PHÁ THAI DƯỚI GÓC NHÌN ĐẠO ĐỨC HỌC

PHÁ THAI DƯỚI GÓC NHÌN ĐẠO ĐỨC HỌC

I. Dẫn Nhập

Phá thai (Abortion) là một trong những vấn đề phức tạp, nhức nhối, gây ra nhiều tranh cãi trong lịch sử, tại nhiều quốc gia và trong mọi thời đại. Những cuộc tranh luận ấy làm nổ ra hai làn sóng: Ủng hộ sự sống (Pro Life) và Ủng hộ lựa chọn (Pro Choice). Người ta cố gắng dùng các lý thuyết khác nhau để bảo vệ lập trường của mình. Dầu vậy cho đến nay, phá thai không chỉ là một vấn đề nóng bỏng, đang được tranh luận hết sức sôi nổi, nhưng trên hết, nó còn là một tiếng kêu cứu “SOS”. Trong phạm vi bài viết này, người viết không có tham vọng đưa ra một quan điểm rõ ràng mạch lạc, cũng không có ý trình bày cái gì được phép, cái gì bị ngăn cấm một cách kiên quyết, càng không phải mở ra một hướng giải quyết mới mang tính độc lập, một cái nhìn đúng đắn hay một lối thoát cho tranh luận xung quanh vấn đề nan giải này, nhưng người viết cố gắng tiếp cận vấn đề dựa trên một vài triết thuyết đạo đức như thuyết Nữ quyền, thuyết Vị lợi, thuyết Vị kỷ, Kant và sự tôn trọng con người.

Bài viết dưới đây tập trung trình bày ba vấn đề căn bản sau đây: Thứ nhất: Vài nét khái quát về vấn đề phá thai; Thứ hai: Vấn đề phá thai dưới cái nhìn đạo đức học; Thứ ba: Một vài phản biện và nhận định chung; Phần bốn: Kết luận.

II. Nội Dung

1. Vài nét khái quát về vấn đề phá thai

1.1. Khái niệm phá thai

Y khoa định nghĩa Phá thai như một thuật ngữ về một sự kết thúc thai nghén bằng cách loại bỏ hay lấy phôi hay thai nhi khỏi tử cung trước khi đến hạn sinh nở. Ở người và các giống loài khác, một sự phá thai có thể xảy ra một cách tự nhiên vì biến chứng trong quá trình mang thai, hay do cố ý gây ra. Trong trường hợp mang thai ở loài người, một sự phá thai có chủ đích có thể bị gọi là “điều trị” hay “tùy chọn”[1]

1.2. Các trường hợp phá thai.

Trong lãnh vực y khoa, các hình thức phá thai chủ yếu như phá thai trị liệu (therapeutic abortion), phá thai kế hoạch, phá thai chọn lọc (selective abortion) hay phá thai ưu sinh (eugenic abortion), thai ngoài tử cung (GEU – Gestation extra-uterine, hay ectopic pregnancy)[2].

Thông thường, các trường hợp phá thai thường do mang thai ngoài ý muốn. Những phụ nữ chưa chồng do quan hệ tình dục không sử dụng các biện pháp tránh thai. Do không muốn mang tiếng hoặc chưa sẵn sàng cho cuộc sống gia đình, người phụ nữ thường phải bỏ thai. Một số cặp vợ chồng do điều kiện kinh tế hoặc do pháp luật giới hạn số lượng con cái trong gia đình nên cũng phải quyết định phá thai. Ngoài ra, cũng có trường hợp phá thai do thai dị tật, khó nuôi, do bị xâm hại tình dục, cưỡng dâm, loạn luân, hoặc nguy hiểm đến tính mạng thai phụ.

1.3. Nguyên nhân phá thai

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc phá bỏ một thai nhi, tuy nhiên, người viết xin được đưa ra bốn nguyên nhân căn bản sau đây:

Thứ nhất, giới trẻ hoặc thiếu kiến thức về giới tính và sức khỏe sinh sản, hoặc không làm chủ được mình, hoặc thích cuộc sống hưởng thụ, buông thả, có quan hệ tình dục dẫn đến mang thai ngoài ý muốn. Trong khi đó, bản thân chưa sẵn sàng để đi tới việc kết hôn, khi tuổi đời còn quá trẻ, chưa chuẩn bị đầy đủ những yếu tố sức khỏe và tâm lý để mang thai.

Thứ hai, chính sách hạn chế việc gia tăng dân số, mỗi gia đình chỉ được phép có một con hoặc hai con. Vì luật này, những người có thai lần thứ hai, thứ ba hoặc thứ tư sẽ buộc phải bỏ.

Thứ ba, vì bác sĩ nói rằng đứa bé sinh ra có thể không bình thường hoặc sẽ khuyết tật suốt đời hoặc nguy hiểm đến tính mạng của người mẹ.

Thứ tư, vì sợ đứa con sinh ra sẽ gây phiền phức, tốn kém tiền bạc, mất thì giờ chăm sóc, sợ chúng sẽ làm hỏng chương trình cha mẹ đã dự tính, hoặc vì một mục đích riêng tư nào đó.

Trước vấn nạn phá thai, một câu hỏi cấp bách đặt ra: Có nên cấm phụ nữ phá thai không? phá thai có phải là một hành vi tội ác, một hành động giết người? Đạo đức học đòi hỏi mỗi người phải cố gắng suy tư để tìm ra câu trả lời, nhưng tự mình suy tư không có nghĩa là muốn nghĩ sao cũng được, nhưng phải dựa trên nền tảng hay cơ sở nào đó. Một vài triết thuyết đạo đức học sau đây sẽ giúp định hướng vấn đề.

2. Phá thai dưới cái nhìn Đạo đức học

2.1. Theo thuyết Nữ quyền

Chủ nghĩa Nữ quyền, chủ nghĩa Nữ giới hay chủ nghĩa duy Nữ là một tập hợp của các phong trào và ý thức hệ nhằm mục đích xác định, xây dựng và bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và sự bình đẳng cho phụ nữ. Một trong các quyền lợi và sự bình đẳng ấy có cả vấn đề liên quan đến quyền tự do kết hôn, bình đẳng trong gia đình, thúc đẩy sự toàn vẹn thân thể, quyền tự chủ, và quyền sinh sản cho phụ nữ.

Những người theo thuyết Nữ quyền có một khẩu hiệu đơn giản: “Cơ thể tôi là của tôi” nhằm khẳng định quyền tự quyết của họ. Nói cách khác, phụ nữ có quyền phá thai, vì thai nhi nằm ở trong bụng họ[3]. Quyền được phá thai là nền tảng cho sự tiến bộ của người phụ nữ. Đó là một trong những quyền chính yếu để phụ nữ có được sự bình đẳng với nam giới. Việc có thai ngoài ý muốn cũng giống như việc bạn gặp một người ăn xin ngoài đường, bạn không có trách nhiệm đạo đức phải giúp họ vì bạn không chủ động tìm đến họ. Vì thế, người phụ nữ cũng không có trách nhiệm đạo đức với việc mang thai nhi – cái thai mà mình không hề mong muốn. Đối với những người theo thuyết này, bất cứ thai phụ nào cũng đều có quyền tự do để chọn lựa. Họ cho rằng sẽ thật là bất công khi giới hạn sự tự do chọn lựa của người phụ nữ bằng việc cấm họ phá thai. Hơn nữa, những người chủ trương thuyết nam nữ bình quyền đều biết rằng sự sống con người bắt đầu trước khi sinh, nhưng ho dù đứa trẻ chưa chào đời có được coi là con người đi nữa, thì chúng vẫn có ít quyền hơn là người phụ nữ. Do đó, người phụ nữ vẫn có quyền phá thai.

Hơn thế nữa, một đứa trẻ tồn tại trên đời chẳng có ý nghĩa gì khi mẹ ruột của nó không muốn nó tồn tại. Cơ thể là của người phụ nữ, sinh hay không sinh là quyết định của họ và chỉ họ mới có quyền cho đứa trẻ được chào đời hay không, chứ không phải chồng hay bố mẹ của cô ta. Chính quyền càng không có quyền can thiệp và không có ai có thể tự cho mình cái quyền đại diện cho thuần phong mỹ tục mà lên án vấn đề riêng tư và nhạy cảm này. Quả thế, trong xã hội có những trẻ sơ sinh bị vứt trong thùng rác, bị bỏ quên ở bệnh viện; có những gia đình, bà phải làm mẹ; có những đứa trẻ không có cơm ăn, không có áo mặc, không được đến trường, những đứa trẻ này lớn lên sẽ trở thành ai? thành chủ nhân tương lai của đất nước hay sao? Đất nước được lợi gì khi có những công dân như thế? Vì thế, đứa trẻ ấy có thể bị phá chứ đâu nhất thiết phải sống, vì nó sống cũng không được tôn trọng và không có vị trí nào trong xã hội. Mỗi một đứa trẻ đều là một đứa trẻ được mong muốn, nhưng sẽ là bất công cho các trẻ em nếu đem các em vào một thế giới mà không có ai mong muốn các em tồn tại. Tuy nhiên có một sự khác biệt giữa việc mang thai ngoài ý muốn và một đứa trẻ “không được mong muốn” sinh ra đời. Chuyện không được mong muốn chính là thái độ về phía người lớn. Vì thế, phải nói: điều bất công nhất đối với một đứa trẻ “không được mong muốn” chính là việc giết chết em bằng cách phá thai, không cho em được làm người. Việc có thêm nhiều những đứa trẻ không được mong muốn sinh ra trên đời này chỉ dẫn đến kết quả là các em sẽ bị lạm dụng và ngược đãi mà thôi. Do đó, chuyện phá thai được chấp nhận.

Tuy nhiên, thuyết Nữ quyền lại bộc lộ nhiều lỗ hổng. Bởi lẽ, trong thực tế, hầu hết những trẻ em bị ngược đãi đều đã từng được cha mẹ mong muốn cho các em được chào đời. Việc lạm dụng và ngược đãi trẻ em trong xã hội đã không giảm đi kể từ khi việc phá thai được hợp pháp hóa, mà trái lại nó càng gia tăng thêm một cách kinh khủng. Vậy thuyết Nữ quyền đúng chăng khi quá đề cao quyền tự quyết của người phụ nữ và áp đặt vị trí cũng như giá trị của đứa trẻ trong xã hội phải được nhìn nhận, để làm cái cớ bảo vệ cho việc phá thai.

Việc cho rằng phá thai làm giảm đau khổ của phụ nữ và tăng hạnh phúc gia đình họ cũng chỉ là phỏng đoán. Không ai biết chắc rằng sau khi phá thai người phụ nữ không bị ám ảnh vì vừa bỏ “một đứa con tiềm năng” của họ. Không ai chắc rằng sự kiện này không ảnh hưởng đến quan hệ vợ chồng và các mối tương quan khác trong gia đình. Điều quan trọng hơn, việc nạo thai có thể gây hại sức khỏe cho người phụ nữ, nếu nghiêm trọng dẫn đến vô sinh trong tương lai. Chính vì vậy, không biết chắc việc phá thai có thể mang lại hạnh phúc nhiều hơn việc giữ lại thai hay không?

Việc lấy lý do “cơ thể tôi là của tôi” hãy để người phụ nữ được tự do phá thai cũng bị thách thức. Xét về quan hệ quyền lực giữa người phụ nữ và phôi thai là không công bằng. Việc một người trưởng thành, có đầy đủ ý chí và có quyền lựa chọn quyết định loại bỏ cuộc sống của một phôi thai có thể có mong muốn sống, gây ra một phản ứng trái chiều. Do đó, nếu cho rằng phá thai là phá bào thai trong bụng tôi, chứ không phải của người khác, nên không phải là giết người thì hành vi đó khác chi khi bảo rằng thụt két ngân khố quốc gia, không phải của riêng ai, nên không phải là ăn cắp, và cũng tương tự, chuyện ăn ngủ với người khác không phải vợ hay chồng mình, nhưng chỉ vì người đó rất yêu mình, nên không phải là ngoại tình, thì thật sai lầm đến nguy hiểm. Do đó, xét trên phương diện thực chất của hành động, phá thai chắc chắn đủ yếu tố cấu tạo thành một hành động giết người thực sự.

Phá thai không bao giờ là một sự lựa chọn cá nhân, bởi lẽ luôn có ít nhất hai người liên can với phôi thai: hai người đã truyền đi sự sống và quyết định, một mình hoặc với nhau để trục xuất sự sống đó. Khi phủ nhận quyết định thai nhi còn nhỏ, nên không có chiều kích xã hội, thì cũng tương đương với việc phủ nhận con người không hề có xã hội tính. Khi tính dục và việc phủ nhận rằng con người không chịu trách nhiệm về việc sử dụng nó trở thành một chọn lựa cá nhân, thì khi ấy, toàn bộ đời sống tính dục sẽ bị bóp méo và giảm giá trị. Ai sẵn sàng loại bỏ sự sống con người như loại bỏ một thứ hàng hóa, thì họ cũng coi tất cả đời sống con người chỉ là một thứ hàng hóa không hơn không kém.

Như đã nói trên, quyền được phá thai là nền tảng cho sự tiến bộ của người phụ nữ và là một trong những quyền chính yếu để họ có được sự bình đẳng với nam giới. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những người ủng hộ thuyết nam nữ bình quyền một cách chân chính lại chính là những người bảo vệ sự sống đích thực. Họ rất tích cực, mạnh mẽ và gay gắt chống lại việc phá thai. Mà quyền của người phụ nữ thì không bao giờ được liên kết với quyền phá thai cả. Chính những lý lẽ căn bản của phong trào ủng hộ quyền phá thai thực ra đang làm giảm đi phẩm giá của người phụ nữ. Người ta đang cố đưa ra rất nhiều giải pháp nhằm liên kết các phúc lợi của người phụ nữ với việc phá thai, như viên thuốc ngừa thai và việc tự do tình dục, nhưng kết quả, họ đã sai lầm. Một số đường lối, sách lược của phe ủng hộ quyền phá thai đã thừa nhận sự bất lực đáng thương của người phụ nữ, và biến họ trở nên đối tượng của sự ngu dốt và bóc lột. Mỗi người phụ nữ có quyền kiểm soát chính thân thể của họ, nhưng trên thực tế, việc phá thai đã quả quyết rằng, hàng chục triệu người phụ nữ trên toàn thế giới không hề có chút quyền kiểm soát nào trên chính thân thể của họ. Ngược lại, sẽ là một điều làm tổn thương phẩm giá và lòng tự trọng của người phụ nữ nếu xem chuyện mang thai như là một điều gì đó bất bình thường, tiêu cực hay nằm ngoài vòng kiểm soát trên chính thân thể của họ. Lý do phá thai để tránh rơi vào sự nghèo khổ chỉ là một cách lập luận giả trá, mang tính nguỵ biện. Nó ngăn cản người phụ nữ và cả xã hội không cần nỗ lực để đạt tới những giải pháp tích cực khác, thay vì lựa chọn phá thai.

Tất cả những lý luận trên làm cho thuyết Nữ quyền trở nên yếu thế, luôn phải xem xét và lượng giá lại một cách nghiêm túc, thận trọng.

2.2. Theo thuyết Vị kỷ (Ethics of Egoism)

Theo đạo đức học Vị kỷ, mỗi người đều có quyền hành động để đạt tới hạnh phúc của riêng mình. Những người theo thuyết Vị kỷ phát biểu rằng, các tác nhân luân lý phải làm những gì nằm trong quyền lợi riêng của chính họ. Về cơ bản, nó là điều kiện cần và đủ cho một hành động đúng về mặt luân lý, cái đúng ấy có thể tối đa hóa lợi ích riêng của ai đó. Điều này có nghĩa là ta chỉ làm theo luân lý và hành động nào đó vì lợi ích của chính mình thì những hành động ấy là đúng. Lý thuyết này về cơ bản ủng hộ quan điểm phá thai là đúng, vì nó đem lại lợi ích riêng cho thai phụ. Đồng thời, các bác sĩ – người tiến hành phá thai sẽ có một khoản thu nào đó, sau khi đã thực hiện thành công việc loại bỏ thai nhi ra khỏi tử cung của người phụ nữ.

Mọi cá nhân đều có quyền hoàn toàn làm chủ cơ thể mình, bao gồm cả hệ thống sinh sản, miễn là không phương hại tới quyền làm chủ cơ thể của người khác. Họ cho rằng cái thai chưa sinh không thể được coi là một con người thật sự và rằng cơ thể của ai thì người đó có toàn quyền. Họ có quyền giữ hay bỏ cái thai, nhất là những người mang thai không mong muốn như hiếp dâm, vỡ kế hoạch, hay do điều kiện kinh tế eo hẹp. Dưới lăng kính của Vị kỷ, việc phá thai là một điều hợp lý vì sẽ dẫn đến hạnh phúc cá nhân và không ảnh hưởng gì đến lợi ích chung của tập thể. Do đó, nếu ai ngăn cản việc phá thai thì vi phạm nghiêm trọng đến quyền cá nhân. Cũng theo thuyết này, người phụ nữ đang chu toàn bổn phận của họ là làm thăng tiến tư lợi một cách trực tiếp. Phá thai vì thế là một dạng lợi ích cá nhân dài hạn đối với người phá thai.

Hành vi phá thai lại đi ngược với Đạo đức học “Luật tự nhiên” (Ethics of Natural Law). Luật tự nhiên ở đây được hiểu như là khuynh hướng phát triển hay những gì tự nó là tốt và đúng cho bản chất của một hữu thể. Bản chất của luật tự nhiên của con người là tận dụng lý trí để đạt đến các mục tiêu mà con người tin rằng sẽ mang lại hạnh phúc[4]. Như vậy việc hiểu hành vi phá thai đi ngược với luật Đạo đức tự nhiên chính là do việc lấy khái niệm tự nhiên chồng lên khái niệm Đạo đức tự nhiên, thực ra Đạo đức tự nhiên không quy định hành vi con người nhưng hướng con người đến những vai trò và hành vi dẫn đến hạnh phúc con người.

Liệu một người chỉ chú ý đến lợi ích của bản thân mà tước đoạt đi sự sống của người khác, trong khi người đó không có khả năng tự bảo vệ mình, thì có phải là một hành động đáng để ủng hộ. Thuyết Vị kỷ sai lầm và sinh ra nhiều bất cập trong cách giải quyết vấn đề.

2.3. Theo thuyết Vị lợi (Ethics of Utilitarianism)

Bản chất cốt lõi nhất của thuyết Vị lợi là làm tăng khoái lạc và giảm khổ đau. Triết lý ấy tham vọng biến cuộc đời của nhiều người bớt khổ đau hết mức có thể, để đạt được hạnh phúc. Chúng còn tập trung vào kết quả khoái lạc thay vì chú trọng vào điều tốt thực sự. Nếu kết quả của một hành động giúp tăng khoái lạc và giảm khổ đau thì hành động đó được coi là tốt. Chủ nghĩa Vị lợi trốn tránh khổ đau, nhưng không phải mọi khổ đau đều là xấu, mà nó vẫn có thể dẫn đến điều tốt. Lịch sử nhân loại chứng kiến rất nhiều con người học hỏi từ những sai lầm của mình mà có được thành công. Không ai cổ xúy việc tìm kiếm khổ đau, nhưng nếu nói rằng mọi nỗi đau đều là ác và phải tránh thì hơi thiếu sâu sắc. Không phải thử thách là vui, nhưng bởi thử thách sẽ dẫn dắt ta đến những giá trị cao hơn như sự kiên nhẫn và trung tín.

Thuyết Vị lợi, mỗi người phải có bổn phận và trách nhiệm lo cho chính mình về đời sống vật chất, tinh thần, sau đó mới lo cho người khác, bằng những cách thế khác nhau, tùy hoàn cảnh. Mục tiêu của thuyết Vị lợi là mang đến lợi ích tốt nhất cho nhiều người trong xã hội. Học thuyết nhằm định hình xã hội tốt hơn, xã hội tốt đó phải có mục tiêu giảm thiểu đến mức có thể các đau khổ trong nó và thúc đẩy hạnh phúc của tất cả, hay ít nhất là của đại đa số. Nếu thông qua một biện pháp hay một hành động mà càng thu được nhiều hạnh phúc so với số bất hạnh xảy ra thì biện pháp hay hành động đó càng vị lợi.  Hành vi là hành vi đem lại lợi ích tốt nhất, và một hành động là đúng là khi hành động đó gia tăng lợi ích, là sai khi gia tăng điều bất lợi. Nếu một hành động không gây hại cho tập thể, nhưng đem đến hạnh phúc cho người thực hiện hành động thì thuyết Vị lợi hoàn toàn ủng hộ. Tiền đề chung như vậy đối với đạo đức ở những người theo chủ nghĩa Vị lợi là nguyên tắc tối đa hóa hạnh phúc chung hay đơn giản là nhân gấp bội tổng số phúc lợi củamọi người. Theo Vị lợi, những kẻ đáng bị phán xét là những người không góp phần làm gia tăng hạnh phúc chung[5].

Trả lời cho câu hỏi có được phép phá thai hay không, thuyết Vị lợi lý luận: Phá thai không gây hại gì cho ai, có thể mang lại nhiều hạnh phúc hơn là bất hạnh cho thai phụ, cũng như giảm bớt gánh nặng cho xã hội. Vì để kiểm soát tình trạng gia tăng dân số tại một số quốc gia, nhà chức trách đưa ra dự luật và cho phép phá thai. Họ lập luận, phá thai sẽ đem lại lợi ích chung cho cả xã hội. Giả như chưa có chồng, người phụ nữ sinh con không những chịu vất vả về vật chất, mà còn bị đay nghiến bởi gia đình và xã hội, nhất là thai phụ đó sống trong các gia đình và cộng đồng bảo thủ, coi trọng lễ giáo, tập tục, truyền thống. Họ có thể rơi vào ngõ cụt bởi những thành kiến của những người xung quanh. Nếu giữ lại thai nhi, họ có thể gặp khó khăn về kinh tế, thậm chí có thể bị tước mất cơ hội thăng tiến trong cuộc sống. Rõ ràng, đau khổ của người phụ nữ là có thật, còn đau khổ của thai nhi chỉ ở dạng tiềm năng. Nếu mang ra cân đong đo đếm, Vị lợi thuyết nhìn nhận phá thai là một việc chính đáng và nên làm.

Tuy nhiên, thuyết Vị lợi nhanh chóng bị phản bác ở một vài điểm. Thoạt nghe, Vị lợi có vẻ hợp lý, nhưng do khá nhiều người chỉ biết sơ sơ về Vị lợi mà không hiểu tường tận những hậu quả tai hại mà nó mang lại cho xã hội, khi ý tưởng thuần túy của nó được thực thi triệt để. Chẳng hạn, nếu bạn là người tin vào ý tưởng cơ bản của Vị lợi, thì bạn sẽ phải sắm vai kẻ giết người nhiều lần trong đời để thỏa mãn niềm tin của mình. Cũng thế, người mang thai có trách nhiệm về hành động của mình lại được thêm một cơ hội để vui chơi, trong khi thai nhi không có trách nhiệm gì lại bị tước đoạt cách dã man cơ hội làm người duy nhất của mình.

Hơn nữa, hành vi của chúng ta có hậu quả trên những người chung quanh, tác động trên cách suy nghĩ người khác. Ví dụ một người phụ nữ có thai siêu âm biết cái thai bị hở hàm ếch, sứt môi là một tật chữa được, nhưng bà ta nhất định phá thai. Hành vi này sẽ tác động trên tập thể, làm cho người ta quen đi và chấp nhận việc phá thai, vì có một khuyết điểm nào đó, có con nhưng phải có con như mình muốn. Hơn nữa, chính phần vụ của xã hội là phải báo cho mọi người biết rằng ngoài mối nguy hại về luân lý và tâm lý, việc phá thai còn ảnh hưởng trên nhiều người, và nếu làm gián đoạn việc mang thai thì có thể có những biến chứng nghiêm trọng. Việc phá thai nhiều lần gây ra mức độ rủi ro sinh sớm cao hơn cũng như các biến chứng khác ở những lần sinh sau.

Tình huống cho rằng phá thai là để việc kiểm soát tỷ lệ gia tăng dân số đã bị phản bác gay gắt. Việc phá thai giúp giải quyết vấn nạn về tình trạng đông dân số và để nâng cao chất lượng cuộc sống. Riêng đối với nước Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới, tỉ lệ sinh đẻ hiện tại vẫn hãy còn rất thấp để cần thiết duy trì về mức độ gia tăng dân số. Ngược lại, sự giảm thiểu đáng kể trong tỉ lệ sinh đẻ lại sẽ có ảnh hưởng rất xấu đối với nền kinh tế của từng quốc gia ấy. Thật ra, tình trạng quá đông dân trong một nước là do những vấn nạn khác gây ra. Mà giả như có một vấn nạn liên quan đến dân số có ảnh hưởng tai hại đến chất lượng cuộc sống chúng ta, thì giải pháp đúng đắn không phải là giết chết đi một phần dân số của quốc gia đó. Khái niệm về chất lượng của cuộc sống chỉ là một cách ngụy tạo mà thôi. Người ta nguỵ biện, viện dẫn đến tiêu chuẩn này để phá huỷ chính sự sống.

Những người bảo vệ sự sống bác bỏ luận cứ này đồng thời viện dẫn nguyên tắc sự sống con người là linh thiêng và không ai được phép đánh đổi cho dù để lấy những thiện ích xã hội lớn hơn[6]. Hơn nữa, luật Nhà Nước không có tính quy phạm. Chúng ta nghĩ gì khi luật buộc phải giúp đỡ một người đang gặp một cảnh hết sức nguy khốn, luật cấm giết người, cho phép giúp người ta chết êm dịu, nhưng luật lại cho phép phá thai? Luật cho phép ly dị, phá thai nhưng lại trợ cấp gia đình đông con. Phải tự vấn về ý nghĩa lẫn hướng đi khách quan của việc làm. Ví dụ: một phụ nữ yêu cần được phá thai: ý nghĩa của yêu cầu phá thai là không muốn có con – hướng đi khách quan của việc phá thai: phạm tới sự sống không tôn trọng con người. Ví dụ: một cặp vợ chồng xin được áp dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Ý nghĩa: muốn có con như các cặp khác – hướng khách quan: khó khăn phải vượt qua, khả năng thành công không cao, số phôi dư. Phải chú ý tới ý định của người làm hành vi nhưng không chỉ ngưng lại ở đó. Một phụ nữ muốn có con trong khi chồng bị chứng vô sinh, bà ta xin được truyền tinh của một người khác. Ý tốt: có con, nhưng một việc như vậy có tính cách xây dựng cho đứa nhỏ sinh ra, cho xã hội không? Nhưng nếu chỉ dựa vào ý ngay lành, người ta dễ có nguy cơ rơi vào cá nhân chủ nghĩa và tỏ ra ngây thơ vì các ý muốn không luôn luôn ngay lành như chúng ta nghĩ, dễ có ảo tưởng. Phải quan tâm tới chiều kích cộng đồng của các hành vi của chúng ta.

Những người phản đối cho rằng phôi thai là “một con người tiềm năng”. Nếu được sinh ra, phôi có thể phát triển thành những con người bình thường đầy đủ ý chí, có thể tài giỏi như Beethoven hoặc Einstein. Hơn nữa, nếu lấy lý do là phôi thai chưa có ý thức về cái tôi của mình để loại bỏ thì cũng đồng nghĩa với việc giết trẻ sơ sinh. Theo nghiên cứu, trẻ em chỉ tự ý thức về bản thân mình, biết mình là ai khi lên đến tầm hai hoặc ba tuổi. Như vậy, nếu lý do này được dùng để biện minh cho việc phá thai thì cũng được dùng để biện minh cho việc giết trẻ sơ sinh dưới ba tuổi, như vậy là phạm tội giết người, cũng giống như giết người đã trưởng thành.

Phá thai để tránh cho đứa bé khỏi phải đau khổ trong tương lai. Trong trường hợp này, người ta được yêu cầu xem xét trường hợp một đứa bé sinh ra trong cảnh nghèo đói khổ sở. Nếu chắc chắn đứa bé sẽ phải chịu cảnh đói khát hoặc thiếu sự chăm sóc sức khỏe, thì về mặt luân lý, một số người đồng ý cho phép phá thai, nhưng thực tế không hẳn như vậy. Một số quốc gia đã thông qua những luật lệ rộng rãi về phá thai, nhằm giải phóng người phụ nữ. Hậu quả gia đình bị lung lay tận gốc và xã hội bị đe dọa. Ai cũng biết các nước Âu châu dân số ngày một giảm, với các tiến bộ y khoa người ta sống lâu hơn nên người già ngày càng nhiều mà người trẻ thì ít, để có nhân công phải cho người nước ngoài nhập cư, người ta có thể thấy được những vấn đề đặt ra.

2.4. Kant và sự tôn trọng sự sống con người

Dưới ảnh hưởng của Kant, quan niệm thế tục về phẩm giá con người hầu như được khoanh vùng trong các quan hệ nhân loại, nghĩa là nhân phẩm chỉ mang tính cách nhân bản thuần túy, hay nói cách khác, một nhân phẩm không còn được gắn bó với nền tảng thần quyền, nhưng tìm cách đạt tới sự độc lập tự trị và sự tự quyết của một cá thể không còn muốn khép mình trong các giới răn Thiên Chúa cũng như các giới luật tự nhiên, nhưng tự đặt ra cho chính mình các luật lệ nhằm công nhận và củng cố bản sắc cũng như sự toàn vẹn của chính mình.

Một quan niệm về nhân phẩm như vừa được đề cập tới – nếu người ta thực sự muốn đề cập một cách nghiêm túc ở đây tới nhân phẩm sẽ không chỉ loại bỏ các khái niệm thuần túy tín ngưỡng mà còn loại bỏ cả sự đòi hỏi về tính tuyệt đối và tính bất khả nhượng, về đạo đức tính đặc biệt và về trách nhiệm cực kỳ nghiêm trọng của phẩm giá con người. Nếu được hiểu như thế, thì nhân phẩm mới thực sự có một chỗ đứng trong khuôn khổ trật tự của luật pháp, hay nói cách khác, thì phẩm giá con người mới thực sự được bi