Nhà nước tư sản là gì? Bản chất, chức năng và các hình thức?

Nhà nước tư sản là gì? Bản chất của nhà nước tư sản? Chức năng của nhà nước tư sản? Các hình thức của nhà nước tư sản?

    Giải thích về cơ sở của luật tư sản (công lý, quyền) được đưa ra trong chương cuối cũng cung cấp cơ sở để hiểu lý thuyết của Marx về nhà nước, vì hệ thống pháp luật là một khoảnh khắc của nhà nước. Nhà nước tư sản, ở một khía cạnh nào đó, được xác định bởi chính những quan hệ xã hội bị tha hóa được phản ánh trong các quy luật của nó. Nhưng nhà nước cũng thực thi luật pháp và do đó có quyền tham gia và tự quyết định cấu trúc. Nếu vậy, bản chất của sự tham gia của nó vào các quan hệ xã hội là một biện chứng. Lôgic của quyền tự chủ của nhà nước trong xã hội tư sản, tức là lôgic về khả năng quản lý và cai trị của nó, xuất phát từ lôgic của xã hội xa lạ mà nó cai trị. Vậy thì Nhà nước tư sản là gì? Bản chất, chức năng và các hình thức? Hãy tìm hiểu nội dung này trong bài viết dưới đây:

    Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.6568

    1. Nhà nước tư sản là gì?

    Giai cấp tư sản là một tầng lớp xã hội được xác định về mặt xã hội học, tương đương với tầng lớp trung lưu hoặc thượng lưu. Họ bị phân biệt và đối lập theo truyền thống với giai cấp vô sản bởi sự sung túc của họ, và vốn tài chính và văn hóa tuyệt vời của họ. Đôi khi chúng được chia thành giai cấp tư sản nhỏ, trung, lớn, thượng, và cổ và được gọi chung là “giai cấp tư sản”.

    Giai cấp tư sản theo nghĩa gốc của nó có liên hệ mật thiết với sự tồn tại của các thành phố, được các điều lệ đô thị của họ công nhận như vậy (ví dụ, điều lệ thành phố, đặc quyền thị trấn, luật thị trấn của Đức), vì vậy không có giai cấp tư sản nào ngoài quyền công dân của các thành phố. Nông dân nông thôn phải tuân theo một hệ thống luật pháp khác.

    Trong triết học mácxít, giai cấp tư sản là tầng lớp xã hội sở hữu tư liệu sản xuất trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại và mối quan tâm của xã hội là giá trị tài sản và việc bảo tồn vốn để đảm bảo duy trì địa vị kinh tế tối cao của họ trong xã hội.

    Joseph Schumpeter đã coi việc kết hợp các yếu tố mới vào một giai cấp tư sản đang mở rộng, đặc biệt là các doanh nhân chấp nhận rủi ro để mang lại sự đổi mới cho các ngành công nghiệp và nền kinh tế thông qua quá trình hủy diệt sáng tạo, là động lực thúc đẩy động cơ tư bản.

    Nhà nước tư sản nổi lên như một hiện tượng lịch sử và chính trị vào thế kỷ 11 khi các công nhân ở Trung và Tây Âu phát triển thành các thành phố dành riêng cho thương mại. Sự mở rộng đô thị này có thể thực hiện được nhờ vào sự tập trung kinh tế do sự xuất hiện của hình thức tự tổ chức bảo hộ thành các phường hội. Các bang hội nảy sinh khi các cá nhân kinh doanh (chẳng hạn như thợ thủ công, nghệ nhân và thương gia) mâu thuẫn với địa chủ phong kiến ​​đòi tiền thuê nhà của họ, những người yêu cầu giá thuê cao hơn thỏa thuận trước đó.

    Trong trường hợp, vào cuối thời Trung cổ (khoảng năm 1500 sau Công nguyên), dưới chế độ quân chủ thời kỳ đầu của các quốc gia Tây Âu, giai cấp tư sản đã hành động vì tư lợi, và hỗ trợ về mặt chính trị cho nhà vua hoặc hoàng hậu chống lại tình trạng rối loạn tài chính và luật pháp gây ra. bởi lòng tham của các lãnh chúa phong kiến. Vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, tư sản Anh và Hà Lan đã trở thành lực lượng tài chính – do đó là chính trị – lật đổ trật tự phong kiến; sức mạnh kinh tế đã đánh bại sức mạnh quân sự trong lĩnh vực chính trị.

    Bên cạnh việc mô tả giai cấp xã hội sở hữu tư liệu sản xuất, cách sử dụng thuật ngữ “tư sản” theo chủ nghĩa Mác còn mô tả phong cách sống của chủ nghĩa tiêu dùng bắt nguồn từ quyền sở hữu tư bản và tài sản thực. Marx thừa nhận sự siêng năng của tư sản đã tạo ra của cải, nhưng chỉ trích thói đạo đức giả của giai cấp tư sản khi họ bỏ qua nguồn gốc bị cáo buộc của sự giàu có của họ: sự bóc lột của giai cấp vô sản, công nhân thành thị và nông thôn.

    Xem thêm: So sánh giữa kiểu nhà nước tư sản và nhà nước phong kiến

    2. Bản chất của nhà nước tư sản:

    Bản chất của Nhà nước tư sản được nhận thấy qua các khía cạnh như sau:

    – Một là, nhà nước tư sản thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên danh nghĩa thuộc về nhân dân;

    – Hai là, nhà nước tư sản có cơ quan lập pháp là cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội do bầu cử lập nên;

    – Ba là, nhà nước tư sản thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiềm chế, đối trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp;

    – Bốn là, nhà nước tư sản  thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng trong bầu cử nghị viện và tổng thống; hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản là cộng hòa và quân chủ lập.

    Xem thêm: Nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

    3. Chức năng của nhà nước tư sản:

    Bản chất của nhà nước tư sản thể hiện thông qua các chức năng đối nội và đối ngoại của nó. Chức năng của nhà nước tư sản chính là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

    – Chức năng đối nội

    + Chức năng chính trị  càng được thể hiện rõ nét nhất khi nhà nước tư sản chuyển từ chế độ dân chủ tư sản sang chế độ phát xít. Điển hình là chế độ phát xít Đức.

    + Chức năng kinh tế nhằm tạo ra các điều kiện, các đảm bảo vật chất, kỹ thật, pháp lý và chính trị cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn tư bản, đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế tư sản, ngăn ngừa và khắc phục những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế.

    + Chức năng xã hội được Nhà nước thực hiện nhằm tạo ra các điều kiện, các đảm bảo vật chất, kỹ thật, pháp lý và chính trị cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn tư bản, đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế tư sản, ngăn ngừa và khắc phục những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế.

    + Chức năng trấn áp về tư tưởng  là một trong những chức năng quan trọng nhằm trấn áp của nhà nước tư sản.

    – Chức năng đối ngoại

    + Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong trào cách mạng thế giới là chức năng đối ngoại chủ yếu của nhà nước tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.

    + Chức năng phòng thủ là chức năng đối ngoại chủ yếu của nhà nước tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.

    + Thiết lập và phát triển các quan hệ ngoại giao để giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua đối thoại với những chính sách đối ngoại mềm dẻo.

    4. Các hình thức của nhà nước tư sản?

    Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nói chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ lập hiến.

    – Hình thức chính thể:

    + Chính thể quân chủ lập hiến là hình thức quá độ khi giai cấp tư sản chưa giành được thắng lợi hoàn toàn và đây chính là hình thức thỏa thuận giữa giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc phong kiến.

    + Chính thể cộng hòa tổng thống thì trong hình thức này, tổng thống là người nắm quyền lực chính trị. Tổng thống do nhân dân trực tiếp bầu hoặc do đại hội cử tri bầu ra theo nhiệm kỳ. Khi thực hiện quyền lực nhà nước, tổng thống độc lập với nghị viện và có quyền ngang bằng với nghị viện.

    + Chính thể cộng hòa đại nghị hay còn gọi là chính thể cộng hòa nghị viện. Đặc điểm của mô hình này là thủ tướng là người nắm quyền lực chính trị và là người quyết định và chịu trách nhiệm về đường lối chính trị của chính phủ. Thủ tướng luôn là thủ lĩnh của đảng chiếm ưu thế trong nghị viện, vì vậy, quyền hạn của thủ tướng là rất lớn.

    – Hình thức cấu trúc được chia ra thành: nhà nước đơn nhất, nhà nước liên bang và nhà nước liên minh.

    + Nhà nước đơn nhất có đặc điểm cơ bản của nhà nước đơn nhất hình thức này phổ biến nhất của nhà nước tư sản. Hình thức đơn nhất tồn tại ở Pháp, Thụy Điển, Nga, Đức, Đan Mạch, Nhật Bản, Phần Lan,…Đây là hình thức nhà nước chỉ có một chính phủ, một hiến pháp, một quốc tịch, một hệ thống pháp luật thống nhất, một hệ thống cơ quan nhà nước ở trung ương thống nhất (gồm lập pháp, hành pháp, tư pháp), các cơ quan chính quyền địa phương được tổ chức và hoạt động theo quy định chung của chính quyền trung ương.

    + Nhà nước liên bang được áp dụng ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Thụy Sỹ,… Trong các nhà nước liên bang có nhiều nước thành viên (bang). Nhà nước liên bang có hiến pháp và hệ thống pháp luật của mình. Đồng thời thì các bang không có chủ quyền riêng và không có quyền tách khỏi liên bang. Trong cơ cấu tổ chức, các bang đều có các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hiến pháp và các đạo luật của nhà nước liên bang có hiệu lực trên toàn lãnh thổ và có hiệu lực cao nhất, là cơ sở của toàn bộ hệ thống pháp luật liên.

    + Nhà nước liên minh là sự liên kết giữa các quốc gia độc lập vì những nhiệm vụ chính trị, quân sự hoặc kinh tế bằng hiệp ước do các thành viên liên minh thỏa thuận. Chính quyền liên minh có cơ cấu tổ chức không chặt chẽ và chỉ gây được ảnh hưởng mang tính quyền lực đối với các nước thành viên trong một số lĩnh vực nhất định. Điển hình là liên minh ở Mỹ từ 1776 – 1787, Đức 1876, Liên minh Thụy Sỹ 1848, hiện nay có liên minh Châu Âu.