoặc tại làng, hoặc tại
các làng trong vùng; khá nhiều trường hợp, các ông đồ từ Thanh Hóa, Nghệ An ra
các làng quê ven Hà Nội dạy học. Qua hàng nghìn năm nuôi các thế hệ con em ăn
học, cha ông ta đã tổng kết “Thầy nào trò đó”. Không phải ngẫu nhiên mà xưa kia,
các bậc cha mẹ tìm, chọn thầy cho con rất kỹ lưỡng: phải là những thầy “văn hay, chữ
tốt”, có nhân cách, có ảnh hưởng rộng lớn trong làng xóm. Điều quan trọng nhất, họ
lấy sự thành đạt của học trò làm niềm vui, vinh dự nghề nghiệp và cũng là sự thành
đạt của mình. Không một tổ chức, cơ quan chuyên môn hay cơ quan hành chính nào
quản lý, giám sát việc dạy của các thầy, nhưng các thầy luôn biết “giữ mình”. Để
hành nghề được lâu dài tại một vùng quê, họ một mặt phải đem hết tâm huyết để dạy
học trò, truyền cho trò tất cả vốn kiến thức và kinh nghiệm mình có để trò học hành
tiến bộ và thành đạt; mặt khác luôn biết giữ và nêu gương về nhân cách, lối sống.
Xưa kia, ít có hiện tượng thầy lợi dụng nghề nghiệp, cương vị của mình để “vòi
vĩnh” trò và gia đình học trò kiếm lợi. Chính vì thế, các thầy giáo luôn được coi là
những bậc mẫu mực, có ảnh hưởng lớn với học trò, được học trò kính trọng suốt đời
“sống Tết, chết giỗ”. Các thầy cũng có uy tín lớn trong cộng đồng làng, bằng vốn
kiến thức được trang bị, bằng tấm lòng với học trò và bằng nhân cách của mình.
Trong hầu hết các công việc của cộng đồng, dân làng, đến cả các chức dịch cũng

thường hỏi ý kiến thầy, trước khi đưa ra quyết định thực thi.

Trong nền giáo dục mới, các thầy giáo, cô giáo được phân công giảng dạy theo
bộ môn, trường lớp, chịu sự quản lý của Nhà nước, thông qua ngành giáo dục mà trực
tiếp là Ban giám hiệu, tổ chức Đảng, Công đoàn, đoàn thanh niên trong nhà trường.
Không thể phủ nhận được vai trò to lớn của đội ngũ các nhà giáo đối với những thành
tựu của nền giáo dục mới và sự thành đạt của bao lớp học trò trong mấy chục năm
qua. Đã có biết bao người thầy không màng danh lợi, sống đạm bạc, suốt đời vì sự
nghiệp đào tạo học trò, có nhiều học trò thành đạt. Nhiều người được nhận các danh
hiệu cao quý “Nhà giáo Nhân dân”, “Nhà giáo Ưu tú”.
Tuy nhiên, trong khoảng 20 năm trở lại đây, đặc biệt là từ khi nền kinh tế – xã
hội chịu nhiều tác động của những mặt trái của cơ chế thị trường thì một bộ phận giáo
viên, nhất là giáo viên ở các thành phố, thị xã đã sa sút phẩm chất, xa rời đạo lý của
người thầy, coi nghề nghiệp và cương vị làm thầy của mình là “bảo bối” để “làm kinh
tế”. Họ giảng cầm chừng ở giờ học chính, dành phần kiến thức chính để “phụ đạo”
học sinh tại nhà riêng, ép buộc học sinh phải học thêm. Nhiều thầy giáo lợi dụng uy
tín của mình để mở các trung tâm luyện thi, thu nhập rất cao. Không ít trung tâm treo
biển bên ngoài gồm các chuyên gia, thầy giáo có tiếng, nhưng thực chất lại do những
người có trình độ non kém giảng dạy. Sự sa sút đạo lý làm thầy trên đây là một trong
những nguyên nhân chính yếu nhất dẫn đến chất lượng giáo dục đại trà giảm sút,
quan hệ thầy trò xuống cấp.

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TS. NGUYỄN XUÂN LONG, BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM,
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ- ĐẠI HỌC HÀ NÔI.
[2]. http://www.cdsplaocai.edu.vn/tin-tuc/ebook/1295405331-bai-giang-tam-lyhoc-su-pham-va-lua-tuoi.htm
[3]. Tâm lý học sư phạm, Lê Văn Hồng (1996), Nxb Giáo dục, Hà Nội
[4]. Tâm lý học hoạt động và khả năng ứng dụng vào lĩnh vực dạy học, Phan

Trọng Ngọ (chủ biên, 2000) Dương Diệu Hoa, Nguyễn Thị Mùi, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội

Source: https://evbn.org
Category: Giáo Viên