Một số vấn đề về bình đẳng giới, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới hiện nay, thực trạng và nội dung quy định của pháp luật
Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu quan trọng của thế giới hiện nay, phát huy vai trò của phụ nữ trong thế giới là hoạt động cần thiết và cấp bách để phát triển toàn cầu. Tại Việt Nam hoạt động bình đẳng giới trong các hoạt động của xã hội được Đảng, Nhà nước và các tổ chức quan tâm.
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê
Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu quan trọng của thế giới hiện nay, phát huy vai trò của phụ nữ trong thế giới là hoạt động cần thiết và cấp bách để phát triển toàn cầu. Tại Việt Nam hoạt động bình đẳng giới trong các hoạt động của xã hội được Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, tổ chức quốc tế có trụ sở trong nước thực hiện với mục tiêu bình đẳng toàn diện giữa nam và nữ. Theo khoản 3 điều 5 Luật Bình đẳng giới 2006, bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Biện pháp đảm bảo bình đẳng giới là tổng hợp các cách thức được ghi nhận bằng pháp luật , theo đó, các chủ thể các chủ thể có thẩm quyền phải thực hiện nhằm đảm bảo mục tiêu bình đẳng giới. Như vậy, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới được quy định trong pháp luật và thực hiện theo Luật Bình đẳng giới. Cụ thể là tại chương III của luật, vậy có các biện pháp bảo đảm thực hiện bình đẳng giới nào.
>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận luật sư tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ luật sư của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
Mục Lục
1. Bình đẳng giới được ghi nhận ra sao trong các bản Hiến pháp
Việt Nam là một quốc gia theo chế độ chính trị Xã hội chủ nghĩa, được ghi nhận tại điều 2 Hiến pháp 2013. Vì vậy, một trong số các mục tiêu của chế độ là thực hiện nam, nữ bình quyền. Sau khi Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết được thành lập bắt đầu từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại và sau đó là sự gia nhập của các quốc gia khác thì một trong các quyền lợi quan trọng nhân dân Liên Xô được hưởng đầu tiên trên thế giới là nam, nữ bình quyền, bên cạnh các quyền quan trọng được các nước ngày nay công nhận như lao động 8 tiếng một ngày… Tại Việt Nam sau độc lập 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ cấp bách, trong đó có ban hành Hiến pháp. Vào ngày 9/11/1946, Nghị viện nhân dân Việt Nam ( cách gọi của quốc hội đương thời ) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên. Hiến pháp 1946, tại chương II: nghĩa vụ và quyền lợi của công dân, mục B Quyền lợi đã ghi nhận quyền bình đẳng giới
Điều 9: Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện
Như vậy tư tưởng về bình đẳng giới đã tồn tại từ sớm ở Việt Nam, một quốc gia xã hội chủ nghĩa tiến bộ và cũng là quốc gia hình thành từ chế độ phong kiến lỗi thời, tụt hậu đã giành được độc lập từ một quốc gia thực dân hùng mạnh. Có thể nói, để ghi nhận một quyền lợi liêng thiêng trong bối cảnh mới thành lập chính quyền và đương đầu với rất nhiều khó khăn như vậy thì đây là một thành tựu trong công cuộc xây dựng đất nước cũng như trong kỹ năng lập pháp nước nhà. So với nhiều quốc gia khác trên thế giới, đưa quyền bình đẳng giới vào Hiến pháp và hệ thống pháp luật quốc gia là quá trình soạn thảo Hiến pháp ở bản Hiến pháp sau này hoặc trong thời gian sau năm 1946 khá dài.Từ các bản Hiến pháp sau đó, quyền bình đẳng giới tiếp tục được ghi nhận và kế thừa. Như, Hiến pháp 1959, tại điều 24:
Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa và gia đình.
Cùng làm việc như nhau phụ nữ được hưởng lương ngang nam giới. Nhà nước đảm bảo cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau đẻ vẫn hưởng nguyên lương.
Nhà nước bảo hộ quyền lợi người mẹ và trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà giữ trẻ, nhà đỡ đẻ và vườn trẻ.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Tại Hiến pháp 1980:
Điều 63: Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và gia đình.
Nhà nước và xã hội nâng cao chăm lo trình độ chính trị, văn hóa, khoa học , kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới và nam giới làm việc với điều kiện như nhau thì mức lương như nhau. Phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương nếu là công nhân, viên chức hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là viên chức hợp tác xã.
Nhà nước tạo điều kiện chăm lo, phát triển các nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà ăn công cộng và những cơ sở phúc lợi xã hội khác, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập và nghỉ ngơi.
Tại điều 63 Hiến pháp 1992 ( sửa đổi bổ sung năm 2001) tiếp tục khẳng định lại quan điểm về bình đẳng giới trong tất cả các lĩnh vực, bổ sung quyền bình đẳng được đưa vào Hiến pháp như:
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ… Nhà nước tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội, chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản suất, công tác, học tập, chữa bệnh nghỉ ngơi và làm tròng bổn phận của mẹ”
Và tại điều 26 Hiến pháp 2013:
1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách đảm bảo quyền và cơ hội bình đẳng giới
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
Qua 5 bản Hiến pháp, ta đã thấy được sự phát triển của hệ thống pháp luật về bình đẳng giới trong nước. Bình đẳng giới trở thành một ngành luật trong Luật Hôn nhân và gia đình đã đóng góp lớn cho sự phát triển của xã hội. Trong hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam, Luật Bình đẳng giới 2006 được ban hành với mục tiêu xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tiến tới bình đẳng thực chất, hỗ trợ giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực. Luật dành cả chương III: các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới nhằm quy định chi tiết các biện pháp thực tiễn cho việc thi hành đối xử bình đẳng giới. Gồm: 6 điều từ điều 19 đến 24. Đồng thời với việc áp dụng pháp luật quốc gia, Việt Nam còn nội luật hóa các công ước quốc tế trong đó có Công ước CEDAW: về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ,. Được ghi nhận trong điều 3 Luật Bình đẳng giới: Áp dụng điều ước quốc tế về bình đẳng giới.. Như vậy, ngay trong Luật Bình đẳng giới 2006 đã mang quy định được nội luật hóa từ các điều khoản trong Công ước CEDAW và các điều ước khác mà Việt Nam là thành viên ký kết nhằm hướng tới sự bình đẳng toàn diện giữa hai giới.
2. Mục đích của các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới là gì
Theo đó, mục đích của các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới này là:
Thay đổi thái độ của mỗi cá nhân về vai trò, vị thế của người phụ nữ
Việt Nam là một quốc gia phương Đông, chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo và tư tưởng phong kiến tập quyền sâu sắc. Chính vì vậy, trong suốt quá trình lịch sử, tư tưởng về vai trò, vị thế người phụ nữ luôn được đánh giá thiếu khách quan và mang nặng tính định kiến, chính tư tưởng trọng nam kinh nữ lâu đời là căn nguyên căn bản dẫn tới toàn bộ sự bất bình đẳng giới. Việc thay đổi nhận thức người dân về vai trò của người phụ nữ được xem như vấn đề mang tính chất quyết định khi thực hiện bình đẳng giới.
Thay đổi thái độ và hành vi hướng tới chia sẻ một cách bình đẳng trong việc tiếp cận và chia sẻ nguồn lực, lợi ích và ra quyết định giữa nam và nữ. Nhận thức được vị thế của người phụ nữ trên cơ sở coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa nam và nữ, các biện pháp bình đẳng giới sẽ hướng tới mục đích trọng tâm hơn là chia sẻ trách nhiệm giữa nam và nữ. Từ đó bảo đảm sự bình đẳng giữa nam và nữ trong việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực cũng như việc ra quyết định.
Thay đổi cách thức mà các chủ thể trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải tiến hành nhằm đảm bảo bình đẳng giới. theo pháp luật Việt Nam, các chủ thể có chức năng, nhiệm vụ trong bình đẳng giới bao gồm: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bộ Lao động-Thương binh và xã hội, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, gia đình, mỗi cá nhân. Vì vậy, thực hiện biện pháp bình đẳng giới nhằm tạo ra chuẩn mực ứng xử đẻ các chủ thể trong phạm vi quyền của mình có thể thực hiện đầy đủ chức năng và nhiệm vụ bình đẳng giới. Do vậy, pháp luật Bình đẳng giới quy định trách nhiệm cho các chủ thể nhằm điều chỉnh các chủ thể hướng tới hoạt động tạo ra tính bình đẳng tuyệt đối trong mục tiêu đề ra, tạo điều kiện và hoàn cảnh khách quan, thúc đẩy các chủ thể thực hiện các nhiệm vụ của mình để thay đổi các thức làm việc, hoạt động của các chủ thể.
3. Các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới có nghĩa gì trong xã hội hiện nay
Đồng thời với mục đích các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới còn có các ý nghĩa sau:
Các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới là là cách thức giúp chúng ta bảo đảm bình đẳng thực chất. Để có bình đẳng thực chất diễn ra, cần có cơ chế thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào trong cuộc sống. Do đó các quy địnhtrong Luật Bình đẳng giới 2006 để có kết quả thực tế thì cần có biện pháp bảo đảm của nó. Nói cách khác, các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới là điều kiện cần tạo ra sự bình đẳng giới trong xã hội. Đây chính là các biện pháp thực hiện pháp luật bình đẳng giới, là sự áp dụng pháp luật vào đời sống.
Việc ghi nhận các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới để thể hiện quyết tâm cao của Nhà nước trong thực hiện cam kết quốc tế bảo đảm bình đẳng giới, với tư cách là một quốc gia thành viên Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Xét trên phương diện tổng thể, bình đẳng giới ở Việt Nam được đẩy mạnh, phát huy tích cực tính quan trọng của nó, ngay từ thời kỳ sau khi giành được độc lập đến nay, trên phương diện pháp lý Luật Bình đẳng giới ngày càng được hoàn thiện, cũng như trong thực tiễn, việc đưa các chính sách của nhà nước vào đời sống đã đạt được nhiều thành quả nhất định, tư tưởng về bình đẳng giới dần được khai thoáng, thay thế dần cho tư tưởng cũ. Việt Nam xếp hạng 91 trên 157 quốc gia về chỉ số bình đẳng giới (GDI). Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn vào các phương diện còn lại đang tồn đọng trong xã hội và các thực trạng diễn ra, đặc biệt là thực trạng đang gia tăng theo chiều sâu về tính bất bình đẳng, các vi phạm pháp luật diễn ra càng nhiều trong thời gian gần đây. Do vậy, luật hóa các biện pháp bảo đảm rằng Việt Nam thực hiện tất cả các biện pháp bảo đảm để bình đẳng giới một cách hiệu quả.
Bình đẳng giới tiếp tục khẳng định rằng Việt Nam luôn chú trọng đến quyền con người, quyền phụ nữ và quyền trẻ em gái. Việc ghi nhận các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới là cách thức để rút ngắn khoảng cách giới, đảm bảo bình đẳng thực chất, đó là biện pháp để chúng ta bảo đảm các quyền con người của phụ nữ phải được tôn trộng và bảo vệ
Nội dung các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới và các quy định của pháp luật về bình đẳng giới hiện nay
4. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định tại điều 19 Luật Bình đẳng giới.
Đây là biện pháp nhằm đảm bảo bình đẳng giới thực chất, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch hơn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được. Như vậy, đây là biện pháp đầu tiên và có tác dụng tạo điều kiện cho các biện pháp khác đạt được kết quả. Nếu thực hiện biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới tốt, các biện pháp khác sẽ dễ dàng khi triển khai, vì biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới gồm các biện pháp cơ bản để giúp địa vị người phụ nữ ngang bằng với địa vị người đàn ông, phát huy năng lực người phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực. Cụ thể:
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị.
5. Nội dung biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị được quy định như thế nào
Trong lĩnh vực chính trị, các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm:
Bảo đảm thích đáng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh cơ quan Nhà nước phù hợp với mục tiêu về bình đẳng giới (khoản 5 điều 11 Luật Bình đẳng giới 2006)
Quy định trên cũng đã thể hiện quan điểm của Công ước CEDAW về quyền phụ nữ trong chính trị tại điểm b điều 7. Theo đó, trong tổng số đại biểu Quốc hội, luôn được quy định một tỷ lệ đại biểu là nữ giới để phụ nữ phát huy vai trò của mình trong việc lập hiến, lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao các hoạt động của đất nước. Do trên thực tế, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là nữ luôn thấp hơn tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là nam ở các quốc gia, vì vậy để nữ giới phát huy hết năng lực và đóng góp của mình cho đất nước, pháp luật luôn có các quy định nhằm bình đẳng giữa nam và nữ.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật Dân sự – Công ty luật Minh Khuê