Những vấn đề rút ra từ thực tiễn kiểm sát giải quyết vụ án hành chính liên quan đến đất đai

Từ thực tiễn công tác kiểm sát giải quyết án hành chính liên quan đến đất đai, tác giả nêu những vấn đề Kiểm sát viên cần lưu ý khi xem xét thời hiệu khởi kiện, xác định tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án; về căn cứ, thẩm quyền, trình tự thu hồi đất; về bồi thường, tái định cư; về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Từ đó, đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát lĩnh vực này.

Những năm gần đây, ngành Kiểm sát nhân dân đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, đảm bảo đúng quy định, hạn chế số lượng án bị sửa, hủy có trách nhiệm của Viện kiểm sát.

Đặc biệt, xác định công tác đối thoại trong giải quyết án hành chính là một khâu quan trọng, là thủ tục bắt buộc nên Viện kiểm sát đã chú trọng, quan tâm. Do đó, ngay từ khi thụ lý vụ án, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát giải quyết vụ án đã phối hợp với Thẩm phán Tòa án nhân dân cùng cấp để nghiên cứu hồ sơ, theo sát tiến độ và quá trình giải quyết theo đúng thủ tục tố tụng. Quá trình đối thoại đã tạo ra được các điều kiện, môi trường bình đẳng giúp các đương sự hiểu nhau hơn, làm rõ những nguyên nhân gây ra nhận thức không đúng, cũng như những sai sót, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước. Từ đó, người bị kiện khắc phục sai sót, người khởi kiện rút yêu cầu khởi kiện; hoặc người khởi kiện nhận thấy việc khởi kiện của mình là không có căn cứ nên rút đơn yêu cầu. Cũng có trường hợp người khởi kiện đưa ra các tài liệu, chứng cứ chứng minh các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ nên người bị kiện đã sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định hành chính đó…

Những vấn đề cần lưu ý trong kiểm sát vụ án hành chính liên quan đến đất đai      

Qua công tác kiểm sát giải quyết án hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương, chúng tôi rút ra một số vấn đề lưu ý khi kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính liên quan đến quản lý nhà nước về đất đai như sau:

Về thủ tục tố tụng

Khi kiểm sát vụ án hành chính liên quan đến đất đai, Kiểm sát viên cần chú ý các vấn đề về tố tụng như sau:

Xem xét thời hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là quyết định hành chính, hành vi hành chính nên thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được thực hiện theo điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính (LTTHC) năm 2015. Trường hợp đương sự thực hiện quyền khiếu nại trước khi khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện được quy định tại khoản 3 Điều 116 LTTHC năm 2015. Việc xác định ngày khởi kiện vụ án hành chính được quy định tại Điều 120 LTTHC năm 2015.

Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án: Kiểm sát viên căn cứ Điều 31, 32 LTTHC năm 2015 để xác định vụ việc đó thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp nào. Việc xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện thì căn cứ theo Điều 33 Luật TTHC năm 2015.

Xác định tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án: Người khởi kiện phải là người có quyền khởi kiện theo Điều 115 LTTHC năm 2015, phải có đủ năng lực pháp luật tố tụng hành chính và năng lực hành vi tố tụng hành chính theo Điều 54 LTTHC năm 2015. Người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị kiện. Để biết Tòa án xác định tư cách người bị kiện có đúng hay không, Kiểm sát viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần được Tòa án đưa đầy đủ vào tham gia tố tụng, tránh trường hợp Tòa án không đưa hoặc đưa thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ dẫn đến cấp phúc thẩm phải hủy, sửa án.

– Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời: Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần xem xét Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có đúng quy định tại Chương V Luật TTHC năm 2015 hay không.

– Thu thập chứng cứ: Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên kiểm tra kỹ từng chứng cứ, xác định chứng cứ được thu thập từ những nguồn nào, có đúng quy định tại các điều 85, 86, 87, 88, 89, 90, 91, 92 LTTHC năm 2015 hay không.

Về nội dung vụ án

Đối với các vụ án khiếu kiện quyết định hành chính

Đối với vụ án hành chính về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, Kiểm sát viên cần nghiên cứu các nội dung:

Căn cứ thu hồi đất: Người sử dụng đất chỉ bị Nhà nước thu hồi khi có các căn cứ theo quy định của pháp luật như vì mục đích quốc phòng, an ninh, để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai và do chấm dứt việc sử dụng đất; tự nguyện trả lại đất; có nguy cơ đe dọa tính mạng con người (theo Luật đất đai năm 2013).

Về thẩm quyền thu hồi đất: Tại Điều 66 Luật đất đai năm 2013 quy định thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh và UBND cấp huyện.

Về trình tự, thủ tục thu hồi đất: Nhà nước thu hồi đất trong nhiều trường hợp, từng trường hợp thu hồi đất lại được thực hiện theo một trình tự, thủ tục tương ứng. Thực tiễn, nhà nước thu hồi đất chủ yếu nhằm mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, có trình tự, thủ tục quy định tại Điều 69 Luật đất đai năm 2013.

Về bồi thường: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm 02 nội dung là bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản, sản xuất, kinh doanh. Khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo điều kiện được bồi thường theo quy định của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn liên quan.

Về hỗ trợ, tái định cư: Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của các hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở và các hỗ trợ khác. Như vậy, khác với các hình thức hỗ trợ khác, hỗ trợ tái định cư chỉ được áp dụng trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở và người bị thu hồi phải di chuyển chỗ ở (về trình tự, thủ tục tái định cư được thực hiện theo các điều 85, 86, 87 Luật đất đai năm 2013).

Thực tế, có nhiều vụ án bị hủy, sửa do vi phạm quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Ví dụ: Vợ chồng ông Phạm Văn Đ kiện Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch UBND huyện T yêu cầu hủy các quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất.

Quyết định số 527/QĐ-UBND ngày 15/5/2014 về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và Quyết định thu hồi đất số 245/QĐ-UBND ngày 28/10/2015 của UBND huyện T không đúng trình tự, thủ tục. Cụ thể, trước khi thu hồi không ban hành thông báo thu hồi đất là vi phạm Điều 39 Luật đất đai năm 2003; các điều 29, 30, 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Điều 69 Luật đất đai năm 2013.

Đất bị thu hồi có nguồn gốc của cha mẹ ông Đ mua năm 1970. Cha mẹ ông Đ đã chia đất cho các con sử dụng, khi chết không để lại di chúc nên phần đất đã cho ai thì người đó tiếp tục sử dụng. Năm 2014, UBND huyện T thu hồi một phần diện tích đất thuộc thửa đất nêu trên, đồng thời tiến hành bồi thường, hỗ trợ cho từng người sử dụng đất theo loại đất đã xác định. Theo đó, diện tích đất bị thu hồi là di sản thừa kế của cha mẹ ông Đ để lại, đến thời điểm bị thu hồi vẫn chưa mở thừa kế để phân chia di sản. Việc UBND huyện T xác định những người đang trực tiếp sử dụng đất có đủ điều kiện nhận bồi thường, hỗ trợ về đất khi thu hồi là không có căn cứ, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế khác…

Bản án hành chính sơ thẩm số 09/2018/HC-ST ngày 22/10/2018 của Tòa án tỉnh P đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Đ, hủy các quyết định hành chính bị kiện.

Đối với các vụ án hành chính khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

Để xem xét yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện có căn cứ hay không, trước hết Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ: Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các tài liệu, chứng cứ về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất, người sử dụng đất, diện tích đất, mục đích sử dụng đất, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… để có cơ sở kiểm sát việc chấp nhận hay bác yêu cầu khởi kiện.

Đối với các vụ án hành chính khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai:

Kiểm sát viên cần xem xét tính hợp pháp và có căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định bị kiện. Thời hiệu, thời hạn, thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính bị kiện theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính; Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai… để có căn cứ kiểm sát việc chấp nhận hay bác yêu cầu khởi kiện.

Có nhiều vụ án bị hủy, sửa do Tòa án xác định sai chủ thể trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính bị kiện.

Ví dụ: Ông Nguyễn Quốc T kiện Chủ tịch UBND phường P, thành phố T yêu cầu hủy quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý trật tự xây dựng đô thị.

Năm 2013, bà Nguyễn Thị B và ông Trần Thanh S xây nhà diện tích 71,5m2 trên đất do nhà nước quản lý. Do ông S đi làm xa, bà B sinh con, nên nhờ ông Nguyễn Quốc T đứng ra trông coi việc xây dựng nhà.

Chủ tịch UBND phường P ban hành Quyết định số 46/QĐ-UBND ngày 14/5/2013 về việc đình chỉ thi công công trình vi phạm; Quyết định số 55/QĐ-UBND ngày 29/5/2013 về việc cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự đô thị; Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 21/3/2017 điều chỉnh thời gian hoàn thành việc cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm; Quyết định số 27A/QĐ-UBND ngày 21/3/2017 điều chỉnh diện tích cưỡng chế là 71,5m2. Theo các văn bản trên, xác định ông T là chủ đầu tư để ra quyết định đình chỉ thi công và cưỡng chế tháo dỡ công trình là không đúng đối tượng. Bởi lẽ, ông S, bà B mới là chủ đầu tư xây dựng nhà. Việc xử phạt không đúng thủ tục và sai thẩm quyền; vì thẩm quyền xử phạt trong trường hợp này, theo Nghị định số 23/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/2/2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng là của Chủ tịch UBND thành phố T, không phải của Chủ tịch UBND phường P.

Thời gian cưỡng chế ghi trong Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 01/3/2017 của Chủ tịch UBND phường P về điều chỉnh thời gian hoàn thành việc cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng đô thị của ông T đến trước ngày 31/3/2017 là không đúng quy định tại Điều 24 Nghị định số 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xây dựng về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị.

Bản án hành chính phúc thẩm số 11/2018/HC-PT ngày 29/11/2018 của Tòa án tỉnh P, tuyên sửa bản án sơ thẩm của Tòa án thành phố T; hủy các quyết định hành chính của Chủ tịch UBND phường P bị kiện ở trên, vì không có căn cứ pháp luật.

Đối với vụ án hành chính khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai: Khi xem xét quyết định giải quyết khiếu nại bị kiện, Kiểm sát viên cần lưu ý một số nội dung sau:

Thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai thuộc Chủ tịch UBND cấp nào? Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai có thực hiện đúng thủ tục giải quyết khiếu nại theo Luật khiếu nại năm 2011 và Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật khiếu nại… hay không? Người khiếu nại có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật hay không? Nội dung giải quyết khiếu nại có đúng quy định của pháp luật không?

Trên thực tế, việc giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai của cấp có thẩm quyền còn sai sót, không đúng quy định của Luật khiếu nại năm 2011.

Ví dụ: Ông Võ Văn B kiện Chủ tịch UBND thị trấn L, Chủ tịch UBND huyện Đ, yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại.

Ủy ban nhân dân thị trấn L ra Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 06/02/2015 về việc giải quyết khiếu nại lần đầu và UBND huyện Đ ra Quyết định số 1273/QĐ-UBND ngày 25/4/2015 về việc giải quyết khiếu nại lần hai đối với đơn khiếu nại của ông B. Trước khi ban hành 02 quyết định giải quyết khiếu nại trên, UBND thị trấn L và UBND huyện Đ không ra thông báo về việc thụ lý đơn khiếu nại, không ban hành quyết định giao nhiệm vụ xác minh, kế hoạch xác minh, không tiến hành làm việc với người bị khiếu nại. Riêng đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của UBND thị trấn L còn không tiến hành đối thoại giữa người khiếu nại với người bị khiếu nại.

Việc UBND thị trấn L và UBND huyện Đ ban hành quyết định giải quyết khiếu nại là không đúng theo Điều 17, 18 Luật khiếu nại năm 2011, bởi thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết khiếu nại thuộc cá nhân là Chủ tịch UBND thị trấn L, Chủ tịch UBND huyện Đ.

Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2019/HC-ST ngày 18/6/2019 của Tòa án tỉnh P tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện; hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 58/QĐ-UBND ngày 06/02/2015 của UBND thị trấn L và Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai số 1273/QĐ-UBND ngày 25/4/2015 của UBND huyện Đ.

Đối với các vụ án khiếu kiện hành vi hành chính

Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 3 Luật TTHC năm 2015). Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần tìm hiểu chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước đó, thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện hành vi hành chính bị kiện thuộc về ai, người bị kiện có thực hiện đúng quy định của pháp luật để từ chối làm nhiệm vụ hoặc không thực hiện đúng các trình tự, thủ tục để làm nhiệm vụ mà pháp luật buộc họ phải thực hiện hay không? Ngoài ra, thời hạn thực hiện hành vi hành chính cũng là cơ sở để xác định hành vi hành chính có đúng quy định pháp luật hay không.

Ví dụ: Vợ chồng ông Lê P, bà Trần Thị S kiện UBND thành phố T về hành vi không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Vợ chồng ông P nộp đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được UBND thành phố T tiếp nhận ngày 10/8/2008. Ngày 29/8/2008, UBND phường A xác nhận đất nhận chuyển nhượng năm 2004, không có tranh chấp, phù hợp quy hoạch. Ngày 25/11/2009, UBND phường họp Hội đồng đăng ký đất đai đã xác nhận diện tích đất của ông Lê P có đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 02/01/2014, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố T lập biên bản thẩm tra hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xác định diện tích đủ điều kiện cấp giấy là 161,8m2. Ngày 15/4/2016, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố T ban hành phiếu chuyển thông tin xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai đến Chi cục thuế thành phố T. Đến ngày 20/4/2016, Chi cục thuế thành phố T ban hành thông báo nộp tiền sử dụng đất và lệ phí trước bạ cho vợ chồng ông P. Ngày 31/5/2016, vợ chồng ông P thực hiện nghĩa vụ tài chính nộp vào Kho bạc nhà nước 108.408.000 đồng tiền sử dụng đất và 992.000 đồng tiền lệ phí trước bạ nhà đất. Như vậy, việc tiếp nhận giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND thành phố T đối với hồ sơ của vợ chồng ông P kéo dài từ năm 2008 đến năm 2016 mà chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vi phạm khoản 2 Điều 61 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.

Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2019/HC-ST ngày 23/5/2019 của Tòa án tỉnh P đã tuyên xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông P, bà S; tuyên bố hành vi không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông P, bà S của UBND thành phố T là trái pháp luật; buộc UBND thành phố T phải tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông P, bà S.

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai

Một là, tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Thường xuyên cử cán bộ, Kiểm sát viên tham gia các khóa học đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu, chú trọng công tác đào tạo tại chỗ như thông qua các thông báo rút kinh nghiệm; xây dựng chuyên đề; tổ chức cuộc thi “Xây dựng bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm giải quyết án hành chính để nâng cao kỹ năng, chất lượng bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa”. Tiếp tục tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, nâng cao trình độ và kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, Kiểm sát viên; phòng nghiệp vụ tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ, tổ chức rút kinh nghiệm, phân công Kiểm sát viên phụ trách địa bàn phải thường xuyên theo dõi để nắm bắt tình hình thực hiện của Viện kiểm sát cấp huyện, hạn chế án sơ thẩm bị hủy do vi phạm pháp luật phải xét xử lại nhưng Viện kiểm sát không phát hiện để kháng nghị. Bên cạnh đó, cũng cần tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và Thường trực tỉnh ủy, các cơ quan tư pháp, các ban, ngành liên quan.

Hai là, cán bộ, Kiểm sát viên là người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết án hành chính, do đó phải thường xuyên tự học tập, nghiên cứu nắm vững các văn bản pháp luật, cũng như những kinh nghiệm đúc rút từ hoạt động thực tiễn, phát huy vai trò, trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao; nâng cao kỹ năng trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai bởi đây là loại án khó, phức tạp. Vì vậy, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, nội dung tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự giao nộp, cung cấp, cần xác định rõ điều kiện khởi kiện, yêu cầu của ngư­ời khởi kiện, ngư­ời bị kiện để xác định đưa ai vào tham gia tố tụng với t­ư cách là ngư­ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngoài ra, Kiểm sát viên cũng cần xem xét thời hiệu khởi kiện; thẩm quyền giải quyết; kiểm tra việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án xem đã đầy đủ và đảm bảo về thủ tục tố tụng ch­ưa; kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án và kết quả đối thoại; tiếp cận công khai chứng cứ… trên cơ sở quy định của pháp luật, đề xuất giải quyết vụ án đảm bảo chính xác; kiểm sát chặt chẽ tại phiên tòa, kiểm sát bản án, quyết định, nếu phát hiện vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, nội dung vụ án thì báo cáo lãnh đạo Viện kháng nghị kịp thời. Trong trường hợp xét thấy cần thiết bổ sung chứng cứ, thì có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu để bảo đảm cho việc kháng nghị theo khoản 6 Điều 84 Luật TTHC năm 2015.

Ba là, cần thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp công tác giữa Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm sát cấp dưới, tăng cường việc thông tin về các trường hợp cần kháng nghị, trường hợp vụ việc phức tạp có nhiều ý kiến khác nhau. Chú ý gửi bản án, quyết định sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên đúng thời hạn, phải kèm phiếu kiểm sát để thời hạn kháng nghị trên cấp còn trong thời hạn luật định nếu phát hiện bản án, quyết định có vi phạm; chủ động và linh hoạt trong mối quan hệ phối hợp công tác giữa Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân theo quy định của LTTHC năm 2015.

Bốn là, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai, bảo đảm việc ban hành các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai đúng quy định của pháp luật; UBND cấp tỉnh tiếp tục có chỉ đạo đối với các cơ quan hành chính (người bị kiện) thực hiện nghiêm túc việc gửi văn bản trình bày ý kiến, cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Đồng thời, tích cực, chủ động tham gia đối thoại, tham gia phiên tòa để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của LTTHC năm 2015. Xác định đối thoại là giải pháp quan trọng nhằm giải quyết dứt điểm bức xúc, khiếu kiện của tổ chức, cá nhân. Ủy ban nhân dân các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp trong suốt quá trình giải quyết vụ án để đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết án liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai./.

Lê Minh Chánh