Một số vấn đề về đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay | Tạp chí Tuyên giáo

Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”(1), đồng thời, Đại hội nghiêm khắc thừa nhận: “…còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục…”(2); Trong các mối quan hệ lớn hiện nay, Đại hội XII chỉ rõ: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế”(3).

Rõ ràng, thời kỳ mới cấp bách đòi hỏi chúng ta ngẫm thời cuộc lớn, soát xét lại mình, mở rộng tầm nhìn, chuẩn bị hành trang, tiếp tục chủ động và kiên định đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ, không thể rụt rè, do dự hay chờ đợi, cầu toàn. Trong toàn bộ công việc hệ trọng đó, việc đổi mới chính trị, càng đòi hỏi chúng ta về tầm nhìn mới, trước sứ mệnh mới, với mục tiêu mới, bằng sự chuẩn bị toàn vẹn thực lực mới và hành động với phương lược hành động mới. Vì, thời cơ, lúc này, chính là lực lượng; vì sự phát triển của quốc gia – dân tộc là yêu cầu tối cao; và vì, thời đại không chờ đợi chúng ta. 

Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị 

Vấn đề đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế thực chất là vấn đề nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị hay ngược lại, cả về nhận thức, cả về hành động. Vậy, phải nhận thức như thế nào về mối quan hệ, tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị?

Ngay trong khái niệm chính trị và đổi mới chính trị, trong nhận thức của chúng ta có một điểm dễ gây nhầm lẫn, đó là đổi mới chính trị hay đổi mới hệ thống chính trị? Khái niệm chính trị rộng hơn khái niệm hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị chỉ là hệ thống thiết chế tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, còn chính trị không chỉ là hệ thống thiết chế bộ máy, nó còn là các quan hệ chính trị, chính sách chính trị, mô hình chính trị. Khi nói đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế, phản xạ tự nhiên trong tư duy của cán bộ lãnh đạo, quản lý và do đó chi phối cả tư duy xã hội là chỉ thường khoanh vùng vào hệ thống chính trị, còn các yếu tố khác, cấu phần khác của chính trị không được nhận thức và chú trọng đầy đủ. Trong đó có công nghệ chính trị giải quyết một điểm nóng, một cuộc xung đột, một tình huống bất ổn xảy ra cần đến một công nghệ chính trị, ta chưa có sự hiểu biết cần thiết về vấn đề này và sự thực hành còn yếu kém. Trong công nghệ chính trị đó, nó không chỉ giải quyết các bất ổn định, cao hơn còn là khủng hoảng. Chẳng hạn, công nghệ bầu cử được các nước phát triển rất chú trọng, còn chúng ta mới thừa nhận là trong bầu cử không rơi vào trạng thái nhất nguyên, tức là bầu cử có số dư, còn vấn đề tranh cử, ứng cử viên tiếp xúc với cử tri, vấn đề tiếp xúc đối thoại, phản biện để tạo ra một môi trường xã hội dân chủ, tạo ra một không gian để cử tri lựa chọn những đại biểu xứng đáng còn rất hạn chế. Do công nghệ chính trị yếu nên ta cũng chậm thực hành văn hóa chính trị, một vấn đề rất quan trọng nhưng ta chưa làm được bao nhiêu. Đến Đại hội XII, Đảng ta mới khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải đồng bộ, trước đó, trong các văn kiện của Đảng, vấn đề này chưa rõ. Rõ ràng là phạm trù chính trị tương quan với phạm trù kinh tế. Nếu lấy một bên là phạm trù hệ thống chính trị và một bên là phạm trù kinh tế thì không lô-gíc. Nội hàm và ngoại diên của phạm trù chính trị rộng hơn rất nhiều so với khái niệm hệ thống chính trị. Như vậy, ngay trong nhận thức đã không đồng bộ, vì thế cũng không phù hợp. Do đó, nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải đồng bộ là vấn đề rất quan trọng, chi phối nhận thức và xử lý các mối quan hệ khác. 

Thứ nhất, đồng bộ nói ở đây không phải là vấn đề thời gian, hiểu thế là máy móc, cơ học.

Kinh tế cực kỳ quan trọng, kinh tế phải đi trước. Đại hội VI (1986) đánh dấu công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế, đặc biệt là đổi mới toàn diện nền kinh tế. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (năm 1989), đưa ra những nguyên tắc của đổi mới mà tinh thần của những nguyên tắc đó là: Đổi mới phải dựa trên tiền đề ổn định, dựa trên tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân, có được lợi ích của đổi mới, nhân dân sẽ ủng hộ.

Đó mới là ổn định tích cực. Ổn định là tiền đề, là điều kiện, đổi mới là phương thức, là con đường và phát triển là mục đích. Đó là quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển. 

Bất kể chế độ chính trị nào đều phải đổi mới nếu muốn tồn tại. Phát triển là mục tiêu, là điểm đến, là đích. Phát triển giờ đây là phát triển bền vững, phát triển gắn với hiện đại hóa, với hội nhập quốc tế với bảo vệ môi trường, tránh thảm họa toàn cầu.

Như vậy, tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở đây gắn chặt với vị thế, vị trí ưu tiên của từng lĩnh vực. Tuy là đổi mới đồng bộ, nhưng thực tiễn phát triển đòi hỏi phải đổi mới kinh tế làm tiền đề đổi mới chính trị thận trọng, từng bước một.

Vậy thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đồng bộ với nhau là bảo đảm sự hài hòa giữa kinh tế với chính trị làm sao kinh tế đóng vai trò thúc đẩy, tạo ra cơ sở vật chất cho chính trị và chính trị đóng vai trò dẫn đường cho kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển, sự tương tác hài hòa của chúng chính là đồng bộ.

Thứ hai, đồng bộ mang tính toàn diện. 

Toàn diện trước hết là tư duy, cả đổi mới toàn diện tư duy kinh tế lẫn đổi mới toàn diện tư duy chính trị. Tiếp theo là đổi mới về thể chế. Từ năm 2016, chúng ta xác định trọng điểm, điểm nhấn đột phá giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là đổi mới chính trị trong khi vẫn tiếp tục phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế, đổi mới kinh tế để tạo ra tiềm lực vật chất cho xã hội, giai đoạn này lấy trọng điểm là đổi mới chính trị, trong đó có đổi mới thể chế chính trị. Thể chế ở đây là hệ thống luật pháp của Nhà nước và những hệ thống quy định luật lệ trong Đảng. Điều lệ Đảng phải được coi như bộ luật của Đảng. Nó quan trọng như Hiến pháp của Nhà nước, khi đó đảng viên vừa phải tuân theo Hiến pháp với tư cách là công dân, vừa tuân thủ Điều lệ Đảng với tư cách là đảng viên.

Thứ ba, đồng bộ về thiết chế, bộ máy.

Vấn đề này nan giải nhất, đụng đến cấu trúc lại hệ thống bộ máy chính trị. Nếu không được nhận thức và hành động đúng đắn, khoa học và quyết liệt, việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về việc tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ đơn thuần là sáp nhập về số học, cơ học. Vấn đề là, cấu trúc lại phải đi liền với chức năng mới, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các thiết chế ngang dọc, cấu trúc bên trong của hệ thống chính trị với chức năng được phân định rõ ràng của từng bộ phận cấu thành hệ thống chính trị mới. Qua đó, khắc phục được tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, công chức hóa, bộ máy cồng kềnh hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả.

Thứ tư, tính đồng bộ thể hiện ở chính sách, cơ chế và chế tài. 

Trong chính sách là cả một hệ thống lớn: chính sách kinh tế, chính sách chính trị, chính sách xã hội, chính sách văn hóa; chế tài không chỉ tồn tại ở đường lối chiến lược, chế tài biểu hiện như một chính sách: chính sách chính trị, chính sách công.

Đảng chỉ cần hệ thống những chuyên gia giỏi, không nên biến đảng viên thành công chức, lãnh đạo Đảng trở thành người quản lý hành chính, chỉ thị mệnh lệnh lãnh đạo theo kiểu hành chính. Từ lâu, V.I. Lê-nin đã chỉ ra: ra lệnh là dễ nhất nếu có chức có quyền, nhưng tệ hại nhất. Vì nó phạm vào dân chủ, làm thụ động con người, không trực tiếp kích thích được các nhân tố sáng tạo, trong khi chúng ta cần phát huy mọi năng lực sáng tạo của con người.

Thứ năm, tính đồng bộ bao hàm đồng bộ về điều kiện nhận thức đúng, giải pháp tốt.

Có cơ chế chính sách đúng, nhưng không đủ điều kiện thì khó có thể giải quyết tốt được mối quan hệ đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế. Điều kiện đó bao gồm cả điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần, nhất là điều kiện vật chất. Đã là điều kiện vật chất, phải tính đến phương thức phân bổ các nguồn lực tài chính. Từ đó, làm cho các giải pháp khả năng thành giải pháp hiện thực, làm cho tinh thần đổi mới, quyết sách chiến lược đổi mới đến hiện thực đổi mới.

Vấn đề đồng bộ có thể nhìn nhận từ khía cạnh xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Với truyền thống, ông cha ta biết bao nhiêu tinh hoa mà ta chưa ý thức hết, chưa khai thác hết. Hiện nay, rất cần làm sống lại những giá trị tinh hoa của truyền thống trong công thức “an dân trị quốc”, trong đó có vấn đề dùng người, tiến cử, lòng tự trọng, tự rút lui, vấn đề đạo làm quan,… Với hiện đại, đòi hỏi phải tiếp thu những cái hay cái tốt về lãnh đạo, cầm quyền, văn hóa chính trị của các nước, các chính đảng cả trong khu vực và trên thế giới để tìm kiếm sự đồng thuận khi hội nhập quốc tế sâu, rộng. Cùng với đó là tự mình làm phong phú, giàu có thêm cho mình bằng tinh hoa của nhân loại như Bác Hồ từng nói: Phương Tây có gì hay cũng học, phương Đông có gì hay cũng học, học cốt để làm phong phú mình chứ không sao chép bắt chước.

Tiếp tục giải quyết thấu đáo, hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

Thứ nhất, về kinh tế: Trên cơ sở tiếp tục đổi mới toàn diện về kinh tế để có một cơ sở đúng đắn cho việc hoạch định chính sách, đường lối kinh tế phát triển, cần tập trung mấy điểm sau đây:

– Củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước 

Muốn vậy, về mặt tư duy kinh tế cần xác định: chủ đạo không có nghĩa là độc quyền, không có nghĩa là ưu đãi tuyệt đối cho kinh tế nhà nước, mà chủ đạo trên cơ sở có thực lực, tự phát triển để có thực lực, để đủ sức cạnh tranh bình đẳng trên thương trường. Chủ đạo bằng thực lực, sức mạnh của chính mình chứ không phải bao cấp, ưu đãi, ỉ lại độc quyền vị thế để chèn ép các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước phải đủ sức cạnh tranh một cách văn hóa, lành mạnh trên thương trường với tất cả các thành phần kinh tế khác, theo hành lang pháp lý.

– Tổ chức, sắp xếp lại kinh tế hợp tác, trong đó vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn theo hướng kinh tế dịch vụ, hợp tác sản xuất lớn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Cơ chế, chính sách của Nhà nước tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.

– Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

– Tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì, kinh tế tư nhân đem lại lợi ích to lớn cho xã hội, trong khi chỉ cần Nhà nước thừa nhận, tạo hành lang pháp lý cho nó hoạt động. Kinh tế tư nhân ở đây không ai khác đó là người dân làm kinh tế – dân doanh. Đến lúc chúng ta cần bỏ tư duy xem tư nhân là phi xã hội chủ nghĩa; khắc phục nhanh và mạnh mẽ mâu thuẫn lô-gíc trong tư duy, đó là, một mặt, đề cao vai trò làm chủ của dân; mặt khác, lại dị ứng với thành phần kinh tế tư nhân. Khắc phục được lỗi lô-gíc này mới có thể thay đổi được thái độ đối với kinh tế tư nhân, từ đó tạo mọi điều kiện trong hành lang luật pháp, chính sách để kinh tế tư nhân phát triển đa dạng, phong phú.

Gắn liền với đó là, thực hiện liên kết kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân để tăng nguồn lực đầu tư tập trung trọng điểm, đồng thời khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải, chia cắt, lãng phí. Kinh tế tư nhân liên kết với kinh tế nhà nước sẽ tạo thành thế và lực của nền kinh tế để giải quyết các vấn đề về việc làm, đời sống, an sinh, phúc lợi xã hội,… mở ra điều kiện và tạo động lực để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ hai, về chính trị: đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế cần tập trung vào mấy trọng điểm sau:

Hiện nay, chúng ta đổi mới tương đối rõ nét và toàn diện về kinh tế, nhưng đổi mới chính trị còn chậm, thậm chí có khi còn do dự, lúng túng chưa thực sự thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế. 

– Đổi mới toàn diện chính trị ở nước ta hiện nay, trước hết là “Tiếp tục nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ lý luận về Đảng cầm quyền”. Đây là vấn đề quan trọng nhất về chính trị hiện nay ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam – đảng duy nhất cầm quyền. Cầm quyền trong điều kiện thể chế pháp quyền, hệ thống chính trị nhất nguyên đòi hỏi Đảng làm rõ hơn nữa những vấn đề: Tư duy về Đảng cầm quyền; quan niệm về cầm quyền trong mối quan hệ với lãnh đạo, quản lý quản trị xã hội; nội dung cầm quyền; phương thức cầm quyền; thể chế cầm quyền; mô hình cầm quyền; điều kiện để cầm quyền; dự báo những nguy cơ có thể xảy ra đối với Đảng cầm quyền và chủ động tìm kiếm những giải pháp đẩy lùi nguy cơ, tranh thủ và tận dụng thời cơ phát triển đất nước.

– Giám sát và kiểm soát quyền lực cần được bắt đầu từ trong Đảng và đi liền với nó là dân chủ trong Đảng. Hồ Chí Minh coi thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Dân chủ trong Đảng tốt, xã hội sẽ dân chủ.

– Kiểm soát quyền lực: tạo ra một thói quen, một nhu cầu biết lắng nghe ý kiến của dân từ cơ sở, tiếng nói của người dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ, quan chức, công chức bắt đầu từ cơ sở. Cùng với đó, tìm cách khắc phục bệnh hình thức trong việc tiếp dân. Tỉnh nào cũng có văn phòng đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, có cả bộ máy, kinh phí định kỳ tiếp dân. Nếu làm tốt tất cả những quy trình trên, nền chính trị của chúng ta mới thực sự là chính trị hành động, chính trị có hiệu quả và đổi mới chính trị khi ấy mới đem lại lợi ích cho nhân dân. Vì vậy, chúng ta cần giải quyết tốt các vấn đề về thực hành dân chủ, nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền và kiểm soát quyền lực. Tháo gỡ được những vấn đề này sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển chứ không cản trở, thậm chí không làm tổn hại đến kinh tế và như thế nhân dân được lợi từ đổi mới chính trị.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đây là quan hệ giữa 3 chủ thể với chức năng nhiệm vụ khác nhau, với thẩm quyền, trách nhiệm khác nhau. Đảng có trọng trách lãnh đạo, dẫn dắt xã hội; Nhà nước có trọng trách về thể chế hóa, biến quan điểm đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách để thực hiện; nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực. Nó là quan hệ giữa các chủ thể chính trị pháp lý được thể chế hóa, được hiến định. Vì vậy, trước hết, chúng ta phải nhận thức, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân.

Một thời gian rất dài, nói về xây dựng Đảng ta chỉ nói 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đến Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng tiếp tục triển khai quyết liệt hơn, cụ thể hơn, rõ ràng hơn trong nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với 27 biểu hiện cụ thể để cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng tự soi chiếu, rèn luyện phấn đấu phòng, chống và khắc phục. Đây là bước tiến rất quan trọng về tính hợp pháp, hợp lý và tính chính đáng của Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, đến lúc phải nhấn mạnh xây dựng Đảng về văn hóa chứ không chỉ dừng lại ở đạo đức, mặc dù đạo đức là cái cốt lõi của xã hội, nhưng trong văn hóa còn có khoa học, nghệ thuật. Trong văn kiện Đại hội XII cũng đã tiếp cận đến vấn đề văn hóa khi chỉ ra: “Xây dựng văn hóa vào trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”(4).

Như vậy, một khía cạnh nữa để đồng bộ giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế chính là vấn đề xây dựng Đảng về văn hóa. Nhất là văn hóa của người lãnh đạo quản lý, văn hóa của người đứng đầu, văn hóa của cấp ủy các cấp và không có cái văn hóa nào quan trọng hơn là văn hóa ứng xử với dân, văn hóa chịu trách nhiệm trước dân, cả xin lỗi, từ chức và tự xấu hổ.

Vấn đề chính trị và đổi mới chính trị không chỉ là đổi mới tư duy chính trị, xây dựng tầm nhìn chính trị, bản lĩnh chính trị,… còn là sự hành xử chính trị thực tiễn: bao quát thời cuộc, chiêm nghiệm sự vận động toàn cầu của các quốc gia, kiến tạo thể chế chính trị khách quan, khoa học, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, xây dựng thực lực chính trị, chế định những quyết sách chính trị, nâng cao văn hóa chính trị, con người chính trị, xác định và phát huy hệ động lực tổng hợp đổi mới chính trị của đất nước. Tiếp cận theo hướng này, từ nhận thức, tư duy đến hành động sẽ giải quyết tốt được mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, sẽ có một nền chính trị đoàn kết và thanh khiết theo tư tưởng Hồ Chí Minh – một chính trị mở đường, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững./.

——————————————–

(1), (2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 65, 68
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 128 

Nguyễn Văn Vĩnh
PGS, TS, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn: TCCS