Năng lực trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 – 123docz.net

4. Tổ chức hoạt động bồi dưỡng

1.1.1.2. Năng lực trong chương trình giáo dục phổ thông 2018

Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ vào các tố chất và quá
trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kinh nghiệm, kĩ năng
và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí, … thực hiện đạt kết quả các
hoạt động trong những điều kiện cụ thể.

CT GDPT 2018 đã xác định mục tiêu hình thành và phát triển cho HS các năng lực cốt
lõi bao gồm các năng lực chungcácnăng lực đặc thù. Năng lực chung là những năng
lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi, làm nền tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc
sống và lao động nghề nghiệp. Năng lực đặc thù là những năng lực được hình thành và phát
triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại
hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt
động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu của một hoạt động như toán học, âm nhạc, mĩ thuật, thể
thao…

a. Các năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua các môn học và hoạt
động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết
vấn đề và sáng tạo;

b. Các năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn
học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa
học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ và năng lực thể chất.

Các yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu, năng lực chung đã được thể hiện rõ trong
văn bản CT GDPT 2018. Các yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù gắn liền với các nội dung
dạy học và giáo dục được quy định trong văn bản CT từng môn học, hoạt động giáo dục
(Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018).

1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực

Quá trình hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực HS phổ thông chịu sự chi phối
của các yếu tố chủ yếu sau:

Các yếu tố bẩm sinh – di truyền của phẩm chất được biểu hiện bằng các tố chất sẵn
có và năng lực được biểu hiện bằng những khả năng sẵn có. Quá trình hình thành và phát

39

triển phẩm chất, năng lực có tiền đề từ các yếu tố này. Cụ thể hơn, các khả năng sẵn có nếu
được phát hiện kịp thời và giáo dục đúng cách thì năng lực mới được phát huy. Nếu không
đảm bảo như vậy, mầm mống và các tố chất của cá nhân có nguy cơ mai một. Do vậy, sự
hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực chịu ảnh hưởng của yếu tố tiền đề là bẩm sinh
– di truyền nhưng không do yếu tố này quyết định.

Hoàn cảnh sống có tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và

phát triển phẩm chất, năng lực của cá nhân. Sống trong môi trường luôn được vun đắp bằng
quan hệ tốt đẹp giữa người với người, cá nhân sẽ có điều kiện hình thành và phát triển phẩm
chất tốt đẹp. Tuy nhiên, hoàn cảnh sống cũng không có vai trò quyết định đối với việc hình
thành và phát triển phẩm chất và năng lực của cá nhân.

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển phẩm chất,
năng lực của cá nhân. Giáo dục sẽ định hướng cho sự phát triển phẩm chất, năng lực, phát
huy các yếu tố bẩm sinh – di truyền, đồng thời giáo dục cũng khắc phục được một số biểu
hiện của phẩm chất chưa phù hợp. Tuy vậy, giáo dục không quyết định mức độ phát triển
và xu hướng phát triển của mỗi cá nhân.

Phẩm chất và năng lực của cá nhân còn được hình thành và phát triển do cá nhân tự
học tập và rèn luyện. Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển
phẩm chất, năng lực của con người nói chung và của HS phổ thông nói riêng.

Giáo dục nói chung, giáo dục nhà trường nói riêng có vai trò chủ đạo đối với sự hình
thành, phát triển phẩm chất và năng lực; trong đó cần thực hiện khai thác vai trò của chúng
thông qua việc tổ chức các hoạt động học. Song song đó, cần quan tâm đến cá nhân mỗi
HS, gồm năng khiếu, phong cách học tập, các loại hình trí thông minh, tiềm lực và nhất là
khả năng hiện có, triển vọng phát triển (theo vùng phát triển gần nhất) của mỗi HS… để
thiết kế các hoạt động học hiệu quả. Đồng thời, cần chú trọng phát triển năng lực tự chủ, tự
học vì yếu tố “cá nhân tự học tập và rèn luyện” đóng vai trò quyết định đến sự hình thành
và phát triển phẩm chất, năng lực của mỗi HS. Như vậy, việc tổ chức các hoạt động học
của HS phải là trọng điểm của quá trình dạy học, giáo dục để đạt được mục tiêu phát triển
phẩm chất, năng lực HS.

1.1.3. Dạy học và giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực

1.1.3.1. So sánh dạy học tiếp cận nội dung và dạy học phát triển phẩm chất, năng lực

Dạy học tiếp cận nội dung và dạy học phát triển phẩm chất, năng lực có những khác
biệt nhất định về mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, PPDH, đánh giá … Có thể liệt kê
một số khác biệt cụ thể đó ở bảng 1.1.

40

Tiêu chí Dạy học tiếp cận nội dung Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực
Về mục
tiêu dạy
học
– Chú trọng hình thành kiến thức, kĩ
năng, thái độ khá rõ.
– Mục tiêu học để thi, học để
hiểu biết được ưu tiên.

– Chú trọng hình thành phẩm chất và năng
lực.
– Lấy mục tiêu học để làm, học để cùng
chung sống làm trọng.
Về nội
dung dạy
học

– Nội dung được lựa chọn dựa trên hệ
thống tri thức khoa học chuyên ngành
là chủ yếu.

– Nội dung được quy định khá chi tiết
trong CT.

– Chú trọng hệ thống kiến thức lí
thuyết, sự phát triển tuần tự của các
khái niệm, định luật, học thuyết khoa
học.

– Sách giáo khoa được trình bày liền
mạch thành hệ thống kiến thức.

– Nội dung được lựa chọn dựa trên yêu cầu
cần đạt được về phẩm chất, năng lực.
– Chỉ xác lập các cơ sở để lựa chọn nội
dung trong CT.

– Chú trọng nhiều hơn đến các kĩ năng thực
hành, vận dụng lí thuyết vào thực tiễn.
– Sách giáo khoa không trình bày thành hệ
thống kiến thức mà phân nhánh và khai
thác các chuỗi chủ đề để gợi mở tri thức, kĩ
năng.

Về
phương
pháp dạy

học

– GV chủ yếu là người truyền thụ tri
thức; HS lắng nghe, tham gia và thực
hiện các yêu cầu tiếp thu tri thức
được quy định sẵn. Khá nhiều GV sử
dụng các PPDH (thuyết trình, hướng
dẫn thực hành, trực quan…). Việc sử
dụng PPDH theo định hướng của GV
là chủ yếu.

– Khá nhiều HS tiếp thu thiếu tính
chủ động, HS chưa có nhiều điều
kiện, cơ hội tìm tòi, khám phá vì
những tri thức được quy định sẵn.
– KHBD thường được thiết kế theo
tuyến tính, các nội dung và hoạt động
dùng chung cho cả lớp; PP, KTDH dễ
có sự lặp lại, quen thuộc.

– GV là người tổ chức các hoạt động,
hướng dẫn HS tự tìm tòi, chiếm lĩnh tri
thức, rèn luyện kĩ năng; chú trọng phát
triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng
giao tiếp… GV sử dụng nhiều PP, KTDH
tích cực (giải quyết vấn đề, hợp tác, khám
phá…) phù hợp với yêu cầu cần đạt về
phẩm chất và năng lực của HS.

– HS chủ động tham gia hoạt động, có
nhiều cơ hội được bày tỏ ý kiến, tham gia
phản biện, tìm kiếm tri thức, kĩ năng.
– KHBD được thiết kế dựa vào trình độ và
năng lực của HS; PP, KTDH đa dạng,
phong phú, được lựa chọn dựa trên các cơ
sở khác nhau để triển khai Kế hoạch bài
dạy.

Về môi
trường
học tập

GV thường ở vị trí phía trên, trung
tâm lớp học và các dãy bàn ít được
bố trí theo nhiều hình thức khác
nhau.

Môi trường học tập có tính linh hoạt, phù
hợp với các hoạt động học tập của HS, chú
trọng yêu cầu cần phát triển ở HS để đa
dạng hóa hình thức bàn ghế, bố trí phương
tiện dạy học.

Về đánh
giá

– Tiêu chí đánh giá chủ yếu được xây
dựng dựa trên sự ghi nhớ nội dung đã
học, ít quan tâm đến khả năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn.

– Quá trình đánh giá chủ yếu do GV
thực hiện.

– Tiêu chí đánh giá dựa vào kết quả “đầu
ra”, quan tâm tới sự tiến bộ của HS, chú
trọng khả năng vận dụng kiến thức đã học
vào thực tiễn, các phẩm chất và năng lực
cần có.

– HS được tự đánh giá và được tham gia
vào đánh giá lẫn nhau…

41

Về sản
phẩm giáo

dục

– HS chủ yếu tái hiện các tri thức,
phải ghi nhớ phụ thuộc vào tài liệu và
sách giáo khoa có sẵn.

– Việc chú ý đến khả năng ứng dụng
chưa nhiều nên yêu cầu về tính năng
động, sáng tạo vẫn còn hạn chế.

– HS vận dụng được tri thức, kỹ năng vào
thực tiễn, khả năng tìm tòi trong quá trình
dạy học đã được phát huy nên năng lực ứng
dụng cũng có cơ hội phát triển.

– Chú ý đến khả năng ứng dụng nhiều nên
sự năng động, tự tin ở HS biểu hiện rõ.

1.1.3.2. Các nguyên tắc dạy học và giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực
a. Nội dung dạy học, giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, thiết thực, hiện đại

Nội dung dạy học, giáo dục đảm bảo tính cơ bản có nghĩa là nội dung dạy học, giáo
dục được chọn lọc bao gồm các nội dung chính, chủ yếu, tập trung vào các nội dung mang
tính bản chất mà không tập trung vào các nội dung không chính yếu, không phải bản chất
của sự vật, hiện tượng. Nội dung dạy học, giáo dục đảm bảo tính thiết thực có nghĩa là nội
dung dạy học, giáo dục trong từng môn học, hoạt động giáo dục cần sát thực, phù hợp với
những yêu cầu, đòi hỏi của thực tế. Nội dung dạy học, giáo dục đảm bảo tính hiện đại đòi
hỏi nội dung dạy học, giáo dục phải mới, tiên tiến, áp dụng được những thành tựu của khoa
học, kĩ thuật trong các lĩnh vực trong thời gian gần đây, nhất là việc vận dụng chúng trong
thực tiễn.

Năng lực được coi là sự huy động kiến thức, kĩ năng, niềm tin … để HS thực hiện thành
công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
Theo đó, dạy học phát triển phẩm chất, năng lực đặt ra yêu cầu cốt lõi là tập trung vào
những gì HS cần có (kiến thức, kĩ năng, niềm tin …) để từ đó họ có thể “làm” được những
việc cụ thể, hữu ích hơn là tập trung vào những gì mà HS biết hoặc không biết. Vì vậy, các
nội dung dạy học cần được chắt lọc. Trong đó, các nội dung kiến thức hàn lâm, giáo điều
sẽ gây ra những thách thức không cần thiết trong học tập của HS (giảm động cơ học tập,
hứng thú, niềm tin, sự đáp ứng nhu cầu xã hội về nguồn nhân lực …) đồng thời không tạo
điều kiện giúp HS tiếp cận, giải thích, giải quyết các đòi hỏi sát sườn của đời sống thực tế.
Ngược lại, việc chọn lọc, sử dụng các kiến thức cơ bản, trọng tâm sẽ giúp HS có cơ hội và
thời gian tập trung phát triển những nền tảng vững chắc cho các năng lực cốt lõi.

Cùng với đó, việc giúp HS tiếp cận các nội dung kiến thức thiết thực, hiện đại cùng với
phương pháp tư duy và học tập tích cực chính là nhằm tạo cơ hội giúp HS rèn luyện kĩ năng,
từng bước hình thành, phát triển năng lực giải quyết các tình huống và vấn đề thực tiễn; từ
đó có cơ hội hoà nhập, hội nhập quốc tế để cùng tồn tại, phát triển … Đây cũng chính là ý
nghĩa quan trọng bởi nội dung dạy học mà HS sở hữu sẽ được vận dụng thích ứng với bối
cảnh hiện đại và không ngừng đổi mới.

b. Đảm bảo tính tích cực của học sinh khi tham gia vào hoạt động học tập

Tính tích cực của người học được biểu hiện thông qua hứng thú, sự tự giác học tập,
khát vọng thông hiểu, sự nỗ lực chiếm lĩnh nội dung học tập. Đảm bảo tính tích cực của
người học khi tham gia vào hoạt động học tập là việc đảm bảo việc tạo ra hứng thú, sự tự
giác học tập, khát khao và sự nỗ lực chiếm lĩnh nội dung học tập của người học. Đây là một
nguyên tắc quan trọng trong dạy học phát triển phẩm chất, năng lực.

42

Năng lực chỉ hình thành khi kiến thức, kĩ năng được chuyển hóa thành hoạt động của
một chủ thể nhất định. Do đó, trong dạy học, GV cần tổ chức các hoạt động học tập để HS
tích cực, chủ động huy động kiến thức, kĩ năng hoàn thành nhiệm vụ học tập hoặc giải quyết
những tình huống trong thực tiễn. Mỗi HS có năng lực sẽ khác nhau tùy theo cá nhân huy
động chúng vào các hoạt động học ở mức độ nào. Điều này phản ánh rằng cùng một môi
trường học tập, những cá nhân khác nhau sẽ có năng lực khác nhau. Như vậy, trong dạy
học, giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực của HS, tính tích cực của HS là một trong
những biểu hiện và cũng là kết quả cần đảm bảo khi tổ chức hoạt động học tập.

c. Tăng cường những hoạt động thực hành, trải nghiệm cho học sinh

Tăng cường những hoạt động thực hành, trải nghiệm cho HS chính là việc tổ chức
thường xuyên hơn, đồng thời cũng đầu tư hơn về chất lượng những hoạt động thực hành,
trải nghiệm cho HS. Thực hành là hoạt động áp dụng lí thuyết vào thực tế để hình thành kĩ
năng ở người học – thành phần quan trọng của năng lực. Thực hành là cơ sở để hình thành
năng lực. Trải nghiệm là hoạt động tổ chức cho người học được quan sát, làm thử, làm thử
giả định trong tư duy (dựa trên đặc trưng của thực nghiệm), sau đó, người học phân tích,
suy ngẫm, chiêm nghiệm về việc quan sát, làm qua và kết quả của nó. Quy trình chung của
trải nghiệm tập trung giúp người học hình thành và phát triển các năng lực chung và các
năng lực đặc thù ứng với từng chủ đề trải nghiệm cụ thể.

Thông qua các hoạt động thực hành, trải nghiệm, HS có cơ hội để huy động và vận
dụng kiến thức, kĩ năng trong môn học và hoạt động giáo dục để giải quyết các tình huống
có thực trong học tập và cuộc sống, từ đó người học hình thành, phát triển các phẩm chất
và năng lực. Tăng cường hoạt động thực hành, trải nghiệm cho HS là một nguyên tắc không
thể thiếu của dạy học, giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực đòi hỏi từng môn học, hoạt
động giáo dục phải khai thác, thực hiện một cách cụ thể, có đầu tư.

d. Tăng cường dạy học, giáo dục tích hợp

Tăng cường dạy học, giáo dục tích hợp chính là việc tổ chức nhiều hơn về số lượng,
đầu tư hơn về chất lượng những nhiệm vụ học tập đòi hỏi HS phải huy động, tổng hợp kiến
thức, kĩ năng,… thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết. Tăng cường dạy học, giáo
dục tích hợp giúp người học phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải
quyết vấn đề dựa trên hiểu biết, kinh nghiệm và khả năng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Bên
cạnh đó, dạy học, giáo dục tích hợp còn kết nối, tạo ra mối quan hệ giữa các môn học với
nhau và với thực tiễn, tránh trùng lặp về nội dung. Thông qua chuỗi hoạt động có liên quan
đến chủ đề với những hình thức khác nhau sẽ góp phần tác động tổng hợp, hình thành phẩm