NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH –

NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

Ngày 25-11-2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã thông qua Luật tố tụng hành chính mới (Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 – sau đây gọi tắt là Luật TTHC 2015). Đây là một trong những đạo luật quan trọng về tố tụng được Quốc hội thông qua theo tinh thần Hiến pháp mới, là đạo luật trực tiếp liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc nắm bắt những quy định của các luật này, đặc biệt là những điểm mới của Luật tố tụng hành chính mới là hết sức cần thiết đối với cán bộ, công chức, viên chức Toà án nhân dân.

Page Content

Thực hiện kế hoạch triển khai thi hành các luật mới được Quốc hội thông qua năm 2015, Toà án nhân dân tối cao tổ chức tập huấn về những nội dung mới của các luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, trong đó có Luật TTHC 2015. Bài giới thiệu những điểm mới của Luật TTHC 2015 gồm những nội dung chính sau đây:

  1. Mục đích, yêu cầu, quan điểm chỉ đạo xây dựng luật;

  2. Những nội dung sửa đổi, bổ sung trong Luật và lý do của việc sửa đổi, bổ sung;

  3. Nội dung Nghị quyết thi hành luật và những vấn đề cần lưu ý.

   PHẦN 1: MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DƯNG LUẬT TTHC 2015

I. Mục đích, yêu cầu ban hành Luật TTHC 2015

Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế và đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO); đồng thời, để thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 24-11-2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật tố tụng hành chính (Luật tố tụng hành chính số 64/2010/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011- Sau đây gọi tắt là Luật TTHC 2010). Theo quy định của Luật TTHC 2010 thì thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án nhân dân được mở rộng; trình tự, thủ tục giải quyết cũng có những sửa đổi, bổ sung quan trọng tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và toàn diện hơn để Toà án nhân dân giải quyết các khiếu kiện hành chính có hiệu quả, góp phần bảo vệ tốt hơn các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; bảo vệ lợi ích của Nhà nước; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và phù hợp với những cam kết quốc tế của Việt Nam.

Tuy nhiên, qua thực tiễn hơn 3 năm thi hành Luật TTHC 2010 cho thấy, mặc dù số lượng các vụ án hành chính ngày càng gia tăng nhưng chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hành chính chưa thực sự bảo đảm; số lượng các bản án, quyết định về vụ án hành chính bị huỷ, sửa chưa giảm mạnh; thời hạn giải quyết, xét xử các vụ án hành chính theo quy định của Luật trong một số trường hợp vẫn còn bị vi phạm; có những khiếu kiện hành chính đơn giản, chứng cứ rõ ràng, nhưng việc giải quyết, xét xử phải qua đầy đủ các giai đoạn tố tụng nên tốn kém thời gian, chi phí của người dân và Toà án; việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính chưa thực sự hiệu quả, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, mặc dù đã có phán quyết của Toà án về việc buộc người bị kiện phải sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế quyết định hành chính, dừng, khắc phục hành vi hành chính bị khởi kiện.

Tình hình trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là một số quy định của Luật đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, gây khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết, xét xử vụ án kể từ khi thụ lý cho đến khi thi hành bản án, quyết định của Toà án. Có thể khái quát như sau:

– Về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng hành chính chưa được cụ thể hóa trong Luật TTHC 2010 nên nội hàm của “tranh tụng” chưa được làm rõ; quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tranh tụng còn chưa đầy đủ; phạm vi tranh tụng, trách nhiệm của Tòa án, Thẩm phán và Hội thẩm trong việc bảo đảm quyền tranh tụng chưa được quy định cụ thể hoặc còn bất cập, đặc biệt là trong việc thu thập, cung cấp và tiếp cận chứng cứ. Trên thực tế, khái niệm “tranh tụng” mới chỉ được hiểu là việc tranh luận tại phiên tòa và chỉ mang tính thực chất trong những vụ án có Luật sư tham gia hoặc trong những vụ án mà đương sự có trình độ hiểu biết pháp luật nhất định; đồng thời, bên bị kiện cử người có đủ thẩm quyền, nắm rõ sự việc liên quan đến khiếu kiện tham gia phiên tòa. Những vụ án mà người khởi kiện có điều kiện kinh tế khó khăn, không thuê Luật sư bảo vệ quyền, lợi hợp pháp cho mình hoặc những vụ án mà bên bị kiện ủy quyền cho người không phải là người quản lý, điều hành lĩnh vực liên quan đến khiếu kiện, ủy quyền cho Luật sư tham gia tố tụng thì việc tranh tụng tại phiên tòa chưa bảo đảm; chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp đã đề ra.

– Về thẩm quyền xét xử của từng cấp Tòa án chưa thực sự hợp lý như Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và đa số là khiếu kiện trong lĩnh vực quản lý đất đai, đây là loại việc khó, phức tạp nên chất lượng giải quyết các khiếu kiện này của Toà án nhân dân cấp huyện còn hạn chế, số vụ án bị huỷ, sửa vẫn còn cao.

– Trong giai đoạn thụ lý vụ án, do quy định về nội dung, đặc điểm của quyết định hành chính chưa rõ ràng dẫn đến việc đánh giá, nhận diện quyết định hành chính có thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính hay không còn có những cách hiểu và vận dụng khác nhau dẫn đến việc thụ lý trong nhiều trường hợp không đúng quy định của pháp luật.

– Về quyền và nghĩa vụ người tham gia tố tụng chưa đầy đủ, chặt chẽ, như về uỷ quyền trong tố tụng hành chính chưa bảo đảm hiệu quả dẫn đến nhiều trường hợp người bị kiện uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng nhưng người được uỷ quyền không được quyền quyết định đối với đối tượng bị khởi kiện dẫn đến việc phải hoãn phiên toà; chưa có quy định về quyền tiếp cận, trao đổi chứng cứ giữa các bên nên chưa bảo đảm cho việc thực hiện tranh tụng.

– Việc giải quyết khiếu nại về việc Toà án trả lại đơn khởi kiện không thông qua phiên họp có sự tham gia của đương sự khiếu nại nên nhiều trường hợp khiếu nại kéo dài.

– Về đối thoại, chưa có quy định việc ai có quyền yêu cầu đối thoại, trình tự, thủ tục và phương thức đối thoại; thành phần tham gia phiên đối thoại; xử lý kết quả đối thoại; do đó, việc đối thoại chưa được áp dụng một cách có hiệu quả trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ án hành chính; chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra khi quy định cơ chế này trong Luật TTHC 2010.

– Chưa có cơ chế công khai chứng cứ nên chưa bảo đảm cho việc thực hiện tranh tụng trong tố tụng hành chính.

– Về chế định giám đốc thẩm, quy định chưa rõ ràng về quyền của đương sự trong việc đề nghị xem xét, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà vẫn coi là quyền khiếu nại của đương sự đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên Toà án phải thụ lý, giải quyết đơn, trong khi đó việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đã được bảo đảm, gây quá tải cho Toà án trong việc xem xét, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm

Luật TTHC 2010 không cho phép Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nên nhiều trường hợp việc giải quyết vụ án bị quay vòng nhiều lần, gây tốn kém về chi phí và thời gian của đương sự cũng như của Nhà nước; nhiều trường hợp việc giải quyết vụ án không có điểm dừng, xử đi xử lại nhiều lần, trong khi đó đòi hỏi việc giải quyết các khiếu kiện hành chính phải nhanh chóng, kịp thời nhằm ổn định quan hệ xã hội, quan hệ quản lý hành chính nhà nước để triển khai các chính sách, dự án của Nhà nước và địa phương.

– Về thi hành án hành chính, chưa đề cao vai trò của Toà án trong thi hành án hành chính và việc giao cho cơ quan thi hành án dân sự đôn đốc trong thi hành án hành chính chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến nhiều bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính không được thi hành hoặc thi hành không đúng thời hạn.

Ngày 28-11-2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Theo quy định của Hiến pháp 2013, nhiều nội dung quan trọng về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cũng đã được bổ sung, sửa đổi; cụ thể là: (1) Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; (2) Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm; (3) Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín; (4) Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; (5) Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; (6) Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm; (7) Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm;  (8) Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (9) Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; (10) Tòa án nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.

Trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp và quy định của Hiến pháp 2013, theo sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Ngày 24-11-2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi), theo đó nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân; về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của từng cấp Tòa án; về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm đã có những thay đổi căn bản. Theo quy định của Luật này, Toà án nhân dân được tổ chức thành 4 cấp bao gồm: Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; giám đốc việc xét xử của các Toà án khác, tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Toà án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ: sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật; phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật; kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị và giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật; Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ: sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật và giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

Để bảo đảm công lý và thực hiện quyền tư pháp, Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định: Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Cũng theo quy định của Luật này thì trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án.

Các quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) nêu trên là những nội dung quan trọng cần được cụ thể hóa trong các luật tố tụng nói chung và Luật tố tụng hành chính nói riêng; đồng thời, cần sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật tố tụng hành chính hiện hành nhằm tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong công tác giải quyết, xét xử các khiếu kiện hành chính, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

Với những lý do trên, việc ban hành Luật TTHC 2015 là hết sức cần thiết.

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC SOẠN THẢO DỰ ÁN LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH (SỬA ĐỔI)

Việc soạn thảo dự án Luật tố tụng hành chính (sửa đổi) quán triệt những quan điểm chỉ đạo và yêu cầu sau đây:

1. Tiếp tục thể chế hoá các chủ trương, đường lối, quan điểm về cải cách tư pháp đã được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; cụ thể là: “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án”.

2. Việc xây dựng dự án Luật tố tụng hành chính (sửa đổi) phải bảo đảm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm tranh tụng trong xét xử để Tòa án nhân dân thực sự là chỗ dựa của nhân dân về công lý, góp phần tích cực vào việc bảo vệ và khôi phục những quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm.

3. Bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng hành chính có tính khả thi, dân chủ, công khai, công bằng, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng hành chính.

4. Việc xây dựng dự án Luật tố tụng hành chính (sửa đổi) phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành các quy định của Luật TTHC 2010 nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập, kế thừa những quy định còn phù hợp; đồng thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về tố tụng hành chính.

5. Bảo đảm các bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành.

6. Bảo đảm các quy định của Luật tố tụng hành chính không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

PHẦN 2: NHỮNG NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG  VÀ LÝ DO CỦA VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG LUẬT

Luật TTHC 2015 gồm có 23 chương, 372 điều, trong đó sửa đổi, bổ sung 198 điều, giữ nguyên 63 điều của Luật TTHC 2010 và bổ sung 111 điều mới. Sau đây là một số điểm sửa đổi, bổ sung và mới của Luật TTHC 2015.

I. NHỮNG QUY ĐỊNH SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

1. Về một số khái niệm trong tố tụng hành chính

Ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số khái niệm của Luật TTHC 2010 như: quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định việc giải thích một số khái niệm như “quyết định hành chính bị kiện”, “hành vi hành chính bị kiện”, “vụ án phức tạp”, “trở ngại khách quan”, sự kiện bất khả kháng. Các khái niệm cụ thể được quy định tại Điều 3 của Luật.

Ở đây, cần lưu ý để xác định thế nào là “quyết định hành chính” thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính phải căn cứ vào cả quy định tại khoản 1 và quy định tại khoản 2 Điều 3, có nghĩa là: Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính phải là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Về “hành vi hành chính” thuộc đối tượng khởi kiện thì phải căn cứ vào quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 của Luật TTHC 2015, cụ thể: hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

2. Về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

Luật TTHC 2015 bổ sung các quy định để cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, như:

– Quy định nguyên tắc về bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 18), so với Luật TTHC 2010, Luật TTHC 2015 bổ sung quy định Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; đương sự có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp.

– Bổ sung quyền, nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ; bổ sung quy định trách nhiệm của Toà án trong việc hỗ trợ đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ, tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng, như: đề nghị Tòa án buộc bên đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý; đề nghị Tòa án ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ…; Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ và tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ…

– Bổ sung quy định mới về quyền tiếp cận, trao đổi tài liệu, chứng cứ của đương sự; cụ thể là:

+ Đương sự có quyền được biết, ghi chép, sao chụp, trao đổi tài liệu, chứng cứ do đương sự khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được, trừ chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân.

+ Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì trong thời hạn 05 ngày làm việc họ phải thông báo cho đương sự khác biết về việc họ đã giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để đương sự khác liên hệ với Tòa án thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án phải thông báo cho đương sự biết để họ thực hiện quyền tiếp cận tài liệu, chứng cứ.

– Quy định về thủ tục hỏi, trình bày chứng cứ, tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ để vừa bảo đảm thực hiện đúng, đủ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm tố tụng của Toà án, người tham gia tố tụng theo đúng nguyên tắc tranh tụng, vừa bảo đảm phán quyết của Toà án khách quan, chính xác, đúng pháp luật trên cơ sở xem xét đầy đủ chứng cứ và kết quả tranh tụng…

3. Về bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án; không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hành chính (Điều 19).

4. Về đối thoại

Luật TTHC 2010 quy định trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án, có nghĩa là đối thoại không phải là thủ tục bắt buộc. Nay Luật TTHC 2015 quy định đối thoại là thủ tục bắt buộc và là nhiệm vụ của Thẩm phán khi được Chánh án Tòa án phân công giải quyết vụ án. Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định cụ thể về nguyên tắc đối thoại; về những vụ án không tiến hành đối thoại được; về thông báo phiên họp đối thoại; thành phần, thủ tục đối thoại; biên bản đối thoại và xử lý kết quả đối thoại (nội dung cụ thể được quy định tại các điều từ Điều 134 đến Điều 140).

5. Về giám đốc việc xét xử

Luật TTHC 2015 đã sửa đổi quy định về giám đốc việc xét xử, theo đó Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án; Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ để bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử (Điều 24). Việc sửa đổi như vậy để bảo đảm phù hợp với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

6. Về những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân

Ngoài việc kế thừa các quy định của Luật TTHC 2010 về những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì để bảo đảm tính khả thi, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định là quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Toà án nhân dân và quyết định xử lý hành chính các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Toà án nhân dân không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính; đồng thời, bổ sung thêm đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là danh sách cử tri trưng cầu ý dân để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật trưng cầu ý dân cũng vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10.

7. Về thẩm quyền của từng cấp Toà án

Ngoài việc sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền của từng cấp Toà án; phân định thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và phương thức xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm để phù hợp với các quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 và bảo đảm hiệu quả của việc giải quyết khiếu kiện hành chính, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện thì việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh (khoản 4 Điều 32). Việc quy định giao cho Toà án cấp tỉnh thẩm quyền này nhằm khắc phục tồn tại, bất cập từ thực tiễn giải quyết các khiếu kiện hành chính trong thời gian vừa qua.

8. Về người tiến hành tố tụng hành chính

Luật TTHC 2015 đã bổ sung hai chủ thể mới là người tiến hành tố tụng gồm Thẩm tra viên, Kiểm tra viên và quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm tra viên, Kiểm tra viên trong tố tụng hành chính. Việc bổ sung hai chủ thể mới này để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

9. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Kiểm sát viên

– Thứ nhất, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định một số nhiệm vụ, quyền hạn mới của Chánh án Tòa án và Thẩm phán, như: quyền kiến nghị với cơ quan, cá nhân có văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản, chấm dứt hành vi đó nếu phát hiện có dấu hiệu trái với quy định của pháp luật; kiến nghị với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật nếu phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; về việc xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng hành chính… Đây là những nhiệm vụ, quyền hạn mới của Chánh án Tòa án, Thẩm phán trên cơ sở cụ thể hóa quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

– Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên trong tố tụng hành chính để phù hợp với quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 (các điều 42, 43 và 44).

10. Về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính

Để giải quyết vướng mắc từ thực tiễn trong trường hợp có sự thay đổi địa giới hành chính, Luật TTHC 2015 bổ sung quy định: “Trường hợp sáp nhập, chia, tách, giải thể, điều chỉnh địa giới hành chính trong một đơn vị hành chính mà đối tượng của quyết định hành chính có sự thay đổi thì cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ra quyết định hành chính có trách nhiệm tham gia tố tụng với tư cách là người bị kiện tại Tòa án nơi cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính bị kiện. Cơ quan tiếp nhận đối tượng của quyết định hành chính bị kiện phải tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” (khoản 5 Điều 59).

11. Về người đại diện của người bị kiện trong tố tụng hành chính

– Để phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự (sửa đổi), Luật TTHC 2015 bổ sung quy định về người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người được Tòa án chỉ định (khoản 2 Điều 60); về người đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân; cụ thể là: “Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia tố tụng hành chính thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm đại diện tham gia tố tụng hành chính” (khoản 3 Điều 60). Ở đây, cần lưu ý là Luật TTHC 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2016. Tuy nhiên, đối với các quy định liên quan đến người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư cách pháp nhân thì có hiệu lực từ ngày 01-01-2017, vì những quy định này mới được bổ sung theo Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01-01-2017.

– Thực tiễn trong thời gian qua người bị kiện là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước thường ủy quyền cho cán bộ, công chức và thường là người không có thẩm quyền xem xét, giải quyết những việc liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, thậm chí có trường hợp ủy quyền cho Luật sư tham gia tố tụng, làm cho việc tổ chức đối thoại giữa các đương sự, việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa gặp khó khăn, không hiệu quả, việc giải quyết vụ án bị kéo dài, không bảo đảm để Tòa án xem xét giải quyết khách quan, toàn diện vụ án. Để khắc phục tồn tại này, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, hiệu quả, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định “Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này” (khoản 3 Điều 60).

12. Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Theo quy định của Luật TTHC 2010 thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Toà án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc được Tòa án chấp nhận ở đây được hiểu là bằng việc họ được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa. Theo quy định của Luật TTHC 2015 thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự yêu cầu và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được quy định như sau:

“4. Khi đề nghị Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đề nghị phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

a) Luật sư phải xuất trình các giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật luật sư;

b) Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý xuất trình văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc thẻ luật sư;

c) Công dân Việt Nam có đủ điều kiện quy định tại điểm c khoản 2 Điều này xuất trình giấy yêu cầu của đương sự và giấy tờ tùy thân.

5. Sau khi kiểm tra giấy tờ và thấy người đề nghị có đủ điều kiện làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận ðýợc ðề nghị, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trường hợp từ chối đăng ký thì Tòa án phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người đề nghị” (Điều 61).

13. Về người phiên dịch

Luật TTHC 2015 bổ sung quy định người phiên dịch đối với trường hợp có người khuyết tật nhìn hoặc người khuyết tật nghe, người khuyết tật nói; cụ thể là: “Người biết chữ của người khuyết tật nhìn hoặc người biết nghe, nói bằng ngôn ngữ, ký hiệu của người khuyết tật nghe, người khuyết tật nói cũng được coi là người phiên dịch” (Điều 64).

14. Về thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ; xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ

– Luật TTHC 2015 bổ sung quy định cụ thể về thời gian giao nộp chứng cứ; theo đó thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ấn định nhưng không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm; trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ; trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ và có yêu cầu hoặc xét thấy cần thiết, Tòa án có thể tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án (Điều 83). Đối với trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, đương sự mới giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp trước đó thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự phải giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm (Điều 133).

– Luật TTHC 2015 ngoài việc sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể các biện pháp xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ thì còn bổ sung quy định về việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn giám đốc thẩm; cụ thể là: “Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ quy định tại điểm a và điểm g khoản 2 Điều này.

Khi Thẩm tra viên tiến hành biện pháp quy định tại điểm g khoản 2 Điều này, Tòa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án” (khoản 4 Điều 84).

15. Về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng

Luật TTHC 2015 bổ sung quy định mới về thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo bằng phương tiện điện tử, theo đó “việc cấp, tống đạt hoặc thông báo bằng phương tiện điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử”. Đây là phương thức mới và Quốc hội đã giao Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn để thi hành. Vấn đề này thời gian tới Tòa án nhân dân tối cao sẽ có văn bản hướng dẫn cụ thể.

16. Về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

– Thứ nhất, để nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng hành chính, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn hoặc không áp dụng mà gây thiệt hại cho người có yêu cầu; cụ thể là: Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng, gây thiệt hại cho người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải bồi thường (Điều 72).

   – Thứ hai, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định mới về các trường hợp Tòa án ra quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, gồm: người đã yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị hủy bỏ; căn cứ của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn; vụ án đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định của Luật này hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định tại Điều 143 của Luật này” (khoản 2 Điều 74).

17. Về thời hiệu khởi kiện

Để khắc phục tình trạng người dân khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không giải quyết và không thông báo cho người khiếu nại dẫn đến nhiều trường hợp khi họ khởi kiện ra Tòa án thì thời hiệu khởi kiện đã hết vì thời hiệu tính từ ngày họ nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, Luật TTHC 2015 bổ sung quy định: “Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:

a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;

b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại”.

18. Về giải quyết khiếu nại, kiến nghị quyết định trả lại đơn
khởi kiện

Để bảo đảm tính minh bạch, tạo điều kiện cho đương sự được trình bày ý kiến của mình đối với việc trả lại đơn khởi kiện, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định là việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị này phải được tiến hành bằng phiên họp có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có khiếu nại (Điều 124).

19. Về tạm đình chỉ giải quyết vụ án

Luật TTHC 2015 bổ sung thêm các trường hợp Tòa án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án gồm:

– Cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại; cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án;

– Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó.

20. Về sự có mặt và phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm

– Theo quy định của Luật TTHC 2010 thì trường hợp vắng mặt Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa. Nay Luật TTHC 2015 quy định nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử (Điều 156).  

– Về phát biểu của Kiểm sát viên, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định về việc Kiểm sát viên được phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án; đồng thời, bổ sung quy định là ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án (Điều 190).

21. Về tạm ngừng phiên tòa

Luật TTHC 2010 quy định trong trường hợp đặc biệt, việc xét xử có thể tạm ngừng nhưng không quá 05 ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xử vụ án được tiếp tục. Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định cụ thể các căn cứ, thời hạn tạm ngừng phiên tòa, theo đó các căn cứ tạm ngừng phiên toà gồm:

– Thứ nhất, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng;

– Thứ hai, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt;

– Thứ ba, là cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa;

– Thứ tư, cần phải báo cáo với Chánh án Tòa án có thẩm quyền để đề nghị, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật;

– Thứ năm, các bên đương sự đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để các bên đương sự tự đối thoại;

– Thứ sáu, chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại.

* Thời hạn tạm ngừng phiên tòa cũng được quy định tăng thêm là không quá 30 ngày kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa  (Điều 187).

22. Về nghị án

Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định về những vấn đề phải quyết định khi nghị án; cụ thể là:

“3. Khi nghị án, Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp luật và nghiên cứu, áp dụng án lệ hành chính (nếu có) liên quan để quyết định về các vấn đề sau đây:

a) Tính hợp pháp và có căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện;

b) Tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính;

c) Thời hiệu, thời hạn ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính;

d) Mối liên hệ giữa quyết định hành chính, hành vi hành chính với quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và những người có liên quan;

đ) Tính hợp pháp và có căn cứ của văn bản hành chính có liên quan (nếu có);

e) Vấn đề bồi thường thiệt hại và vấn đề khác (nếu có) (khoản 3 Điều 191).

23. Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử

Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định Hội đồng xét xử có quyền tuyên hủy quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có) và  kiến nghị cách thức xử lý đối với quyết định hành chính trái pháp luật đã bị hủy (Điều 193).

24. Về bản án sơ thẩm

Luật TTHC 2015 bổ sung quy định “Khi xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định đã bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phải giải quyết vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã được thi hành theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy và ghi rõ trong bản án” (Điều 194).

25. Về tuyên án

Luật TTHC 2015 bổ sung quy định: “Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án có mặt các đương sự. Trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án hoặc vắng mặt theo quy định tại khoản 5 Điều 191 của Luật này thì Hội đồng xét xử vẫn tuyên đọc bản án. Trường hợp xét xử kín theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật này thì Hội đồng xét xử tuyên công khai phần mở đầu và phần quyết định của bản án” (Điều 195).

26. Về thời hạn kháng cáo

Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày tuyên án; bổ sung quy định về thời điểm tính thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm trong trường hợp quyết định được niêm yết công khai; về ngày kháng cáo đối với trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giữ hoặc bị tạm giam (Điều 206).

27. Về kháng nghị của Viện kiểm sát

Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định về trường hợp Tòa án nhận được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát khi đã quá thời hạn kháng nghị, theo đó khi Tòa án nhận được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát mà quyết định kháng nghị đó đã quá thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu Viện kiểm sát giải thích bằng văn bản và nêu rõ lý do (khoản 3 Điều 213).

28. Về thời hạn gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị

Luật TTHC 2015 sửa đổi quy định về thời hạn gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị, theo đó thời hạn này là 05 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị và hết thời hạn kháng cáo, người kháng cáo nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm (Điều 216).

29. Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm

Luật TTHC 2015 quy định “Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa khi Kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị” (Điều 224). Như vậy, đối với trường hợp Viện kiểm sát không có kháng nghị mà Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

30. Về căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Luật TTHC 2015 sửa đổi, bổ sung quy định chặt chẽ hơn về căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; cụ thể là:

“1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:

a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;

b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;

c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.

2. Người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 260 của Luật này kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này và có đơn của người đề nghị theo quy định tại Điều 257 và Điều 258 của Luật này, trừ trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì không cần thiết phải có đơn đề nghị” (Điều 255).

31. Về người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Để phù hợp với quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật TTHC 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định về người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; cụ thể là:

“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ” (Điều 260).

32. Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Quy định về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như Luật TTHC 2010 là thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không bị giới hạn trong trường hợp đương sự có đơn đề nghị giám đốc thẩm trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, quy định như vậy là không phù hợp với đặc thù của việc giải quyết khiếu kiện hành chính. Vì vậy, Luật TTHC 2015 đã sửa đổi quy định về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, theo đó thời hạn này là 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật (Điều 263).

33. Về thẩm quyền giám đốc thẩm; thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm

– Luật TTHC 2015 quy định cụ thể hóa thẩm quyền giám đốc thẩm của từng cấp theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; cụ thể là: Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị; Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao bị kháng nghị; đồng thời, quy định cụ thể những trường hợp Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao xét xử giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 03 Thẩm phán và toàn thể Ủy ban Thẩm phán; những trường hợp Hội đồng Thẩm phán xét xử giám đốc thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm phán và toàn thể Hội đồng Thẩm phán.

– Sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm phù hợp với việc tổ chức xét xử giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

34. Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm

Để khắc phục những bất cập trong thực tiễn giải quyết các khiếu kiện hành chính theo thủ tục giám đốc thẩm, Luật TTHC 2015 quy định Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền sửa bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật; cụ thể là:

“1. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm ra quyết định sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, rõ ràng; có đủ căn cứ để làm rõ các tình tiết trong vụ án;

b) Việc sửa bản án, quyết định bị kháng nghị không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

2. Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được một phần hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án”.

Việc bổ sung thẩm quyền này của Hội đồng giám đốc thẩm sẽ bảo đảm cho việc giải quyết vụ án không bị kéo dài, gây tốn kém thời gian và chi phí cho các đương sự và Tòa án; bảo đảm giải quyết vụ án hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí một cách hợp lý; kịp thời khắc phục những sai sót trong xét xử, qua đó nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án.

35. Về thi hành án hành chính

Luật TTHC 2015 bổ sung quy định về thi hành án hành chính để bảo đảm hiệu lực và tính khả thi trong việc thi hành các phán quyết về vụ án hành chính của Toà án, theo đó thời hạn tự nguyện thi hành án là 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án. Quá thời hạn này mà người phải thi hành án không thi hành thì người được thi hành án có quyền gửi đơn đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; đồng thời, Luật quy định cụ thể về yêu cầu, quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Toà án (Điều 312).

II. NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI HOÀN TOÀN

1. Về xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan trong vụ án hành chính

Để Toà án thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính đúng pháp luật, Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án có quyền xem xét về tính hợp pháp của văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại văn bản hành chính, hành vi hành chính đó và trả lời kết quả cho Tòa án theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; Tòa án có quyền kiến nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật nếu phát hiện văn bản đó có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án (vấn đề này được quy định tại Điều 6 của Luật).

Liên quan đến vấn đề này, Luật TTHC 2015 đã bổ sung nhiều quy định về việc xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan trong vụ án hành chính, như: quy định về trình tự, thẩm quyền kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật và trách nhiệm thực hiện kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật (Chương VIII); về việc Tòa án quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó (Điều 141); về quyền của Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp cần phải yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xem xét, xử lý văn bản hành chính liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện hoặc phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính mà có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và Hội đồng xét xử có quyền áp dụng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên để quyết định nếu quá thời hạn quy định mà không nhận được văn bản trả lời của cơ quan, người có thẩm quyền (Điều 193, Điều 241)…

2. Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại

Đây là quy định mới được bổ sung, theo đó khi được Chánh án Toà án phân công giải quyết vụ án, Thẩm phán có nhiệm vụ tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, trừ vụ án theo thủ tục rút gọn và vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri. Việc tổ chức phiên họp này tạo điều kiện cho các đương sự tiếp cận tài liệu, chứng cứ của nhau và yêu cầu, phạm vi khởi kiện, yêu cầu độc lập, việc bổ sung tài liệu, chứng cứ, đề nghị Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ, triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa… (các điều 136, 137, 138 và 139).

3. Về yêu cầu đối với phiên tòa sơ thẩm

Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định về địa điểm tổ chức phiên tòa, hình thức bố trí phòng xử án, theo đó phiên tòa được tổ chức tại trụ sở Tòa án hoặc có thể ngoài trụ sở Tòa án nhưng phải bảo đảm tính trang nghiêm và hình thức bố trí phòng xử án là Quốc huy nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được treo chính giữa phía trên phòng xử án và phía trên chỗ ngồi của Hội đồng xét xử; phòng xử án phải có các khu vực được bố trí riêng cho Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, những người tham gia tố tụng khác và người tham dự phiên tòa (Điều 150 và Điều 151).

4. Về xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng

Luật TTHC 2015 bổ sung một điều quy định về thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng (Điều 168).

5. Về giải quyết trường hợp người bị kiện sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, dừng, khắc phục hành vi hành chính bị khởi kiện trong giai đoạn phúc thẩm

Luật TTHC 2015 bổ sung quy định giải quyết đối với trường hợp trong giai đoạn phúc thẩm, người bị kiện sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, dừng, khắc phục hành vi hành chính bị khởi kiện (Điều 235).

6. Về giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục rút gọn

Luật TTHC 2015 đã bổ sung quy định quy định mới về thủ tục rút gọn giải quyết vụ án hành chính, theo đó vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn khi có đủ các điều kiện sau đây: vụ án có tình tiết đơn giản, tài liệu, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, bảo đảm đủ căn cứ giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng; không có đương sự cư trú ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài có thỏa thuận với đương sự ở Việt Nam đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn. Việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán thực hiện. Ngoài quy định về điều kiện, thành phần giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn nêu trên, Luật cũng quy định cụ thể về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn, về quyết định đưa vụ án ra giải quyết theo thủ tục rút gọn; về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra giải quyết theo thủ tục rút gọn; về phiên tòa theo thủ tục rút gọn; về việc chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường trong quá trình Toà án giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn; về phiên toà theo thủ tục rút gọn và hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án theo thủ tục rút gọn; đồng thời, Luật cũng quy định về việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục rút gọn tại Toà án cấp phúc thẩm.

Đây là những quy định mới được bổ sung để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013, bảo đảm giải quyết nhanh gọn, kịp thời những vụ án đơn giản, chứng cứ đã rõ ràng, tránh việc giải quyết vụ án bị kéo dài, gây tốn kém thời gian, công sức, chi phí của đương sự và của Toà án trong việc giải quyết vụ án.

7. Về thủ tục giải quyết vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài

Luật TTHC 2015 bổ sung một chương (Chương XVIII) quy định về thủ tục giải quyết vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài. Đây là quy định mới so với Luật TTHC 2010 để phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế, tạo cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài, quyền, lợi ích hợp của người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

8. Về án phí, lệ phí và chi phí tố tụng khác

Luật TTHC 2015 bổ sung một chương (Chương XXII) quy định về án phí, lệ phí và chi phí tố tụng khác. Đây là chương mới nhằm luật hoá quy định về án phí, lệ phí, chi phí tố tụng khác trong tố tụng hành chính.

(Ths. Bùi Ngọc Hòa-Phó Chánh án thường trựcTòa án nhân dân tối cao)