Nghị luận về vấn đề gia tăng dân số hiện nay – TRẦN HƯNG ĐẠO

TOP 4 bài Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số hiện nay SIÊU HAY, kèm theo 2 dàn ý cụ thể. Qua đó, sẽ giúp các em học trò lớp 8 hiểu rõ hơn về thực trạng, những tác hại của việc tăng thêm dân số.

Vận tốc tăng thêm dân số quá nhanh có tác động rất lớn tới sự tăng trưởng của đời sống xã hội,  văn hoá, giáo dục. Từ đó kéo theo nghèo đói, bệnh tật, lỗi thời và các tệ nạn xã hội. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn thực trạng này.

Dàn ý nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số

Dàn ý cụ thể số 1

A. Mở bài:

  • Hiện nay do sự tăng trưởng quá nhanh của xã hội hiện đại, kéo theo rất nhiều hiểm hoạ đối với đời sống con người.
  • Một trong những hiểm hoạ mang tính toàn cầu là hiểm hoạ tăng thêm dân số hiện nay.

B. Thân bài:

1. Giảng giải ngắn gọn:

a. Tăng thêm dân số là sự tăng thêm số lượng cụ thể nhân khẩu ở một gia đình, địa phương, vùng miền, quốc gia. Có hai hình thức tăng thêm dân số là tăng thêm dân số tự nhiên (do sinh nở); tăng thêm dân số cơ học (do dân số di trú giữa các vùng miền). Đây vốn là hiện tượng tự nhiên của đời sống xã hội, con người. Sự tăng thêm dân số sẽ phân phối nguồn lao động trẻ cho xã hội, góp phần duy trì sự tăng trưởng ổn định và vững bền của xã hội. Tuy nhiên, tăng thêm dân số vượt quá điều kiện sống cho phép của xã hội là một thảm hoạ.

b. Tăng thêm dân số hiện nay đang là một thảm họa vì tăng thêm dân số gắn liền với sự tăng thêm tình trạng sống nghèo đói, bệnh tật, dốt nát, lỗi thời và các tệ nạn xã hội. Đây là gánh nặng ko chỉ với mỗi gia đình nhưng mà còn đối với toàn xã hội.

2. Bàn luận:

a. Tăng thêm dân số quá mức như hiện nay do nhiều nguyên nhân: trình độ dân trí thấp, thiếu những hiểu biết sơ lược về kế hoạch hoá gia đình, quan niệm lỗi thời “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, “con đàn cháu đống” mới có phúc, phong tục tập quán lỗi thời, tâm lí trọng nam khinh nữ vẫn còn rơi rớt…

b. Hành động thiết thực của tuổi xanh trước thảm hoạ tăng thêm dân số hiện nay:

  • Tuổi xanh phải là lực lượng tiền phong, kiểu mẫu trong công việc kế hoạch hoá gia đình.
  • Tuổi xanh cũng là lực lượng tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội nhằm vận động, tuyên truyền các từng lớp nhân dân thực hiện nghiêm Pháp lệnh dân số của Nhà nước.
  • Tuổi xanh còn là thành viên tích cực tham gia các hoạt động xoá đói giảm nghèo; tăng lên dân trí, xoá bỏ những tập tục, tập quán lỗi thời; tác động để làm thay đổi những quan niệm lỗi thời trong nhân dân ở nơi mình trú ngụ, học tập hay công việc.

C. Kết bài: Liên hệ bản thân.

Dàn ý cụ thể số 2

1. Mở bài: Giới thiệu về vấn đề tăng thêm dân số. Đó là sự tăng lên quá nhanh về số dân trong một non sông nói riêng và trên toàn cầu nói chung. Và ngày nay, nó là một thực trạng đáng báo động và cần đc khắc phục.

2. Thân bài

– Biểu lộ của vấn đề tăng thêm dân số: sự tăng nhanh về dân số, mỗi năm có rất nhiều trẻ em được sinh ra. Chủ yếu là xảy ra ở những gia đình nghèo, những quốc gia đang tăng trưởng. Nhưng mà Việt Nam đang ở trong tình trạng đó.

– Tác hại của vấn đề tăng thêm dân số:

  • Đời sống người dân sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Đông con, sẽ ko có đủ điều kiện để có thể chăm sóc con cái cho tốt hơn.
  • Những đứa trẻ được sinh ra ko thừa hưởng những điều tốt đẹp hơn.
  • Tăng thêm dân số, vấn đề việc làm, ô nhiễm môi trường, tác động tới kinh tế xã hội của 1 quốc gia.

– Nguyên nhân:

  • Những hủ tục lỗi thời, quan niệm phong kiến lỗi thời, tôn giáo nặng nề vẫn còn tồn tại trong tư tưởng mỗi người dân.
  • Tư tưởng “sinh nhiều con để sau này còn có cái nhưng mà sướng” và đặc thù là hệ lụy của “trọng nam khinh nữ”.
  • Chưa có sự can thiệp 1 cách mạnh mẽ, nghiêm khắc từ chính quyền địa phương.

– Dẫn chứng cụ thể của thực trạng tăng thêm dân số ở nước ta, và một số nước khác trên toàn cầu.

– So sánh với những gia đình, những quốc gia có tỉ lệ tăng thêm dân số giảm mạnh và có khả năng ko tăng về điều kiện gia đình, cuộc sống của họ.

– Giải pháp:

  • Thực hiện một cách nghiêm túc và đúng mực kế hoạch hóa gia đình.
  • Tự mỗi người chồng người vợ có ý thức hơn, tiến bộ hơn trong việc sinh con.
  • Cơ quan có thẩm quyền, cơ quan công dụng quản lý chặt chẽ hơn.

3. Kết bài: Chốt lại vấn đề, định hướng tương lai về một dân tộc Việt Nam nói riêng và toàn cầu nói chung sẽ ko còn phải lo lắng nhiều về vấn đề tăng thêm dân số nữa. Đời sống của người dân sẽ tốt hơn.

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số – Mẫu 1

Xã hội ngày càng tăng trưởng, nhiều vấn đề nóng bỏng nổi cộm lên thu hút sự quan tâm của dư luận toàn cầu. Một trong những vấn đề được quan tâm nhất hiện nay chính là việc tăng thêm dân số của nước ta.

Nước ta thuộc một trong những quốc gia nghèo, có nền kinh tế chậm tăng trưởng nhưng tỉ lệ tăng thêm dân số lại thuộc top cao trên toàn cầu. Dân số tăng lên, chất lượng các dịch vụ về văn hoá, giáo dục, y tế… cũng sẽ bị suy giảm do phải chạy theo số lượng để phục vụ số đông. Ngoài ra, dân số tăng nhanh tác động tới sự tăng trưởng của nền kinh tế lúc nhiều nguồn phúc lợi phải chi ra để phục vụ nhu cầu của con người.

Nguyên nhân của việc tăng thêm dân số trước nhất phải kể tới do ý thức chủ quan, suy nghĩ của con người: muốn có đông con để vui vầy, muốn có đàn ông nối dõi nên đẻ cố, có con ngoài ý muốn do ko biết cách phòng tránh,… Ngoài ra, nguyên nhân khách quan là do nước ta còn nghèo, chất lượng giáo dục chưa tốt, người dân chưa tưởng tượng ra hậu quả của việc bùng nổ dân số, nhà nước chưa có giải pháp tuyên truyền hiệu quả để người dân biết và hạn chế tăng thêm dân số.

Hậu quả của vấn đề tăng thêm dân số để lại vô cùng nghiêm trọng, trước nhất, nền kinh tế ngày càng đi xuống, sức khỏe người dân ko được đảm bảo đặc thù là người già, phụ nữ và trẻ em. Việc dân số tăng mạnh tác động ko chỉ tới chất lượng đời sống con người nhưng mà còn tác động tới môi trường lúc hiện nay môi trường đang ngày càng bị tàn phá nặng nề. Chúng ta có thể kết luận rằng việc tăng thêm dân số tác động tới mọi phương diện của cuộc sống và làm cho cuộc sống ngày càng suy giảm chất lượng.

Để khắc phục sự bùng nổ dân số hiện nay, trước hết mỗi người dân cần tự nhận thức đúng mực về hậu quả của việc tăng thêm dân số đồng thời có giải pháp hạn chế tối đa tăng thêm dân số bằng cách sinh ít con. Ngoài ra, nhà nước và xã hội cần tích cực tuyên truyền về hậu quả của việc sinh nhiều con và luật định rõ ràng nếu người dân cố ý vi phạm để răn đe người khác.

Mỗi con người một hành động nhỏ nhưng tạo ra một ý nghĩa lớn lao giúp nước nhà tăng trưởng tốt đẹp hơn. Chúng ta hãy tăng lên ý thức và quyết tâm hết mình kiểm soát tình trạng tăng thêm dân số.

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số – Mẫu 2

Viết về hiểm hoạ của việc tăng thêm dân số quá nhanh – một đề tài vừa khó vừa khô khan, tác giả của “Bài toán dân số” đã chọn cách vào đề thật lôi cuốn, vừa thực tiễn, vừa giàu sức thuyết phục. Từ câu chuyện nhà uyên bác kén rể tới 64 ô bàn cờ với một lượng thóc “nhiều tới mức có thể phù khắp bề mặt Trái Đất”, độc giả dễ dàng tưởng tượng về sự tăng thêm dân số chóng mặt với vận tốc sinh sản như hiện nay.

Vấn đề chính nhưng mà tác giả đặt ra trong văn bản này là: Con người đang ngày càng tăng lên gấp bội. Nếu ko hạn chế sự tăng thêm dân số thì con người sẽ tự làm hại chính mình.

Điều làm tác giả “sáng mắt ra” đó là: ko ngờ một vấn đề rất hiện đại mới được đặt ra gần đây (vấn đề dân số kế hoạch hoá gia đình) thế nhưng mà dường như nó đã được đặt ra từ thời cổ điển.

Nhập đề dưới hình thức một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà uyên bác, phần kể của nhà văn đã vừa gây được sự tò mò, lôi cuốn của người đọc, vừa mang lại một kết luận rất bất thần ở phía cuối của câu chuyện kể. Lấy câu chuyện đó làm tiền đề, tác giả đã so sánh ngay với sự bùng nổ và tăng thêm dân số (cả hai đều tăng theo cấp số nhân). Cách so sánh đó, quả thực đã làm cho người đọc tưởng tượng một cách nhanh chóng tới vận tốc tăng thêm kinh khủng của dân số. Và đây cũng chính là trọng tâm vấn đề nhưng mà bài viết muôn nêu lên.

Việc đưa ra tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội nghị Cai-rô là rất có ý nghĩa. Trước hết, nó thông tin cho người ta thấy người phụ nữ có thể sinh rất nhiều con (ít như Việt Nam thì trung bình cũng là 3,7; nhiều như Ru-an-đa thì tới 8,1). Từ đó có thể thấy mục tiêu mỗi gia đình có hai con là rất khó khăn. Thứ hai, các con số thống kê còn cho thấy các nước chậm tăng trưởng lại sinh con rất nhiều.

Các nước được kể trong văn bản thuộc hai nhóm:

– Châu Phi: Nê-pan, Ru-an-đa, Tan-da-ni-a, Ma-đa-gát-xca.

– Châu Á: Ấn Độ và Việt Nam.

Có thể rút ra nhận xét: Những nước kém tăng trưởng ở hai lục địa nêu trên là những nước dân số tăng nhanh. Sự bùng nổ dân số sẽ đi kèm với sự nghèo nàn lỗi thời, kinh tế chậm tăng trưởng, văn hoá, giáo dục ko được tăng lên. Trái lại, kinh tế, văn hoá, giáo dục càng yếu kém thì lại càng ko thể khống chế được sự tăng thêm dân số. Nói cách khác, hai vấn đề này quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động tới nhau một cách thâm thúy.

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số – Mẫu 3

Theo thống kê của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ) đầu năm 2008, tổng số trẻ sinh ra trong quý I năm 2008 đã tăng hơn 18.000 trẻ (tăng 7,2%) so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, có tới 39/64 tỉnh/thành thị có mức sinh tăng mạnh: Sóc Trăng (tăng 41,2%), Sơn La (40%), thành thị Hồ Chí Minh (30,2%), Hà Nội (27,6%), Phú Thọ (23%) Cũng theo Tổng cục DS-KHHGĐ, trong thời kì này, số trẻ mới sinh ra là con thứ 3 khoảng 182.000 trẻ, tăng hơn 35% so với cùng thời khắc năm 2007. Đặc trưng, nhân vật sinh con thứ 3 ko chỉ ngừng lại ở những hộ nông dân nhưng mà gần đây lại tập trung chủ yếu ở nhân vật công chức nhà nước, những gia đình khá giả. Cùng với đó, tỉ lệ mất thăng bằng giới tính cũng đang khá cao, ở nhiều địa phương, số trẻ em trai đã vượt số trẻ em gái từ 20 tới 25%. Có 16 tỉnh/thành thị có tỉ lệ giới tính lúc sinh từ 115 tới 128 nam/100 nữ và 20 tỉnh/thành thị là 111 tới 120 nam/100 nữ.

Xưa nay nay người Việt Nam vẫn thường xem vấn đề “nhập khẩu” vợ là chuyện khác thường, nhưng có thể một ngày gần đây viễn cảnh sẽ hiện hữu như một thực tiễn. Cách đây 10 năm, tỉ lệ giới tính ở Việt Nam ngang bằng với mức độ trung bình của toàn cầu (100 nhỏ gái thì có 105-107 nhỏ trai), nhưng trong vài năm trở lại đây, lúc chúng ta thực hiện cuộc vận động dân số với khẩu hiệu ngừng lại ở 1-2 con để nuôi dạy cho tốt đã góp phần hạn chế mức sinh, nhưng lại làm cho các gia đình phải cân nhắc, lựa chọn giới tính thai nhi để sinh bằng được đàn ông. Hệ quả là, khoảng cách tỉ lệ giới tính (số trẻ em trai/trẻ em gái) ở nước ta ngày càng tăng cao. Cụ thể, năm 2000, tỉ lệ này mới ở mức phổ biến là 106/100, thì tới cuối năm 2007 đã lên tới mức báo động là 126/100. tỉ lệ này tăng thêm theo số lần sinh, đặc thù đối với những gia đình sinh con thứ 3 trở lên. ở nhiều vùng, số lượng nhỏ trai đã vượt số lượng nhỏ gái 20-25%. Mặt khác, tình trạng phụ nữ di trú lấy chồng nước ngoài có xu thế tăng ở một số địa phương. Thực tiễn này ko bao lâu nữa sẽ dẫn tới tình trạng nhiều nhỏ trai lúc trưởng thành sẽ ko lấy được vợ, giống như tình trạng của Trung Quốc. Nguy cơ này có thể dẫn tới sự bất ổn xã hội như: đánh nhau, cưỡng dâm, giao thương phụ nữ qua biên giới… tăng lên.

Khu vực nông thôn, miền núi vẫn còn nặng về quan niệm đàn ông hơn con gái, công việc gia đình là trách nhiệm của riêng phụ nữ, định hướng nghề nghiệp vẫn theo hướng truyền thống… nên việc đầu tư cho trẻ em gái trong học tập ko được chú ý và quan tâm nhiều như với trẻ em trai. Việc làm này tiếp tục là nguy cơ tiềm tàng về trình độ, năng lực và tay nghề của phụ nữ thấp, khiến họ chỉ có thể làm được những công việc ko ổn định, ở những nơi có điều kiện làm việc thiếu thốn, thu nhập thấp, cập kênh, dễ mất việc làm hoặc ko được bảo hiểm tác động tới chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai.

Tới hết năm 2008, Việt Nam sẽ hết thời hạn nhận tài trợ các phương tiện tránh thai (PTTT) hiện đại (bao cao su, thuốc ngừa thai). Theo đó, tới năm 2009, Việt Nam sẽ thiếu 80% số lượng PTTT hiện đại bởi chưa có cam kết phân phối nào từ phía các nhà tài trợ. Theo tính toán của các chuyên gia dân số, mỗi năm, nhu cầu cần 100 – 150 tỉ đồng sắm PTTT nhưng ngân sách nhà nước chỉ giải quyết được khoảng 10%. Đó là một bài toán ngân sách đối với các cơ quan, ban/ngành. Và một thử thách nữa trong vấn đề này là việc xã hội hóa phân phối PTTT ko thu được nhiều kết quả như mong đợi bởi từ nhiều năm nay, nhiều người dân vẫn được phân phối miễn phí thuốc tránh thai, bao cao su. Sự khủng hoảng này là mối dọa nạt hết sức nguy hiểm, rất dễ dẫn tới bùng nổ dân số. Nguyên nhân:

Một là, đời sống của một số gia đình ngày càng khá giả, vấn đề nuôi con ko còn là gánh nặng nên có nhu cầu sinh thêm con.

Hai là, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” theo kiểu “chồng chúa, vợ tôi”, “xuất giá tòng phu”, “mười gái ko bằng một trai” vẫn còn tồn tại trong ý tưởng của một bộ phận dân cư, nhất là ở các vùng ven biển, vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bởi lẽ, họ cho rằng đàn ông có trách nhiệm nhiều hơn con gái trong việc phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ lúc về già và tính liệu ma chay, thờ phụng sau lúc cha mẹ mất, đồng thời tâm lý sinh đàn ông còn để dự phòng trong trường hợp rủi ro (tai nạn, tệ nạn xã hội…).

Ba là, nhiều địa phương còn có cán bộ, đảng viên sinh con thứ 3 trở lên, đã tác động ko tốt tới phong trào vận động nhân dân thực hiện KHHGĐ.

Bốn là, hiểu biết của các cặp vợ chồng về việc sử dụng các giải pháp phòng tránh thai còn hạn chế.

Năm là, tỉ lệ tăng thêm tự nhiên theo quy luật. Với sự tăng trưởng của kinh tế, khoa học và công nghệ, tỉ lệ chết ngày càng giảm, dẫn tới tỉ lệ tăng thêm dân số tự nhiên (tỉ lệ sinh – tỉ lệ chết) ngày càng tăng. tỉ lệ sinh hiện nay ở nước ta ước tính là 15% tỉ lệ chết xấp xỉ 5%, tương tự, chỉ một phép tính thông thường cũng cho thấy, hiện nay tỉ lệ tăng thêm dân số sinh tự nhiên ở nước ta là 10%. Đây là con số cộng dồn cố định vào mức tăng dân số của nước ta mỗi năm.

Sáu là, hàng ngũ cán bộ chuyên trách dân số và hiệp tác viên (CTV) dân số còn mỏng, chất lượng chưa đồng đều, nhiều địa phương cán bộ dân số phải đảm nhiệm khối công việc rất lớn, cơ chế phụ cấp thấp. Mặc dù Nghị quyết số 47 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ phải có chính sách khuyến khích thỏa đáng ý thức và vật chất cho hàng ngũ này, song thực tiễn cho thấy, ngân sách của một số địa phương hiện nay huy động để hỗ trợ, khuyến khích cho lực lượng làm công việc dân số ở cơ sở vẫn còn hạn chế.

Bảy là, nhận thức về công việc DS-KHHGĐ ở nhiều địa phương còn chưa đúng, chưa đồng đều, dẫn tới việc đầu tư nguồn nhân lực làm công việc này còn hạn chế. Chưa kể tới việc ko có chế tài thống nhất xử lý các trường hợp sinh con thứ 3 trở lên, nên hồ hết các địa phương khó thực hiện. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm lãnh đạo công việc DS-KHHGĐ, còn phó mặc cho cán bộ chuyên trách cơ sở…

Tám là, sự thay đổi về tổ chức. Năm 2007, tổ chức bộ máy ngành dân số, gia đình và trẻ em (DSGĐ&TE) có những thay đổi lớn. Việc giải thể Ủy ban DSGĐ&TE, sáp nhập bộ phận dân số về Bộ Y tế (nhưng 6 tháng sau mới có quyết định chính thức thành lập Tổng cục DS-KHHGĐ) đã ít nhiều làm xáo trộn tâm tư của hàng ngũ cán bộ, viên chức làm công việc dân số ở nhiều tỉnh/thành thị trong cả nước, đặc thù là hàng ngũ CTV, cán bộ chuyên trách ở cơ sở ko khỏi băn khoăn, lo lắng. Một trong những trắc trở trước mắt, đó là làm sao duy trì ổn định lực lượng CTV dân số (7.200 người) tại các thôn, bản, xã, phường, những người đã bao năm lăn lộn với phong trào “đi từng ngõ, gõ từng nhà” vận động bà con thực hiện KHHGĐ. Nhờ có hàng ngũ CTV dân số nhưng mà công việc DS – KHHGĐ của các tỉnh/thành thị đã được tăng mạnh, tăng cường tới các thôn, bản vùng sâu, vùng xa, nơi có mức sinh và tỉ lệ sinh con thứ 3 cao.

Chín là, sự tăng trưởng của khoa học và công nghệ. Có thể nói sự mất thăng bằng giới còn có nguyên nhân hậu sự tăng trưởng của khoa học và công nghệ. Y khoa ngày càng tăng trưởng đã giúp việc sinh con theo ý muốn, làm cho tỉ lệ nhỏ trai được sinh ra tăng lên rõ rệt. Thông qua sự hỗ trợ của các giải pháp như siêu âm, lựa chọn giới tính nhờ ăn uống, các cặp vợ chồng có thể lựa chọn giới tính thai nhi theo mong muốn.

Mất thăng bằng giới tính, mức sinh có xu thế tăng trở lại, thế tất sẽ tác động xấu tới sự tăng trưởng của xã hội. Do đó, chúng ta cần có một chiến lược đầu tư trong khoảng thời gian dài cho công việc dân số – sức khỏe sinh sản. Giải pháp quan trọng nhất chính là tăng cường thông tin – giáo dục – truyền thông, đi đôi với việc sẵn sàng các dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ, nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ sức khỏe sinh sản lành mạnh. Tăng mạnh hoạt động tuyên truyền tăng lên nhận thức cho người dân, các sở, ban, ngành, đoàn thể về công việc dân số, trong đó trọng tâm là tạo sự chuyển đổi hành vi tự nguyện và vững bền về công việc dân số nói chung và sức khỏe sinh sản, KHHGĐ nói riêng. Đặc trưng, trong thời khắc hiện nay, việc ổn định cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ máy mới sau lúc tách nhập lĩnh vực DSGĐ&TE về các ngành cần được thực hiện nhanh chóng. Cần thực hiện chế tài về dân số một cách nghiêm túc. Cán bộ, người lao động viên chức nhà nước sinh con thứ 3 trở lên phải bị xử lý kỷ luật theo quy định của Nhà nước; thành viên của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội sinh con thứ 3 trở lên thì bị xử lý theo quy định của quy chế, quy định của đoàn thể, tổ chức; đảng viên sinh con thứ 3 trở lên thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của Đảng. Ngoài ra, cần chú trọng việc biểu dương những tấm gương phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà để thay đổi cách nhìn nhận của nam giới về năng lực của người phụ nữ. Phụ nữ, họ ko chỉ là những người chỉ giỏi việc nhà nhưng mà họ còn có khả năng làm rất tốt những công việc bên ngoài xã hội.

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số – Mẫu 4

Tăng thêm dân số là một trong những vấn đề quan trọng của non sông ta. Đó cũng là vấn đề nhưng mà mỗi người cần quan tâm và có trách nhiệm đặc thù là với thế hệ thanh niên.

Tăng thêm dân số chóng mặt chính là nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện tượng bùng nổ dân số, kéo theo đó là nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Tăng thêm dân số có thể kéo theo việc tạo gánh nặng lên quỹ bảo hiểm xã hội cùng với đó là hàng loạt các vấn đề không giống nhau như gây sức ép lên tài nguyên tự nhiên, vấn đề an sinh xã hội, ô nhiễm môi trường, nguồn lao động.

Vấn đề dân số có tác động rất lớn tới nền kinh tế của mỗi nước. Ở một số quốc gia tăng trưởng, dân số già, thiếu nguồn lao động thì có những chủ trương khuyến khích người dân sinh nở, tạo điều kiện để các gia đình linh động hơn trong việc sinh con bằng các chính sách hỗ trợ chăm sóc bà mẹ và em nhỏ, hỗ trợ kinh phí cho đứa trẻ tới trường… Trái lại, đối với những quốc gia dân số đông và tỉ lệ tăng thêm dân số cao thì cần vận dụng những chính sách kế hoạch hóa gia đình để hạn chế tăng thêm dân số. Ví dụ tiêu biểu là non sông Trung Quốc với chính sách mỗi gia đình chỉ được sinh một con và chính sách đó chỉ vừa mới được huỷ bỏ vào năm 2015 sau 35 năm thực hiện.

Ở Việt Nam, với tư tưởng trời sinh voi trời sinh cỏ, con cái là lộc trời cho rồi tư tưởng trọng nam khinh nữ đã làm cho các gia đình cứ vô tư sinh nở, càng nhiều con càng có lộc. Điều này đã khiến dân số nước ta ko ngừng tăng thêm chóng mặt trong những năm vừa qua. Tuy nhiên chúng ta cũng rất quan tâm tới vấn đề dân số và đã có nhiều giải pháp để thực hiện những chính sách này như tuyên truyền vận động người dân hiểu và thực hiện chính sách dân số. Thực hiện mỗi gia đình chỉ có nhiều nhất 2 con. Có các chế tài xử phạt đối với những gia đình sinh nở vỡ kế hoạch.

Là những học trò thế hệ rường cột tương lai của non sông, tuổi xanh hôm nay phải có những nhận thức rõ ràng về hệ quả của việc tăng thêm dân số. Đồng thời các bạn cũng cần phải hiểu được những vấn đề có thể gặp phải nếu tăng thêm dân số quá nhanh từ đó hiểu được trách nhiệm của mình đối với vấn đề này.

Đối với bản thân, mỗi bạn phải có nhận thức rõ ràng, tự chủ và hiểu biết. Ko để bản thân bị lôi kéo, dụ dỗ vào những thói hư tật xấu, những lời ve vãn của các nhân vật xấu. Ko quan hệ tình dục nhưng mà ko sử dụng các giải pháp an toàn. Thực hiện nghiêm túc chính sách kế hoạch hóa gia đình. Tránh tình trạng như hiện nay, có rất nhiều vụ xâm hại, cưỡng bức trẻ vị thành niên có thể xảy ra. Rồi đây đó lại có một vụ thành hôn nhưng mà cô dâu chú rể chỉ mười mấy tuổi, còn là độ tuổi vị thành niên. Đối với số đông xã hội, các bạn trẻ phải có tri thức rõ ràng về vấn đề tăng thêm dân số mới có thể tuyên truyền vận động người dân thực hiện các chính sách dân số.

Vấn đề dân số là vấn đề của toàn xã hội, đối với tất cả các nhân vật, nếu chúng ta còn tránh né và rụt rè với những vấn đề này thì tình trạng sẽ xảy ra và ngày càng nghiêm trọng hơn. Chính vì vậy cách tốt nhất để phòng tránh nó chính là hiểu rõ về nó và có ý thức chủ động thực hiện. Mỗi một bạn trẻ lại là một lao động tương lai của non sông, là những phụ huynh tiếp theo vì vậy hãy cùng chung tay góp sức ngay từ hiện giờ để xây dựng một xã hội văn minh văn hóa hơn, đảm bảo cuộc sống và sự tăng trưởng của con người là tốt nhất.

xem thêm thông tin chi tiết về Nghị luận về vấn đề gia tăng dân số hiện nay

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số hiện nay

Hình Ảnh về: Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số hiện nay

Video về: Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số hiện nay

Wiki về Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số hiện nay

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số hiện nay -

TOP 4 bài Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số hiện nay SIÊU HAY, kèm theo 2 dàn ý cụ thể. Qua đó, sẽ giúp các em học trò lớp 8 hiểu rõ hơn về thực trạng, những tác hại của việc tăng thêm dân số.

Vận tốc tăng thêm dân số quá nhanh có tác động rất lớn tới sự tăng trưởng của đời sống xã hội,  văn hoá, giáo dục. Từ đó kéo theo nghèo đói, bệnh tật, lỗi thời và các tệ nạn xã hội. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn thực trạng này.

Dàn ý nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số

Dàn ý cụ thể số 1

A. Mở bài:

  • Hiện nay do sự tăng trưởng quá nhanh của xã hội hiện đại, kéo theo rất nhiều hiểm hoạ đối với đời sống con người.
  • Một trong những hiểm hoạ mang tính toàn cầu là hiểm hoạ tăng thêm dân số hiện nay.

B. Thân bài:

1. Giảng giải ngắn gọn:

a. Tăng thêm dân số là sự tăng thêm số lượng cụ thể nhân khẩu ở một gia đình, địa phương, vùng miền, quốc gia. Có hai hình thức tăng thêm dân số là tăng thêm dân số tự nhiên (do sinh nở); tăng thêm dân số cơ học (do dân số di trú giữa các vùng miền). Đây vốn là hiện tượng tự nhiên của đời sống xã hội, con người. Sự tăng thêm dân số sẽ phân phối nguồn lao động trẻ cho xã hội, góp phần duy trì sự tăng trưởng ổn định và vững bền của xã hội. Tuy nhiên, tăng thêm dân số vượt quá điều kiện sống cho phép của xã hội là một thảm hoạ.

b. Tăng thêm dân số hiện nay đang là một thảm họa vì tăng thêm dân số gắn liền với sự tăng thêm tình trạng sống nghèo đói, bệnh tật, dốt nát, lỗi thời và các tệ nạn xã hội. Đây là gánh nặng ko chỉ với mỗi gia đình nhưng mà còn đối với toàn xã hội.

2. Bàn luận:

a. Tăng thêm dân số quá mức như hiện nay do nhiều nguyên nhân: trình độ dân trí thấp, thiếu những hiểu biết sơ lược về kế hoạch hoá gia đình, quan niệm lỗi thời “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, “con đàn cháu đống” mới có phúc, phong tục tập quán lỗi thời, tâm lí trọng nam khinh nữ vẫn còn rơi rớt…

b. Hành động thiết thực của tuổi xanh trước thảm hoạ tăng thêm dân số hiện nay:

  • Tuổi xanh phải là lực lượng tiền phong, kiểu mẫu trong công việc kế hoạch hoá gia đình.
  • Tuổi xanh cũng là lực lượng tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội nhằm vận động, tuyên truyền các từng lớp nhân dân thực hiện nghiêm Pháp lệnh dân số của Nhà nước.
  • Tuổi xanh còn là thành viên tích cực tham gia các hoạt động xoá đói giảm nghèo; tăng lên dân trí, xoá bỏ những tập tục, tập quán lỗi thời; tác động để làm thay đổi những quan niệm lỗi thời trong nhân dân ở nơi mình trú ngụ, học tập hay công việc.

C. Kết bài: Liên hệ bản thân.

Dàn ý cụ thể số 2

1. Mở bài: Giới thiệu về vấn đề tăng thêm dân số. Đó là sự tăng lên quá nhanh về số dân trong một non sông nói riêng và trên toàn cầu nói chung. Và ngày nay, nó là một thực trạng đáng báo động và cần đc khắc phục.

2. Thân bài

– Biểu lộ của vấn đề tăng thêm dân số: sự tăng nhanh về dân số, mỗi năm có rất nhiều trẻ em được sinh ra. Chủ yếu là xảy ra ở những gia đình nghèo, những quốc gia đang tăng trưởng. Nhưng mà Việt Nam đang ở trong tình trạng đó.

– Tác hại của vấn đề tăng thêm dân số:

  • Đời sống người dân sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Đông con, sẽ ko có đủ điều kiện để có thể chăm sóc con cái cho tốt hơn.
  • Những đứa trẻ được sinh ra ko thừa hưởng những điều tốt đẹp hơn.
  • Tăng thêm dân số, vấn đề việc làm, ô nhiễm môi trường, tác động tới kinh tế xã hội của 1 quốc gia.

– Nguyên nhân:

  • Những hủ tục lỗi thời, quan niệm phong kiến lỗi thời, tôn giáo nặng nề vẫn còn tồn tại trong tư tưởng mỗi người dân.
  • Tư tưởng “sinh nhiều con để sau này còn có cái nhưng mà sướng” và đặc thù là hệ lụy của “trọng nam khinh nữ”.
  • Chưa có sự can thiệp 1 cách mạnh mẽ, nghiêm khắc từ chính quyền địa phương.

– Dẫn chứng cụ thể của thực trạng tăng thêm dân số ở nước ta, và một số nước khác trên toàn cầu.

– So sánh với những gia đình, những quốc gia có tỉ lệ tăng thêm dân số giảm mạnh và có khả năng ko tăng về điều kiện gia đình, cuộc sống của họ.

– Giải pháp:

  • Thực hiện một cách nghiêm túc và đúng mực kế hoạch hóa gia đình.
  • Tự mỗi người chồng người vợ có ý thức hơn, tiến bộ hơn trong việc sinh con.
  • Cơ quan có thẩm quyền, cơ quan công dụng quản lý chặt chẽ hơn.

3. Kết bài: Chốt lại vấn đề, định hướng tương lai về một dân tộc Việt Nam nói riêng và toàn cầu nói chung sẽ ko còn phải lo lắng nhiều về vấn đề tăng thêm dân số nữa. Đời sống của người dân sẽ tốt hơn.

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số – Mẫu 1

Xã hội ngày càng tăng trưởng, nhiều vấn đề nóng bỏng nổi cộm lên thu hút sự quan tâm của dư luận toàn cầu. Một trong những vấn đề được quan tâm nhất hiện nay chính là việc tăng thêm dân số của nước ta.

Nước ta thuộc một trong những quốc gia nghèo, có nền kinh tế chậm tăng trưởng nhưng tỉ lệ tăng thêm dân số lại thuộc top cao trên toàn cầu. Dân số tăng lên, chất lượng các dịch vụ về văn hoá, giáo dục, y tế… cũng sẽ bị suy giảm do phải chạy theo số lượng để phục vụ số đông. Ngoài ra, dân số tăng nhanh tác động tới sự tăng trưởng của nền kinh tế lúc nhiều nguồn phúc lợi phải chi ra để phục vụ nhu cầu của con người.

Nguyên nhân của việc tăng thêm dân số trước nhất phải kể tới do ý thức chủ quan, suy nghĩ của con người: muốn có đông con để vui vầy, muốn có đàn ông nối dõi nên đẻ cố, có con ngoài ý muốn do ko biết cách phòng tránh,… Ngoài ra, nguyên nhân khách quan là do nước ta còn nghèo, chất lượng giáo dục chưa tốt, người dân chưa tưởng tượng ra hậu quả của việc bùng nổ dân số, nhà nước chưa có giải pháp tuyên truyền hiệu quả để người dân biết và hạn chế tăng thêm dân số.

Hậu quả của vấn đề tăng thêm dân số để lại vô cùng nghiêm trọng, trước nhất, nền kinh tế ngày càng đi xuống, sức khỏe người dân ko được đảm bảo đặc thù là người già, phụ nữ và trẻ em. Việc dân số tăng mạnh tác động ko chỉ tới chất lượng đời sống con người nhưng mà còn tác động tới môi trường lúc hiện nay môi trường đang ngày càng bị tàn phá nặng nề. Chúng ta có thể kết luận rằng việc tăng thêm dân số tác động tới mọi phương diện của cuộc sống và làm cho cuộc sống ngày càng suy giảm chất lượng.

Để khắc phục sự bùng nổ dân số hiện nay, trước hết mỗi người dân cần tự nhận thức đúng mực về hậu quả của việc tăng thêm dân số đồng thời có giải pháp hạn chế tối đa tăng thêm dân số bằng cách sinh ít con. Ngoài ra, nhà nước và xã hội cần tích cực tuyên truyền về hậu quả của việc sinh nhiều con và luật định rõ ràng nếu người dân cố ý vi phạm để răn đe người khác.

Mỗi con người một hành động nhỏ nhưng tạo ra một ý nghĩa lớn lao giúp nước nhà tăng trưởng tốt đẹp hơn. Chúng ta hãy tăng lên ý thức và quyết tâm hết mình kiểm soát tình trạng tăng thêm dân số.

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số – Mẫu 2

Viết về hiểm hoạ của việc tăng thêm dân số quá nhanh – một đề tài vừa khó vừa khô khan, tác giả của “Bài toán dân số” đã chọn cách vào đề thật lôi cuốn, vừa thực tiễn, vừa giàu sức thuyết phục. Từ câu chuyện nhà uyên bác kén rể tới 64 ô bàn cờ với một lượng thóc “nhiều tới mức có thể phù khắp bề mặt Trái Đất”, độc giả dễ dàng tưởng tượng về sự tăng thêm dân số chóng mặt với vận tốc sinh sản như hiện nay.

Vấn đề chính nhưng mà tác giả đặt ra trong văn bản này là: Con người đang ngày càng tăng lên gấp bội. Nếu ko hạn chế sự tăng thêm dân số thì con người sẽ tự làm hại chính mình.

Điều làm tác giả “sáng mắt ra” đó là: ko ngờ một vấn đề rất hiện đại mới được đặt ra gần đây (vấn đề dân số kế hoạch hoá gia đình) thế nhưng mà dường như nó đã được đặt ra từ thời cổ điển.

Nhập đề dưới hình thức một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà uyên bác, phần kể của nhà văn đã vừa gây được sự tò mò, lôi cuốn của người đọc, vừa mang lại một kết luận rất bất thần ở phía cuối của câu chuyện kể. Lấy câu chuyện đó làm tiền đề, tác giả đã so sánh ngay với sự bùng nổ và tăng thêm dân số (cả hai đều tăng theo cấp số nhân). Cách so sánh đó, quả thực đã làm cho người đọc tưởng tượng một cách nhanh chóng tới vận tốc tăng thêm kinh khủng của dân số. Và đây cũng chính là trọng tâm vấn đề nhưng mà bài viết muôn nêu lên.

Việc đưa ra tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội nghị Cai-rô là rất có ý nghĩa. Trước hết, nó thông tin cho người ta thấy người phụ nữ có thể sinh rất nhiều con (ít như Việt Nam thì trung bình cũng là 3,7; nhiều như Ru-an-đa thì tới 8,1). Từ đó có thể thấy mục tiêu mỗi gia đình có hai con là rất khó khăn. Thứ hai, các con số thống kê còn cho thấy các nước chậm tăng trưởng lại sinh con rất nhiều.

Các nước được kể trong văn bản thuộc hai nhóm:

– Châu Phi: Nê-pan, Ru-an-đa, Tan-da-ni-a, Ma-đa-gát-xca.

– Châu Á: Ấn Độ và Việt Nam.

Có thể rút ra nhận xét: Những nước kém tăng trưởng ở hai lục địa nêu trên là những nước dân số tăng nhanh. Sự bùng nổ dân số sẽ đi kèm với sự nghèo nàn lỗi thời, kinh tế chậm tăng trưởng, văn hoá, giáo dục ko được tăng lên. Trái lại, kinh tế, văn hoá, giáo dục càng yếu kém thì lại càng ko thể khống chế được sự tăng thêm dân số. Nói cách khác, hai vấn đề này quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động tới nhau một cách thâm thúy.

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số – Mẫu 3

Theo thống kê của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ) đầu năm 2008, tổng số trẻ sinh ra trong quý I năm 2008 đã tăng hơn 18.000 trẻ (tăng 7,2%) so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, có tới 39/64 tỉnh/thành thị có mức sinh tăng mạnh: Sóc Trăng (tăng 41,2%), Sơn La (40%), thành thị Hồ Chí Minh (30,2%), Hà Nội (27,6%), Phú Thọ (23%) Cũng theo Tổng cục DS-KHHGĐ, trong thời kì này, số trẻ mới sinh ra là con thứ 3 khoảng 182.000 trẻ, tăng hơn 35% so với cùng thời khắc năm 2007. Đặc trưng, nhân vật sinh con thứ 3 ko chỉ ngừng lại ở những hộ nông dân nhưng mà gần đây lại tập trung chủ yếu ở nhân vật công chức nhà nước, những gia đình khá giả. Cùng với đó, tỉ lệ mất thăng bằng giới tính cũng đang khá cao, ở nhiều địa phương, số trẻ em trai đã vượt số trẻ em gái từ 20 tới 25%. Có 16 tỉnh/thành thị có tỉ lệ giới tính lúc sinh từ 115 tới 128 nam/100 nữ và 20 tỉnh/thành thị là 111 tới 120 nam/100 nữ.

Xưa nay nay người Việt Nam vẫn thường xem vấn đề “nhập khẩu” vợ là chuyện khác thường, nhưng có thể một ngày gần đây viễn cảnh sẽ hiện hữu như một thực tiễn. Cách đây 10 năm, tỉ lệ giới tính ở Việt Nam ngang bằng với mức độ trung bình của toàn cầu (100 nhỏ gái thì có 105-107 nhỏ trai), nhưng trong vài năm trở lại đây, lúc chúng ta thực hiện cuộc vận động dân số với khẩu hiệu ngừng lại ở 1-2 con để nuôi dạy cho tốt đã góp phần hạn chế mức sinh, nhưng lại làm cho các gia đình phải cân nhắc, lựa chọn giới tính thai nhi để sinh bằng được đàn ông. Hệ quả là, khoảng cách tỉ lệ giới tính (số trẻ em trai/trẻ em gái) ở nước ta ngày càng tăng cao. Cụ thể, năm 2000, tỉ lệ này mới ở mức phổ biến là 106/100, thì tới cuối năm 2007 đã lên tới mức báo động là 126/100. tỉ lệ này tăng thêm theo số lần sinh, đặc thù đối với những gia đình sinh con thứ 3 trở lên. ở nhiều vùng, số lượng nhỏ trai đã vượt số lượng nhỏ gái 20-25%. Mặt khác, tình trạng phụ nữ di trú lấy chồng nước ngoài có xu thế tăng ở một số địa phương. Thực tiễn này ko bao lâu nữa sẽ dẫn tới tình trạng nhiều nhỏ trai lúc trưởng thành sẽ ko lấy được vợ, giống như tình trạng của Trung Quốc. Nguy cơ này có thể dẫn tới sự bất ổn xã hội như: đánh nhau, cưỡng dâm, giao thương phụ nữ qua biên giới… tăng lên.

Khu vực nông thôn, miền núi vẫn còn nặng về quan niệm đàn ông hơn con gái, công việc gia đình là trách nhiệm của riêng phụ nữ, định hướng nghề nghiệp vẫn theo hướng truyền thống… nên việc đầu tư cho trẻ em gái trong học tập ko được chú ý và quan tâm nhiều như với trẻ em trai. Việc làm này tiếp tục là nguy cơ tiềm tàng về trình độ, năng lực và tay nghề của phụ nữ thấp, khiến họ chỉ có thể làm được những công việc ko ổn định, ở những nơi có điều kiện làm việc thiếu thốn, thu nhập thấp, cập kênh, dễ mất việc làm hoặc ko được bảo hiểm tác động tới chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai.

Tới hết năm 2008, Việt Nam sẽ hết thời hạn nhận tài trợ các phương tiện tránh thai (PTTT) hiện đại (bao cao su, thuốc ngừa thai). Theo đó, tới năm 2009, Việt Nam sẽ thiếu 80% số lượng PTTT hiện đại bởi chưa có cam kết phân phối nào từ phía các nhà tài trợ. Theo tính toán của các chuyên gia dân số, mỗi năm, nhu cầu cần 100 – 150 tỉ đồng sắm PTTT nhưng ngân sách nhà nước chỉ giải quyết được khoảng 10%. Đó là một bài toán ngân sách đối với các cơ quan, ban/ngành. Và một thử thách nữa trong vấn đề này là việc xã hội hóa phân phối PTTT ko thu được nhiều kết quả như mong đợi bởi từ nhiều năm nay, nhiều người dân vẫn được phân phối miễn phí thuốc tránh thai, bao cao su. Sự khủng hoảng này là mối dọa nạt hết sức nguy hiểm, rất dễ dẫn tới bùng nổ dân số. Nguyên nhân:

Một là, đời sống của một số gia đình ngày càng khá giả, vấn đề nuôi con ko còn là gánh nặng nên có nhu cầu sinh thêm con.

Hai là, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” theo kiểu “chồng chúa, vợ tôi”, “xuất giá tòng phu”, “mười gái ko bằng một trai” vẫn còn tồn tại trong ý tưởng của một bộ phận dân cư, nhất là ở các vùng ven biển, vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bởi lẽ, họ cho rằng đàn ông có trách nhiệm nhiều hơn con gái trong việc phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ lúc về già và tính liệu ma chay, thờ phụng sau lúc cha mẹ mất, đồng thời tâm lý sinh đàn ông còn để dự phòng trong trường hợp rủi ro (tai nạn, tệ nạn xã hội…).

Ba là, nhiều địa phương còn có cán bộ, đảng viên sinh con thứ 3 trở lên, đã tác động ko tốt tới phong trào vận động nhân dân thực hiện KHHGĐ.

Bốn là, hiểu biết của các cặp vợ chồng về việc sử dụng các giải pháp phòng tránh thai còn hạn chế.

Năm là, tỉ lệ tăng thêm tự nhiên theo quy luật. Với sự tăng trưởng của kinh tế, khoa học và công nghệ, tỉ lệ chết ngày càng giảm, dẫn tới tỉ lệ tăng thêm dân số tự nhiên (tỉ lệ sinh – tỉ lệ chết) ngày càng tăng. tỉ lệ sinh hiện nay ở nước ta ước tính là 15% tỉ lệ chết xấp xỉ 5%, tương tự, chỉ một phép tính thông thường cũng cho thấy, hiện nay tỉ lệ tăng thêm dân số sinh tự nhiên ở nước ta là 10%. Đây là con số cộng dồn cố định vào mức tăng dân số của nước ta mỗi năm.

Sáu là, hàng ngũ cán bộ chuyên trách dân số và hiệp tác viên (CTV) dân số còn mỏng, chất lượng chưa đồng đều, nhiều địa phương cán bộ dân số phải đảm nhiệm khối công việc rất lớn, cơ chế phụ cấp thấp. Mặc dù Nghị quyết số 47 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ phải có chính sách khuyến khích thỏa đáng ý thức và vật chất cho hàng ngũ này, song thực tiễn cho thấy, ngân sách của một số địa phương hiện nay huy động để hỗ trợ, khuyến khích cho lực lượng làm công việc dân số ở cơ sở vẫn còn hạn chế.

Bảy là, nhận thức về công việc DS-KHHGĐ ở nhiều địa phương còn chưa đúng, chưa đồng đều, dẫn tới việc đầu tư nguồn nhân lực làm công việc này còn hạn chế. Chưa kể tới việc ko có chế tài thống nhất xử lý các trường hợp sinh con thứ 3 trở lên, nên hồ hết các địa phương khó thực hiện. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm lãnh đạo công việc DS-KHHGĐ, còn phó mặc cho cán bộ chuyên trách cơ sở…

Tám là, sự thay đổi về tổ chức. Năm 2007, tổ chức bộ máy ngành dân số, gia đình và trẻ em (DSGĐ&TE) có những thay đổi lớn. Việc giải thể Ủy ban DSGĐ&TE, sáp nhập bộ phận dân số về Bộ Y tế (nhưng 6 tháng sau mới có quyết định chính thức thành lập Tổng cục DS-KHHGĐ) đã ít nhiều làm xáo trộn tâm tư của hàng ngũ cán bộ, viên chức làm công việc dân số ở nhiều tỉnh/thành thị trong cả nước, đặc thù là hàng ngũ CTV, cán bộ chuyên trách ở cơ sở ko khỏi băn khoăn, lo lắng. Một trong những trắc trở trước mắt, đó là làm sao duy trì ổn định lực lượng CTV dân số (7.200 người) tại các thôn, bản, xã, phường, những người đã bao năm lăn lộn với phong trào “đi từng ngõ, gõ từng nhà” vận động bà con thực hiện KHHGĐ. Nhờ có hàng ngũ CTV dân số nhưng mà công việc DS – KHHGĐ của các tỉnh/thành thị đã được tăng mạnh, tăng cường tới các thôn, bản vùng sâu, vùng xa, nơi có mức sinh và tỉ lệ sinh con thứ 3 cao.

Chín là, sự tăng trưởng của khoa học và công nghệ. Có thể nói sự mất thăng bằng giới còn có nguyên nhân hậu sự tăng trưởng của khoa học và công nghệ. Y khoa ngày càng tăng trưởng đã giúp việc sinh con theo ý muốn, làm cho tỉ lệ nhỏ trai được sinh ra tăng lên rõ rệt. Thông qua sự hỗ trợ của các giải pháp như siêu âm, lựa chọn giới tính nhờ ăn uống, các cặp vợ chồng có thể lựa chọn giới tính thai nhi theo mong muốn.

Mất thăng bằng giới tính, mức sinh có xu thế tăng trở lại, thế tất sẽ tác động xấu tới sự tăng trưởng của xã hội. Do đó, chúng ta cần có một chiến lược đầu tư trong khoảng thời gian dài cho công việc dân số – sức khỏe sinh sản. Giải pháp quan trọng nhất chính là tăng cường thông tin – giáo dục – truyền thông, đi đôi với việc sẵn sàng các dịch vụ kỹ thuật hỗ trợ, nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ sức khỏe sinh sản lành mạnh. Tăng mạnh hoạt động tuyên truyền tăng lên nhận thức cho người dân, các sở, ban, ngành, đoàn thể về công việc dân số, trong đó trọng tâm là tạo sự chuyển đổi hành vi tự nguyện và vững bền về công việc dân số nói chung và sức khỏe sinh sản, KHHGĐ nói riêng. Đặc trưng, trong thời khắc hiện nay, việc ổn định cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ máy mới sau lúc tách nhập lĩnh vực DSGĐ&TE về các ngành cần được thực hiện nhanh chóng. Cần thực hiện chế tài về dân số một cách nghiêm túc. Cán bộ, người lao động viên chức nhà nước sinh con thứ 3 trở lên phải bị xử lý kỷ luật theo quy định của Nhà nước; thành viên của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội sinh con thứ 3 trở lên thì bị xử lý theo quy định của quy chế, quy định của đoàn thể, tổ chức; đảng viên sinh con thứ 3 trở lên thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của Đảng. Ngoài ra, cần chú trọng việc biểu dương những tấm gương phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà để thay đổi cách nhìn nhận của nam giới về năng lực của người phụ nữ. Phụ nữ, họ ko chỉ là những người chỉ giỏi việc nhà nhưng mà họ còn có khả năng làm rất tốt những công việc bên ngoài xã hội.

Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số – Mẫu 4

Tăng thêm dân số là một trong những vấn đề quan trọng của non sông ta. Đó cũng là vấn đề nhưng mà mỗi người cần quan tâm và có trách nhiệm đặc thù là với thế hệ thanh niên.

Tăng thêm dân số chóng mặt chính là nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện tượng bùng nổ dân số, kéo theo đó là nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Tăng thêm dân số có thể kéo theo việc tạo gánh nặng lên quỹ bảo hiểm xã hội cùng với đó là hàng loạt các vấn đề không giống nhau như gây sức ép lên tài nguyên tự nhiên, vấn đề an sinh xã hội, ô nhiễm môi trường, nguồn lao động.

Vấn đề dân số có tác động rất lớn tới nền kinh tế của mỗi nước. Ở một số quốc gia tăng trưởng, dân số già, thiếu nguồn lao động thì có những chủ trương khuyến khích người dân sinh nở, tạo điều kiện để các gia đình linh động hơn trong việc sinh con bằng các chính sách hỗ trợ chăm sóc bà mẹ và em nhỏ, hỗ trợ kinh phí cho đứa trẻ tới trường… Trái lại, đối với những quốc gia dân số đông và tỉ lệ tăng thêm dân số cao thì cần vận dụng những chính sách kế hoạch hóa gia đình để hạn chế tăng thêm dân số. Ví dụ tiêu biểu là non sông Trung Quốc với chính sách mỗi gia đình chỉ được sinh một con và chính sách đó chỉ vừa mới được huỷ bỏ vào năm 2015 sau 35 năm thực hiện.

Ở Việt Nam, với tư tưởng trời sinh voi trời sinh cỏ, con cái là lộc trời cho rồi tư tưởng trọng nam khinh nữ đã làm cho các gia đình cứ vô tư sinh nở, càng nhiều con càng có lộc. Điều này đã khiến dân số nước ta ko ngừng tăng thêm chóng mặt trong những năm vừa qua. Tuy nhiên chúng ta cũng rất quan tâm tới vấn đề dân số và đã có nhiều giải pháp để thực hiện những chính sách này như tuyên truyền vận động người dân hiểu và thực hiện chính sách dân số. Thực hiện mỗi gia đình chỉ có nhiều nhất 2 con. Có các chế tài xử phạt đối với những gia đình sinh nở vỡ kế hoạch.

Là những học trò thế hệ rường cột tương lai của non sông, tuổi xanh hôm nay phải có những nhận thức rõ ràng về hệ quả của việc tăng thêm dân số. Đồng thời các bạn cũng cần phải hiểu được những vấn đề có thể gặp phải nếu tăng thêm dân số quá nhanh từ đó hiểu được trách nhiệm của mình đối với vấn đề này.

Đối với bản thân, mỗi bạn phải có nhận thức rõ ràng, tự chủ và hiểu biết. Ko để bản thân bị lôi kéo, dụ dỗ vào những thói hư tật xấu, những lời ve vãn của các nhân vật xấu. Ko quan hệ tình dục nhưng mà ko sử dụng các giải pháp an toàn. Thực hiện nghiêm túc chính sách kế hoạch hóa gia đình. Tránh tình trạng như hiện nay, có rất nhiều vụ xâm hại, cưỡng bức trẻ vị thành niên có thể xảy ra. Rồi đây đó lại có một vụ thành hôn nhưng mà cô dâu chú rể chỉ mười mấy tuổi, còn là độ tuổi vị thành niên. Đối với số đông xã hội, các bạn trẻ phải có tri thức rõ ràng về vấn đề tăng thêm dân số mới có thể tuyên truyền vận động người dân thực hiện các chính sách dân số.

Vấn đề dân số là vấn đề của toàn xã hội, đối với tất cả các nhân vật, nếu chúng ta còn tránh né và rụt rè với những vấn đề này thì tình trạng sẽ xảy ra và ngày càng nghiêm trọng hơn. Chính vì vậy cách tốt nhất để phòng tránh nó chính là hiểu rõ về nó và có ý thức chủ động thực hiện. Mỗi một bạn trẻ lại là một lao động tương lai của non sông, là những phụ huynh tiếp theo vì vậy hãy cùng chung tay góp sức ngay từ hiện giờ để xây dựng một xã hội văn minh văn hóa hơn, đảm bảo cuộc sống và sự tăng trưởng của con người là tốt nhất.

[rule_{ruleNumber}]

[rule_{ruleNumber}]

#Nghị #luận #về #vấn #đề #gia #tăng #dân #số #hiện #nay

Bạn thấy bài viết Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số hiện nay có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu  ko hãy comment góp ý thêm về Nghị luận về vấn đề tăng thêm dân số hiện nay bên dưới để thpttranhungdao.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website Trường THPT Trần Hưng Đạo

Phân mục: Văn học
#Nghị #luận #về #vấn #đề #gia #tăng #dân #số #hiện #nay