Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta hiện nay

Ảnh minh họa

1. Thành tựu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn qua gần 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn là một trong những quyết định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Sau khi được ban hành, Nghị quyết đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và tạo nên những đổi thay to lớn, sâu sắc theo chiều hướng tích cực đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta. Cụ thể:

Thứ nhất, mặc dù liên tục đối diện với thiên tai, dịch bệnh phức tạp, nhưng gần 15 năm qua, nông nghiệp nước ta phát triển tương đối toàn diện và đạt nhiều kết quả quan trọng. Tư duy về ngành nông nghiệp thay đổi từ “sản xuất nông nghiệp” sang “phát triển kinh tế nông nghiệp”. Sản xuất nông nghiệp được cơ cấu lại và chuyển biến theo hướng sản xuất hàng hóa, liên kết theo chuỗi giá trị, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, gắn với thị trường trong nước và quốc tế; phát huy tiềm năng, lợi thế vùng, miền, phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu… Năm 2020, tỷ trọng lao động nông, lâm, thủy sản trong tổng số lao động xã hội còn khoảng 32,8%, giảm mạnh so với 44% năm 2015, vượt mục tiêu Đại hội lần thứ XII của Đảng đề ra (dưới 40%)(1). Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch, hữu cơ ngày càng được chú trọng. Các mô hình liên kết, hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ nông sản phát triển đa dạng, hiệu quả, như mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, “doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao”, “chuỗi sản xuất, thương mại, chế biến, phân phối sản phẩm khép kín”; các hình thức hợp tác, hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012 phát huy hiệu quả khá tốt. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc gia giảm, nhưng tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp liên tục được cải thiện.

Năm 2010, nông nghiệp tăng trưởng với tốc độ 0,49%; năm 2018 đạt 3,76%; năm 2020, trong khi tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế khác đều giảm sâu thì nông nghiệp vẫn đạt 2,68%. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản gắn với ứng dụng công nghệ cao phát triển nhanh. Chương trình “mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được triển khai từ năm 2018 cho thấy triển vọng rất tích cực. Sự phát triển nông nghiệp, trong đó có sản xuất lúa, không chỉ bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc gia, mà còn hướng mạnh vào xuất khẩu. Xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đứng thứ 2 Đông Nam Á, thứ 15 thế giới và nông sản Việt Nam đã có mặt ở trên 196 quốc gia, vùng lãnh thổ(2).

Thứ hai, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới với định hướng nông thôn mới là nền tảng, cơ cấu lại nông nghiệp là căn bản, nông dân là chủ thể đã đạt được thành tựu rất quan trọng. Xây dựng nông thôn mới trở thành phong trào rộng khắp cả nước, đạt được những kết quả to lớn, toàn diện và mang tính lịch sử. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội thiết yếu ở nông thôn ngày càng hoàn thiện, được đầu tư, nâng cấp và từng bước hiện đại hóa. Giao thông, thủy lợi, hệ thống điện, trường học, y tế, nhà văn hóa, trung tâm thương mại được đầu tư xây dựng tương đối đồng bộ. Hiện có trên 97% số xã có đường giao thông từ trụ sở xã đến ủy ban nhân dân huyện được nhựa hóa, bê tông hóa; gần 80% số xã đã trải nhựa, bê tông đường ngõ, xóm; trên 64% số đường trục chính nội đồng được cứng hóa bảo đảm vận chuyển hàng hóa thuận tiện quanh năm. Đến nay, 100% số xã, 99,1% số hộ nông thôn có điện. Năm 2010, chỉ có 42% số xã có nhà văn hóa, 43% số thôn có nhà văn hóa, đến 2019 có khoảng 79% số xã có nhà văn hóa, trung tâm thể thao, trong đó 71% đạt chuẩn; 79,2% số thôn có nhà văn hóa, khu thể thao, trong đó 65% đạt chuẩn. Đến năm 2020, 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện duy trì phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; 99,8% số xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; năm 2018, tỷ lệ xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở là 100%; 100% số xã có trạm y tế, trong đó 99,4% xã có nhà trạm. Việc cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho người dân nông thôn đạt khoảng 94,84%(3)… Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới hoàn thành sớm gần 02 năm so với kế hoạch và đã tạo bước đột phá làm thay đổi diện mạo nông thôn nước ta. Đến giữa năm 2021, có 351 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 38 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu(4).

Thứ ba, vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới ngày càng rõ và được thực hiện hiệu quả hơn. Hộ nông dân là đơn vị kinh tế chủ lực; kinh tế trang trại phát triển nhanh, hiệu quả; kinh tế hợp tác có đổi mới và phát triển đa dạng(5). Theo đó, thu nhập của cư dân nông thôn ngày càng tăng (năm 2010 mới chỉ đạt 12,8 triệu đồng/người, năm 2020 đạt 43 triệu đồng/người), đời sống vật chất, tinh thần không ngừng được cải thiện. Nhờ sự dịch chuyển tích cực về cơ cấu kinh tế nông thôn nên đã giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động phi nông nghiệp và dịch vụ ngay ở nông thôn. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm nhanh (bình quân khoảng 1,5%/năm), từ 17,3% năm 2010 (theo tiêu chí cũ) xuống 7,03% năm 2018 và đến năm 2020 còn dưới 3%.

Sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, tạo sinh kế, việc làm, thu nhập ổn định cho phần lớn cư dân nông thôn, qua đó góp phần quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát triển của đất nước(6). Như vậy, qua gần 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, nông dân tiếp tục thể hiện, khẳng định vai trò chủ thể to lớn trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn.

Với những thành tựu trên, qua hơn 35 năm đổi mới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã có đóng góp quan trọng làm cho tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước ta không ngừng được nâng cao. Những năm gần đây, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, nông nghiệp, nông dân, nông thôn tiếp tục khẳng định vai trò là “phao cứu sinh”, che đỡ cho công nghiệp, đô thị và là trụ đỡ về kinh tế – xã hội của đất nước.

2. Một số vấn đề cấp thiết đặt ra trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta vẫn còn những hạn chế, bất cập và nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết. Cụ thể:

Một là, quy mô sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún, giá trị gia tăng thấp. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô, giá trị thấp, thiếu bền vững. Đổi mới hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp còn diễn ra chậm, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ; đa số doanh nghiệp và hợp tác xã có quy mô nhỏ, hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế.

Hai là, nông nghiệp Việt Nam chưa thực sự chuyển mình theo hướng công nghiệp, hiện đại, gắn với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Quy hoạch sản xuất còn chủ quan, duy ý chí, chưa bám sát, dự báo đúng nhu cầu của thị trường. Sự gắn kết giữa sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến; giữa nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học còn yếu dẫn tới thực trạng một nền sản xuất giá trị thấp, nhiều rủi ro, thiếu bền vững. Năng lực mở rộng thị trường và dự báo thị trường cho sản xuất, tiêu thụ nông sản còn nhiều hạn chế; nhiều nông sản, nhất là nông sản thô đang quá lệ thuộc vào một vài thị trường nhất định. Nghịch lý “được mùa rớt giá” vẫn thường xuyên lặp lại. Việc ứng dụng, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao vào phát triển nông nghiệp, nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Người dân và doanh nghiệp vẫn còn khó tiếp cận đối với hoạt động tín dụng; “tín dụng đen” vẫn tồn tại ở nhiều địa bàn nông thôn.

Ba là, một số địa bàn nông thôn nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm nguồn nước ở sông, kênh mương; tình trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi; phát triển công nghiệp, làng nghề thiếu quy hoạch; vệ sinh an toàn thực phẩm, nông sản chưa bảo đảm. Không ít tệ nạn xã hội nảy sinh làm cho tình hình an ninh trật tự ở nhiều địa bàn nông thôn trở nên phức tạp như: ma túy, cờ bạc, tín dụng đen, trộm cắp, mại dâm, bạo lực gia đình…

Kết quả xây dựng nông thôn mới có sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, địa phương: có tỉnh 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, có địa phương đã chuyển sang giai đoạn nâng cao và xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, nhưng vẫn còn địa phương khác có số xã đạt chuẩn rất thấp, dưới 20%(7). Hệ thống hạ tầng kinh tế – xã hội được đầu tư lớn nhưng không được bảo dưỡng, duy tu, sử dụng hiệu quả, đang trở nên xuống cấp, lãng phí. Trong khi đó, hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhất là năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ cơ sở, trong điều kiện chuyển đổi số, hội nhập quốc tế sâu rộng.

Bốn là, năng lực làm chủ và vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới có mặt còn bất cập, hạn chế. Phần đông nông dân eo hẹp về nguồn lực, nhiều lao động lớn tuổi, thiếu kiến thức về sản xuất hàng hóa, thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, chủ yếu sản xuất theo kinh nghiệm, phong trào. Một bộ phận nông dân còn thụ động, cam chịu số phận, định mệnh. Một bộ phận lao động nông thôn sau khi dịch chuyển sang công nghiệp, dịch vụ ở thành phố, đô thị hay đi xuất khẩu lao động nước ngoài lại quay về nông thôn (vì hết hạn hợp đồng, dịch bệnh, tuổi tác, kỹ năng, tay nghề không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp FDI) mang theo nhiều khó khăn, phức tạp cả về việc làm, đời sống, gia đình, văn hóa và an sinh xã hội… Người nông dân vẫn thường ở thế yếu trong hệ thống liên kết kinh tế và trong không ít các quyết định ở nông thôn.

Nông dân có vai trò đóng góp to lớn, quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của đất nước, nhất là trong khủng hoảng kinh tế và tác động của đại dịch COVID-19 nhưng trên thực tế, nông dân lại là bộ phận nghèo nhất trong xã hội. Thu nhập bình quân của nông dân thấp, chưa bằng 1/3 thu nhập bình quân của lao động công nghiệp, dịch vụ(8). Tỷ lệ đói nghèo vẫn chủ yếu thuộc cư dân nông thôn. Hiện có trên 90% hộ nghèo của cả nước đang sống ở nông thôn, nhất là vùng dân tộc thiểu số và miền núi(9). So với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, nông dân vẫn là đối tượng yếu thế chịu nhiều rủi ro trong sản xuất và đời sống.

Năm là, thể chế chính sách, pháp luật còn nhiều bất cập, nhất là chính sách, pháp luật về đất đai, tín dụng, bảo vệ môi trường, về ứng dụng khoa học, kỹ thuật, phát triển doanh nghiệp nông nghiệp, về thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến nông sản, về bảo hiểm nông nghiệp, về phát triển các hình thức liên kết, hợp tác sản xuất theo chuỗi giá trị, về thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng…

3. Phương hướng, giải pháp phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Hiện nay và trong thời gian tới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài, đan xen cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức phức tạp. Đó là tác động mạnh mẽ, sâu sắc của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa ở trong nước và quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng với yêu cầu “thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”(10). Đó là tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, thiên tai, dịch bệnh xuyên biên giới và những tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ, yêu cầu chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững… Để tiếp tục giữ vững, phát huy vai trò, thành quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập và những vấn đề đặt ra trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta, đòi hỏi Đảng, Nhà nước cần phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chủ trương, chính sách, đề ra các nhiệm vụ và giải pháp phù hợp.

– Về phương hướng

Thứ nhất, tiếp tục khẳng định, nhấn mạnh quan điểm đúng đắn của Đảng về vị trí, vai trò chiến lược của vấn đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, trong bối cảnh mới, cần nhận thức rõ hơn: “Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông dân, nông nghiệp, nông thôn, nông dân là chủ thể, là trung tâm; nông nghiệp là động lực; nông thôn là nền tảng của phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới”(11).

Thứ hai, tiếp tục “cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”(12). Theo đó, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là thành tố cơ bản của việc đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của đất nước hiện nay. Mô hình, mục tiêu chung của phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta đến năm 2030, tầm nhìn 2045 là “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”.

Thứ ba, đổi mới, hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là khâu đột phá để huy động và phát huy hiệu quả các nguồn lực, sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng xã hội, nhất là vai trò chủ thể của cư dân nông thôn nhằm thực hiện thắng lợi mô hình “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”.

– Một số giải pháp chủ yếu

Một là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ, phát huy nguồn lực đầu tư bảo đảm phát triển nông nghiệp, nông thôn nhanh và bền vững. Trước hết cần hoàn thiện thể chế, pháp luật để thuận lợi cho việc quy hoạch, tích tụ, tập trung đất đai, áp dụng kỹ thuật, công nghệ cao, cơ giới hóa và đi lên sản xuất lớn hiện đại. Cần nghiên cứu sửa đổi Luật Đất đai năm 2013, đồng bộ hóa thể chế, pháp luật về đất đai bảo đảm nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân; tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt về thể chế trong lĩnh vực đất đai phải phù hợp với cơ chế thị trường; khắc phục tình trạng nông dân giữ đất rồi bỏ hoang trong khi doanh nghiệp thiếu đất sản xuất, kinh doanh; khắc phục tình trạng nông, lâm trường vừa thực hiện chức năng sản xuất, kinh doanh, vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ thể thu hồi đất, chủ thể bị thu hồi đất tạo môi trường, cơ chế minh bạch để tích tụ, tập trung đất đai nhằm phát triển nông nghiệp hàng hóa lớn và bảo đảm sinh kế ổn định, bền vững cho người dân có đất bị thu hồi…

Có cơ chế, chính sách đủ sức hấp dẫn để thu hút, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến, tiêu dùng nông sản làm nòng cốt thúc đẩy hợp tác, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, phát triển thị trường ở nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Đổi mới, hoàn thiện chính sách hướng nghiệp, đào tạo nghề cho cư dân nông thôn. Đổi mới, phát triển chính sách tài chính, tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển nông nghiệp trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm, vùng miền; gắn sản xuất với chế biến, với nhu cầu thị trường, theo chuỗi giá trị, theo vùng chuyên canh, tập trung, không ngừng nâng cao giá trị nông sản.

Hai là, gắn kết phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, du lịch, dịch vụ để kéo dài chuỗi giá trị và gia tăng giá trị cho ngành nông nghiệp, đồng thời tạo dựng khu vực nông thôn phát triển đồng bộ, toàn diện. Điều này không chỉ tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển, mà còn tạo ra khu vực nông thôn với cơ cấu việc làm đa dạng; người lao động có thể ly nông mà không cần ly hương. Để thực hiện giải pháp này, cần có một cách tiếp cận tổng thể trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở cấp quốc gia và ở các địa phương; cần sự phối hợp chặt chẽ và liên kết trong phát triển các ngành, lĩnh vực ở từng địa phương và giữa các địa phương.

Ba là, chú trọng đầu tư phát triển và khai thác, sử dụng có hiệu quả kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn gắn với phát triển công nghiệp, đô thị, trong đó, ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng giao thông trọng yếu tạo liên kết vùng, hạ tầng bến cảng, thủy lợi, hạ tầng thương mại, hạ tầng số, hạ tầng xã hội để hình thành và phát triển hệ thống sản xuất, thu mua, chế biến, cung ứng, tiêu thụ nông sản hiện đại gắn với vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn theo chuỗi giá trị, thông minh, bền vững gắn với thị trường trong nước và thế giới. Quan tâm nghiên cứu xây dựng, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là về đất đai, thổ nhưỡng, cây trồng, vật nuôi, thị trường, pháp lý… Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao trong sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản, nâng cao giá trị, kháng bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tập trung đầu tư phát triển và khai thác hiệu quả kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, trước hết là hạ tầng giao thông và thương mại ở vùng biên giới, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng Đồng bằng sông Cửu Long để thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, hiện đại, quy mô lớn, hiệu quả cao, thích ứng với biến đổi khí hậu, tối ưu hóa giá trị nông sản và xây dựng thương hiệu sản phẩm.

Bốn là, đổi mới, nâng cao chất lượng dạy nghề, cải thiện căn bản chất lượng nhân lực, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ, văn hóa và tinh thần chủ động vươn lên của nông dân và cư dân nông thôn nói chung. Xây dựng lực lượng các chủ thể sản xuất trong nông nghiệp chuyên nghiệp, hiện đại, có kiến thức chuyên môn trong sản xuất ở từng ngành nghề, lĩnh vực, có tư duy, kiến thức về kinh tế thị trường, quản trị kinh doanh. Hướng nghiệp, đào tạo nghề gắn với tạo việc làm, sinh kế bền vững, năng lực chống chịu, thích ứng với sự biến đổi, biến động của khí hậu, của thị trường cho người dân và doanh nghiệp, khắc phục tình trạng đứt gãy chuỗi liên kết, cung ứng của doanh nghiệp, tình trạng sinh kế tạm bợ, thiếu ổn định, dễ bị tổn thương của lao động trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp. Đồng thời, cần đặc biệt coi trọng việc khơi dậy khát vọng của nông dân và cư dân nông thôn, nâng cao năng lực, tinh thần tự chủ, tự cứu mình, tự nâng mình trở thành một lực lượng thực sự quan trọng chứ không phải là nhóm yếu thế trong xã hội.

Mặt khác, thúc đẩy phát triển mạnh doanh nghiệp nông nghiệp, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn thực hiện vai trò “bà đỡ” để đưa vốn, thị trường, tri thức, kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại và chuỗi giá trị. Cùng với đó, phải coi trọng thúc đẩy các mô hình liên kết, hợp tác sản xuất theo Luật Hợp tác xã năm 2012, theo chuỗi giá trị, phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao bảo đảm tiêu chuẩn phổ biến về an toàn thực phẩm để kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu.

Năm là, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở nông thôn, nhất là năng lực quản lý nhà nước về phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; phát huy vai trò của hội nông dân; tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cần chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh toàn diện, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở đủ phẩm chất, bản lĩnh, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong điều kiện mới. Các hội, hiệp hội nghề nghiệp, hội nông dân, các cơ quan quản lý nhà nước tích cực hỗ trợ thông qua đào tạo, chuyển giao công nghệ, tạo dựng các mối liên kết, kết nối, cung cấp thông tin thị trường. Tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cư dân nông thôn, tạo động lực để nông dân tích cực tham gia phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và phát huy vai trò là chủ thể của quá trình xây dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh.

(Dẫn theo Tác giả: PGS, TS. Lê Văn Lợi, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bài Đăng trên Tạp chí Khoa học chính trị số 03-2022)

————————————————-

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.159-160

(2) và (6) Nguyễn Xuân Cường, Những điểm sáng của ngành nông nghiệp giai đoạn 2016 – 2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/821042/nhung-diem-sang-cua-nganh-nong-nghiep-viet-nam-giai-doan-2016—2020.aspx

(3) và (7) Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 – 2020, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020

(4) Nguồn: https://dangcongsan.vn/kinh-te/ca-nuoc-da-co-64-63-so-xa-dat-chuan-nong-thon-moi-585817.html, ngày 19/7/2021

(5) Ban Truyền thông Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn – từ Nghị quyết đến cuộc sống, https://www.evn.com.vn/d6/news/Nong-nghiep-nong-dan-nong-thon-tu-nghi-quyet-den-cuoc-song-142-203-29490.aspx

(8) Nguyễn Thị Ánh, Phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững ở nước ta, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/819844/phat-trien-nong-nghiep%2C-nong-thon-ben-vung-o-nuoc-ta.aspx

(9) Lương Quốc Đoàn, Khơi dậy khát vọng vươn lên và phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/823976/khoi-day-khat-vong-vuon-len-va-phat-huy-vai-tro-chu-the-cua-giai-cap-nong-dan-trong-phat-trien-nong-nghiep%2C-kinh-te-nong-thon-va-xay-dung-nong-thon-moi.aspx

(10) và (12) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Sđd, 2021, tr.107 và 124

(11) Xem: Thủ tướng Phạm Minh Chính làm việc với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Báo Nhân Dân (nhandan.vn), ngày 19/5/2021

 

(Dẫn theo Tác giả: PGS, TS. Lê Văn Lợi, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bài Đăng trên Tạp chí Khoa học chính trị số 03-2022)

Theo Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị khu vực II