Một số nội dung cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính
Một số nội dung cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả xin phép được nêu lên một số nội dung cơ bản nhất của Luật số 67/2020/QH14 có liên quan đến lực lượng QLTT để độc giả nắm bắt, nghiên cứu thực hiện.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 13/11/2020, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022 (sau đây gọi là Luật số 67/2020/QH14).
Luật số 67/2020/QH14 bố cục thành 03 điều, cụ thể: Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC (có 75 khoản); Điều 2: Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14. Điều 3: Hiệu lực thi hành.
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung nội dung của 66/142 điều, trong đó, 16 điều sửa đổi, bổ sung toàn diện; sửa kỹ thuật 11/142 điều; bổ sung 04 điều; bãi bỏ 03 điều của Luật XLVPHC hiện hành.
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả xin phép được nêu lên một số nội dung cơ bản của Luật số 67/2020/QH14 như sau:
Thứ nhất, về những quy định chung
Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số quy định chung tại Phần thứ nhất của Luật XLVPHC năm 2012 bao gồm: sửa đổi, bổ sung quy định về khái niệm tái phạm (khoản 5 Điều 2 Luật XLVPHC); nguyên tắc XLVPHC đối với vi phạm hành chính nhiều lần (điểm d khoản 1 Điều 3 của Luật XLVPHC); thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính (Điều 6 Luật XLVPHC); thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (Điều 4 Luật XLVPHC); hành vi bị nghiêm cấm (Điều 12 Luật XLVPHC), cụ thể:
– Về thuật ngữ tái phạm
Giữa quy định về tái phạm tại khoản 5 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012 và quy định về vi phạm hành chính nhiều lần tại khoản 6 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012 chưa có sự phân biệt rõ ràng, do vậy, khoản 1 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012 về giải thích từ ngữ “tái phạm”, theo đó, tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà lại thực hiện hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó.
– Về xử lý hành vi vi phạm hành chính nhiều lần
Điểm d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC năm 2012 quy định: một người “vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”. Trong khi đó, điểm b khoản 1 Điều 10 Luật XLVPHC năm 2012 lại quy định: “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình tiết tăng nặng, theo đó, đây là tình tiết được người có thẩm quyền xem xét khi quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Quá trình thực hiện các quy định này gặp vướng mắc do các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực không quy định cụ thể hành vi vi phạm hành chính nhiều lần nào thì bị xử phạt về từng lần vi phạm, trường hợp nào thì bị xử phạt 01 lần và áp dụng tình tiết tăng nặng “vi phạm hành chính nhiều lần”. Do vậy, để khắc phục bất cập nêu trên, khoản 2 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC năm 2012 quy định cụ thể về nguyên tắc xử phạt theo hướng một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định áp dụng tình tiết tăng nặng. Như vậy, về cơ bản trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần” sẽ bị xử phạt về từng hành vi vi phạm; chỉ bị xử phạt 01 lần và áp dụng tình tiết tăng nặng “vi phạm hành chính nhiều lần” khi có quy định cụ thể của Chính phủ (tại các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực) về áp dụng tình tiết tăng nặng đối với trường hợp vi phạm hành chính nhiều lần đó.
– Về thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính
Khoản 4 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 bổ sung điểm đ vào khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC năm 2012 quy định thời điểm để tính thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong trường hợp cá nhân bị đề nghị cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Theo đó, trong thời hạn được quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này mà cá nhân cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính thì thời hiệu XLVPHC được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó.
– Về những hành vi bị nghiêm cấm
Khoản 5 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm trong XLVPHC tại Điều 12 Luật XLVPHC năm 2012 do trong thực tiễn thi hành phát sinh như: xác định hành vi vi phạm hành chính không đúng; áp dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả không đúng, không đầy đủ đối với hành vi vi phạm hành chính; không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.
Thứ hai, về xử phạt vi phạm hành chính
– Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực
Mức phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định từ năm 2012 (thời điểm ban hành Luật XLVPHC năm 2012). Tại thời điểm hiện nay, mức phạt tiền này quá thấp so với sự phát triển kinh tế – xã hội. Do vậy, khoản 10 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng mức phạt tối đa trong một số lĩnh vực; bổ sung mức phạt tối đa cho một số lĩnh vực chưa được quy định tại Điều 24 Luật XLVPHC năm 2012; chỉnh sửa tên gọi một số lĩnh vực cho phù hợp với các luật được ban hành sau Luật XLVPHC năm 2012,
– Về tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn
Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định về thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn nhưng không quy định nguyên tắc áp dụng. Khoản 13 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 25 Luật XLVPHC năm 2012 bổ sung nguyên tắc áp dụng tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn như sau: “Thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung thời gian tước, đình chỉ được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì thời hạn tước, đình chỉ có thể giảm xuống nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu của khung thời gian tước, đình chỉ; nếu có tình tiết tăng nặng thì thời hạn tước, đình chỉ có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung thời gian tước, đình chỉ”.
– Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Một là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung tên gọi, bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính xuất phát từ việc một số cơ quan, đơn vị được sắp xếp lại tổ chức bộ máy, chính vì vậy, cơ cấu, tổ chức, tên gọi của một số cơ quan, đơn vị cũng như các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã có sự thay đổi, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một số chức danh mới có thẩm quyền xử phạt trong các lĩnh vực quản lý nhà nước cũng như bãi bỏ một số chức danh đã được quy định trong Luật nhưng hiện nay không còn thẩm quyền xử phạt.
Hai là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi quy định về thẩm quyền xử phạt của một số chức danh theo hướng tăng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Ba là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 53 Luật XLVPHC năm 2012 để quy định cụ thể về những trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt có sự thay đổi về tên gọi, đồng thời với thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc không có sự thay đổi về tên gọi nhưng có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Theo đó, trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Luật này có sự thay đổi về tên gọi nhưng không có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó được giữ nguyên. Trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bốn là, liên quan đến vấn đề giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, khoản 28 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 54 Luật XLVPHC năm 2012 về việc giao quyền cho cấp phó áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm XLVPHC tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 119 của Luật XLVPHC năm 2012; đồng thời, quy định rõ văn bản giao quyền phải được thể hiện bằng quyết định.
– Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
So với Luật XLVPHC hiện hành, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, khả thi khi áp dụng trong thực tiễn nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành Luật XLVPHC năm 2012, cụ thể:
Một là, hiện nay Luật XLVPHC năm 2012 quy định thời gian tiến hành một số công việc quá ngắn, chưa phù hợp thực tế, không bảo đảm tính khả thi; thủ tục thực hiện một số công việc cũng chưa cụ thể dẫn đến sự lúng túng trong quá trình áp dụng pháp luật (thủ tục lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, giải trình…)… Do vậy, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập kể trên, cụ thể là:
+ Tăng thời hạn định giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 3 Điều 60 Luật XLVPHC từ 24 giờ lên 48 giờ (điểm đ, khoản 73 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14).
+ Quy định thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 66 Luật XLVPHC là tương đối ngắn, bao gồm cả thứ Bảy, Chủ nhật, ngày nghỉ lễ, tết nên gây nhiều khó khăn cho người xử phạt, nhất là lập biên bản vào ngày cuối tuần, nghỉ lễ tết; đặc biệt là khi vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt. Chính vì vậy, khoản 34 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 66 theo hướng từ tính ngày sang ngày làm việc và tăng thời hạn xử phạt đối với vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật này.
Hai là, bổ sung các quy định về lập biên bản vi phạm hành chính (khoản 29 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 58 Luật XLVPHC năm 2012), cụ thể như sau:
+ Quy định theo hướng quy định nguyên tắc “phải kịp thời lập biên bản”; đồng thời, Luật cũng bổ sung quy định về việc lập, gửi biên bản vi phạm hành chính, theo đó, biên bản vi phạm hành chính có thể được lập, gửi bằng phương thức điện tử đối với trường hợp cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.
+ Nơi lập biên bản vi phạm hành chính: Luật XLVPHC năm 2012 không quy định rõ nơi lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính. Luật số 67/2020/QH14 quy định biên bản vi phạm hành chính phải được lập tại nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính. Trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập tại trụ sở cơ quan của người có thẩm quyền lập biên bản hoặc địa điểm khác thì phải ghi rõ lý do vào biên bản.
+ Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến, không xác định được chính quyền địa phương ở đây là cấp nào. Theo đó, Luật số 67/2020/QH14 đã quy định rõ là phải có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã nơi xảy ra vi phạm hoặc của ít nhất 01 người chứng kiến xác nhận việc cá nhân, tổ chức vi phạm không ký vào biên bản; trường hợp không có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã hoặc của người chứng kiến thì phải ghi rõ lý do vào biên bản.
+ Luật bổ sung quy định thời hạn người lập biên bản phải chuyển biên bản và các tài liệu khác cho người có thẩm quyền xử phạt trong thời hạn 24 giờ kể từ ngày lập biên bản, trừ trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa.
+ Luật bổ sung quy định trường hợp biên bản vi phạm hành chính có sai sót hoặc không thể hiện đầy đủ, chính xác các nội dung quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này thì phải tiến hành xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 59 của Luật này để làm căn cứ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Ba là, sửa đổi, bổ sung quy định về giải trình (khoản 30 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 61 Luật XLVPHC năm 2012), cụ thể:
+ Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi theo hướng đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định mức tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
+ Luật số 67/2020/QH14 bổ sung quy định trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không yêu cầu giải trình nhưng trước khi hết thời hạn quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này lại có yêu cầu giải trình thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm.
Bốn là, khoản 32 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 64 Luật XLVPHC năm 2012 theo hướng mở rộng lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, Luật quy định rõ ràng hơn về điều kiện, yêu cầu trong quản lý, sử dụng, quy định danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; điều kiện, yêu cầu trong sử dụng, bảo quản kết quả thu thập được bằng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; đồng thời, giao Chính phủ quy định quy trình chuyển hóa kết quả thu được từ các phương tiện, thiết bị do các cá nhân, tổ chức cung cấp thành chứng cứ để xác định vi phạm hành chính.
Năm là, về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan đến vấn đề này nhằm khắc phục những bất cập phát sinh trong thực tiễn như việc xác minh chủ sở hữu phương tiện, việc xử lý đối với các phương tiện có giá trị thấp hoặc không còn giá trị rất khó khăn, mất nhiều thời gian; việc xử lý đối với tang vật, phương tiện đã quá thời hạn tạm giữ mà không xác định được chủ sở hữu/người vi phạm hoặc chủ sở hữu/người vi phạm không đến nhận; việc xử lý đối với tang vật, phương tiện do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu, cụ thể:
+ Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, khoản 65 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 126 Luật XLVPHC năm 2012 sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể, rõ ràng hơn việc thông báo về tang vật, phương tiện bị tạm giữ (số lần thông báo, thời hạn thông báo, xử lý tài sản sau khi hết thời hạn thông báo, niêm yết công khai…). Đồng thời, cũng quy định về việc xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu nhưng đã đăng ký biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Theo đó, đối với trường hợp này thì bên nhận thế chấp được nhận lại tang vật, phương tiện hoặc trị giá tương ứng với nghĩa vụ được bảo đảm; cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ngân sách nhà nước.
+ Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, để bảo đảm thống nhất với quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, khoản 42 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 81 Luật XLVPHC năm 2012 quy định theo hướng viện dẫn: “Tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã có quyết định tịch thu được xử lý theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công”, đồng thời, bãi bỏ Điều 82 Luật XLVPHC.
– Quy định về hoãn, miễn, giảm tiền phạt; về việc thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Thứ ba, về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính
– Về biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính
Khoản 61 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 122 Luật XLVPHC năm 2012 đã bổ sung 04 trường hợp tạm giữ người theo thủ tục hành chính như: cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; để thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người có hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma túy.
– Về biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề
Một là, khoản 64 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 bổ sung vào khoản 3 Điều 125 Luật XLVPHC năm 2012 quy định thẩm quyền tạm giữ không phụ thuộc vào giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Hai là, khoản 64 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề tại các khoản 4 và 9 Điều 125 Luật XLVPHC năm 2012 theo hướng: (i) Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đang giải quyết vụ việc lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; sau đó, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, người lập biên bản phải báo cáo thủ trưởng của mình là người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để xem xét ra quyết định tạm giữ; (ii) Bỏ quy định về việc người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ phải ký vào biên bản tạm giữ.
Thứ tư, về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
Điểm a khoản 74 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 bãi bỏ quy định về việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC định kỳ 06 tháng tại Điều 17 Luật XLVPHC năm 2012 nhằm giảm bớt thủ tục và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo.
Để triển khai thực hiện tốt các quy định có liên quan đến lực lượng Quản lý thị trường, trong thời gian qua Cục QLTT tỉnh Hà Tĩnh đã nghiên cứu, phổ biến, quán triệt cho các phòng, các đội, công chức các đơn vị nắm bắt.