NHỮNG RẮC RỐI TRONG VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT CON CHUNG KHI LY HÔN
Hôn nhân là sự tự nguyện, tiến bộ, bình đẳng trong mối quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Tuy nhiên, qua thời gian không phải tất cả các mâu thuẫn trong hôn nhân đều có thể giải quyết được một cách suôn sẻ, dẫn đến một trong số các cặp đôi quyết định tiến hành thủ tục ly hôn. Kết quả này tất yếu kéo theo nhiều hậu quả pháp lý mà họ phải đối mặt và thường thấy nhất chính là việc giải quyết vấn đề con chung khi ly hôn. Do đó, bài viết này sẽ phân tích những rắc rối gặp phải khi giải quyết vấn đề con chung khi ly hôn.
-
Con chung là gì và căn cứ vào đâu để xác định con chung?
Việc cha mẹ ly hôn chỉ làm chấm dứt quan hệ hôn nhân mà không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ liên quan đến con. Do đó, sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có các quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Vậy, riêng đối với con chung đã thành niên và có khả năng lao động không thuộc trường hợp cần phải giải quyết khi tiến hành ly hôn.
Theo khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình đã xác định rõ các trường hợp cụ thể về con chung: Là con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân; Hoặc là con sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được xem là con chung do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân; Hoặc trường hợp nếu con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn mà vẫn được cha mẹ thừa nhận chính là con chung của vợ chồng. Có thể thấy, con chung của vợ chồng là con mà vợ chồng được xác định là cha, mẹ của người đó, bao gồm cả con đẻ và con nuôi.
-
Quyền nuôi con sau khi ly hôn?
Việc xác định quyền nuôi con giữa cha và mẹ được thực hiện theo quy định pháp luật với trình tự, thủ tục chặt chẽ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho con về mọi mặt sau này.
-
Nếu cha mẹ thuận tình ly hôn, đã thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con thì thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên.
-
Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền và lợi ích của con dựa vào điều kiện tài chính, thu nhập,tài sản của hai bên vợ chồng – có đủ khả năng để chăm sóc, tạo điều kiện giáo dục tốt nhất cho trẻ hay không; điều kiện, công việc của hai bên vợ, chồng có phù hợp, thuận lợi, không làm xáo trộn việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và phát triển của con hay không; đặc biệt là yếu tố đạo đức của người trực tiếp nuôi con;… Đồng thời, quyết định này còn phụ thuộc đến nguyện vọng của con (khi con từ đủ 07 tuổi trở lên) mà không bị tác động bởi cha hoặc mẹ. Hay khi con chưa đủ 36 tháng tuổi sẽ được ưu tiên giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng nếu xét thấy mẹ có đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
-
Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ là gì nếu trực tiếp nuôi con hoặc không trực tiếp nuôi con?
Nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc con cái không chỉ là trách nhiệm cao cả, thiêng liêng mà còn là quyền, nghĩa vụ của cả cha và mẹ, nên không vì vậy mà sau khi cha mẹ ly hôn các nhóm quyền và nghĩa vụ này của họ sẽ bị mất đi. Theo khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình, cha (hoặc mẹ) dù không trực tiếp nuôi con thì vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không có bất kỳ ai được cản trở họ. Tuy nhiên, vì đã ly hôn, nên cha (hoặc mẹ) cùng các thành viên khác trong gia đình không trực tiếp nuôi con cần phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con.
Như đã nhắc đến, trách nhiệm chăm sóc con cái đều thuộc về cả cha và mẹ. Vì vậy, đối với vấn đề trợ cấp chi phí nuôi dưỡng cho con được đặt ra không phải để áp dụng riêng cho một bên nào. Bởi, nếu chỉ một bên gánh vác sẽ là vô cùng khó khăn cho họ về thời gian, công sức lẫn chi phí. Thế nên, cha (hoặc mẹ) không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đã đủ 18 tuổi nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Mức cấp dưỡng có thể do hai bên tự thỏa thuận hoặc do Tòa án quyết định dựa trên thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.
-
Sau khi ly hôn, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được quy định như thế nào?
Trên thực tế, nhiều trường hợp cha (hoặc mẹ) đang là người trực tiếp nuôi con nhưng sau đó cuộc sống của con không được đảm bảo hay vì lý do nào đó mà lại muốn thay đổi người trực tiếp nuôi con. Khi đó, để đảm bảo quyền và lợi ích của con, ngoài cha và mẹ thì các cá nhân, tổ chức là Người thân thích; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ đều có thể đứng ra yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Việc căn cứ để Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con còn phụ thuộc theo khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình. Thứ nhất, cha mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người nhằm mục đích tạo ra môi trường thật sự tốt hơn cho con không, hay chỉ đang vì có mục đích khác nên muốn tranh giành quyền nuôi con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải cần xem xét nguyện vọng của con khi con từ đủ 07 tuổi trở lên. Thứ hai, người trực tiếp nuôi con liệu rằng còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Tuy nhiên, chỉ khi xét thấy thật cần thiết, Toà mới chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con vì điều đó sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống về tâm lý lẫn tính cách của trẻ.