MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

ThS Trần Kim Hoàng

(Học viện Chính trị CAND)

 

1. Hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam một số vấn đề từ góc nhìn lý luận

Hệ thống chính trị (HTCT) là khái niệm, một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị. Cho đến nay, tuy còn nhiều những ý kiến, quan điểm khác nhau khi bàn về HTCT nhưng các học giả, nhà khoa học, giới nghiên cứu, những người quan tâm đến lĩnh vực chính trị đều thống nhất và cho rằng HTCT là một bộ phận cơ bản, quan trọng của mỗi nền chính trị; các nước khác nhau với đặc điểm địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa có những sự khác biệt nhất định trong quá trình hình thành, đặc điểm, cấu trúc và tác động của các HTCT; HTCT bao gồm các tổ chức với tư cách là chủ thể của các quyết sách chính trị, có quan hệ mật thiết với nhau và có vị trí, chức năng, vai tròkhác nhau trong sự vận hành của các quá trình chính trị, với các cấp khác nhau. Mặc dù, cấu trúc của HTCT rất đa dạngnhưng về căn bản, HTCT bao gồm ba bộ phận chính: đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội của nhân dân. Có thể quan niệm: “hệ thống chính trị là khái niệm dùng để chỉ một chỉnh thể các tổ chức chính trị và chính trị – xã hội bao gồm đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp, có quan hệ kết nối với nhau và các cơ chế, nguyên tắc vận hành của hệ thống nhằm hướng đến mục đích tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị, thực thi quyền lực chính trị mà trung tâm là quyền lực nhà nước”.

Ở Việt Nam, thuật ngữ hệ thống chính trị được Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức sử dụng từ Hội nghị Trung ương 6, Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (3-1989) và sau đó Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đại hội VII của Đảng (năm 1991). Về mặt pháp lý, khái niệm HTCT Việt Nam được đề cập trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992. Có thể quan niệm: “Hệ thống chính trị Việt Nam là một chỉnh thể gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội. Trong đó, Đảng giữ vai trò cầm quyền, lãnh đạo; Nhà nước đóng vai trò quản lý, điều hành, kiến tạo phát triển; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội có vai trò phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Hệ thống chính trị Việt Nam được xây dựng và hoạt động theo những mối quan hệ, cơ chế và nguyên tắc nhất định, thống nhất từ trung ương đến địa phương và cơ sở, nhằm mục đích xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân”.

Như vậy, có thể hiểu HTCT Việt Nam bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng lãnh đạo HTCT, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhà nước là trụ cột của HTCT; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội đại diện cho ý chí và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, đồng thời thực hiện vai trò giám sát, phản biện đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân.

HTCT Việt Nam được tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống đến cơ sở và vận hành theo phương thức hoạt động, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhằm mục đích xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Đổi mới hệ thống chính trị, trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam từ đại hội VI đến nay, đổi mới HTCT là một trong những nội dung mang tính cốt lõi, cấp bách và hệ trọng. Những quan điểm của Đảng về đổi mới HTCT từ Đại hội VI đến Đại hội XIII đã thể hiện rõ nét sự phát triển nhận thức của Đảng về vấn đề đổi mới nói chung, đổi mới về chính trị mà trực tiếp là đổi mới HTCT nói riêng.

Từ nhận thức lý luận về HTCT, HTCT Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới HTCT ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, có thể quan niệm: “Đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam là quá trình nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, vận hành của các bộ phận, thành tố cấu thành hệ thống chính trị trên các phương diện: tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, phương thức hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nhằm bảo đảm quyền lực chính trị thực sự thuộc về nhân dân, từng bước hoàn thiện và nâng cao nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Đổi mới HTCT Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.Đổi mới HTCT nhằm tăng cường vai trò và nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; tăng cường vai trò và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và điều hành của Nhà nước; nâng cao tính năng động, sáng tạo và vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong một mục tiêu thống nhất là đảm bảo toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đổi mới HTCT ở Việt Nam hiện nayphải tuân thủ nguyên tắc đổi mới nhưng không làm thay đổi chế độ chính trị; đổi mới nhưng phải giữ vững ổn định chính trị – xã hội; đổi mới HTCT phải đồng bộ ở cấp trung ương và cấp địa phương, cơ sở;đổi mới HTCT toàn diện, đồng bộ, những phải có bước đi vững chắc, cách làm phù hợp, đúng đắn,có trọng tâm, trọng điểm…

2. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và những điểm mới về hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là một sự kiện chính trị trọng đại của Đảng ta, đất nước và dân tộc ta, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước. Các văn kiện được thông qua tại Đại hội XIII được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn; kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Các văn kiện đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng gắn với việc nhìn lại 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; tổng kết 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025; xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của HTCT cũng như vấn đề đổi mới HTCT, trong các văn kiện được thông qua tại Đại hội XIII, so với Đại hội XII, Đảng ta đã rất chú trọng đến những nội dung trọng tâm, những nhận thức mới về HTCT và nêu rõ, đề cập đến những vấn đề liên quan đến đổi mới HTCT Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể như sau:

– Về công tác xây dựng Đảng:

Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đại hội XIII đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. So với Đại hội XII, công tác xây dựng Đảng không chỉ được đề cập trong Báo cáo chính trị Đại hội XIII, mà còn có Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng được thể hiện trong chủ đề, bài học kinh nghiệm, quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển, trong nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng cụ thể:

Về chủ đề, chủ đề Đại hội XIII đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Điểm mới là bổ sung “xây dựng hệ thống chính trị” và không chỉ đề cập đến xây dựng Đảng, mà cả chỉnh đốn Đảng.

Về bài học kinh nghiệm, từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Báo cáo Chính trị Đại hội XIII rút ra 5 bài học kinh nghiệm. Bài học kinh nghiệm đầu tiên là về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, trong đó nhấn mạnh: “…công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”1. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị nhấn mạnh xây dựng Đảng về cán bộ. Đây là bước phát triển về nhận thức của Đảng ta.

Về quan điểm, báo cáo chính trị nêu 5 quan điểm chỉ đạo, quan điểm đầu tiên là “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”2. So với Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung “kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng” Đây là bước phát triển nhận thức của Đảng ta.

Về mục tiêu về xây dựng Đảng, về mục tiêu tổng quát, Đại hội XII xác định: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội XIII xác định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”3. Điểm mới của Đại hội XIII là không chỉ nâng cao “năng lực lãnh đạo” mà cả “năng lực cầm quyền”, không chỉ “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” mà cả “hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”.

Về định hướng xây dựng Đảng, trong định hướng phát triển đất nước 10 năm 2021-2030, Báo cáo chính trị nêu định hướng về xây dựng Đảng: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng…xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng”4. So với Đại hội XII, Đại hội XIII xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng; nêu yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.

Về nhận thức mới trong nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chính đốn Đảng. Kế thừa Đại hội XII, Báo cáo chính trị và Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng Đại hội XIII đã xác định 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng trong 5 năm 2021-2025, gồm: (1) Nhiệm vụ, giải pháp tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; (2) Nhiệm vụ, giải pháp coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng; (3) Nhiệm vụ, giải pháp tập trung xây dựng Đảng về đạo đức; (4) Nhiệm vụ, giải pháp về đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; (5) Nhiệm vụ, giải pháp củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; (6) Nhiệm vụ, giải pháp tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu; (7) Nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (8) Nhiệm vụ, giải pháp thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; (9) Nhiệm vụ, giải pháp kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí; (10) Nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Trong 10 nhóm nhiệm vụ giải pháp nêu trên, mỗi nhóm nhiệm vụ, giải pháp có những nhận thức mới, những bổ sung, nhấn mạnh nhiệm vụ, giải pháp mới.

– Về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

Từ thực tiễn 35 năm đổi mới, đặc biệt là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng với những thành tựu đạt được cùng những tồn tại, hạn chế trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII tiếp tục xác định xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời bổ sung nhiều điểm mới, như sau:

Về chủ trương, các văn kiện được thông qua tại Đại hội XIII nhấn mạnh tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới HTCT. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Trong điều kiện mới xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động; xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan nhà nước. “Lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu cần phát triển nhanh, bền vững”5. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. Đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành hiến pháp 2013.

Về Quốc hội, so với văn kiện Đại hội XII, văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, tăng tính chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ và tổ chức trong hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nhấn mạnh tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý về số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân.

Về Chính phủ, các văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; pháp huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện mới: “Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát chủ động điều tiết giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường”6 và “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa chính phủ với các bộ, ngành; giữa chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương…bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất”7. Đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành; khắc phục triệt để chống chéo chứ năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, đảm bảo chất lượng, hoạt động hiệu quả. Nâng cao chất lượng dịch vụ công.

Về tư pháp, văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Bổ sung nội dung: “Nghiên cứu, ban hành chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030 định hướng đến 2045, trong đó chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”8. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định. Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp.

Về chính quyền địa phương, so với văn kiện Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung, làm rõ hơn nội dung: Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ ngân sách địa phương. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội các cấp.

Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức so với Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung: tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích cán bộ, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Đưa ra yêu cầu, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp không có uy tín đối với nhân dân.

Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu cần thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý các nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giảm biên chế. Gắn kết chặt chẽ xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật.

– Về tổ chức, hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội:

Sau 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đặc biệt là trong nhiệm kỳ đại hội XII. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội đã có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân… Tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, bộ máy vẫn còn cồng kểnh; cơ cấu tổ chức vẫn tồn tại theo hướng hành chính – biên chế, một bộ phận cán bộ chuyên trách công tác còn yếu về năng lực chuyên môn, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Việc tuyên truyền, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động chưa thực sự đi vào chiều sâu, chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhất là những vấn đề bức xúc của nhân dân. Nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội có mặt còn chậm đổi mới so với yêu cầu nhiệm vụ.

Vì vậy, trong các văn kiện được thông qua tại Đại hội XIII, Đảng ta đã nhấn mạnh việc tiếp tụctăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Đồng thời, “đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân”9. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trên đây là một số điểm mới về HTCT và đổi mới HTCT Việt Nam được đề cập trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Chúng ta tin tưởng rằng, với những nhận thức mới, giải pháp đúng hướng, kịp thời cùng với quyết tâm cao, nỗ lực lớn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong thời gian tới dưới sự lãnh đạo của Đảng, HTCT Việt Nam sớm kiện toàn, tinh gọn, tiếp tục có nhiều đổi mới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao sự nghiệp đổi mới, hội nhập của đất nước.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, H, 2021, tr. 95.

2. Sđd, tr. 109.

3. Sđd, tr. 111.

4.Sđd, tr. 118-119.

5.Sđd, tr. 175.

6.Sđd, tr. 285.

7, 8.Sđd, tr. 177.

9.Sđd, tr. 172.

 

(Nguồn: Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 8 (181), 2021)