Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Thứ sáu, 11 Tháng 11 2022 12:28

3307 Lượt xem

(LLCT) – Trong cuốn sách: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh, làm sâu sắc hơn những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời chỉ rõ vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu bổ sung, phát triển để mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam ngày càng hoàn thiện. Bài viết phân tích làm rõ một số nội dung bổ sung, phát triển của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – Ảnh: internet

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu mô hình CNXH Việt Nam với 8 đặc trưng cơ bản: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(1).

Từ những đặc trưng cơ bản nêu trên, trong cuốn sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đi sâu nghiên cứu, bổ sung, phát triển làm sâu sắc, hoàn thiện hơn về mô hình CNXH ở Việt Nam.

1. Một số nội dung bổ sung, phát triển, làm sâu sắc hơn mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thứ nhất, “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của CNXH ở Việt Nam. Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, được kết tinh từ chọn lọc những giá trị tiến bộ nhất của các cuộc cách mạng trên thế giới kết hợp với khát vọng ngàn đời của nhân dân Việt Nam. Các giá trị trong đặc trưng này có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nền tảng và sự bảo đảm bền vững cho hạnh phúc của nhân dân ta. Đồng thời, các giá trị trên thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ XHCN so với các chế độ xã hội trước đó, nhất là chế độ tư bản. Tổng Bí thư khẳng định đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt của mô hình CNXH mà chúng ta đang xây dựng trong bối cảnh hiện nay, chủ nghĩa tư bản, nhất là ở một số nước tư bản phát triển đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, làm cho diện mạo của chủ nghĩa tư bản khác nhiều so với trước đây, nhưng, “chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó”(2).

Vì vậy, chỉ có CNXH mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc. Tổng Bí thư nhấn mạnh: Đường lối xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội… chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”(3).

Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô cùng khó khăn, gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam – một nước đang phát triển, chưa có “nền đại công nghiệp” (điều kiện cần thiết để xây dựng CNXH như C.Mác đã chỉ rõ). Nhưng để trở thành xã hội XHCN với những đặc trưng nêu trên, không có cách nào khác là toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội. Và, Việt Nam đang từng bước đạt tới các mục tiêu cần có trong hiện thực. Tổng Bí thư luận giải: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm”(4).

Thứ hai, “Do nhân dân làm chủ”

“Dân chủ” là bước tiến, là khát vọng của con người, của mỗi dân tộc. “Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là xã hội của loài người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ mệnh của mình. Cho nên “nhân dân làm chủ” là đặc trưng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong những đặc trưng của xã hội XHCN. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Dân chủ” trong đặc trưng nêu trên chính là nền dân chủ của xã hội vận hành theo chế độ và nguyên tắc dân chủ. Và chính nền dân chủ XHCN cũng thể hiện xã hội “do nhân dân làm chủ”. Khẳng định điều này, Tổng Bí thư viết: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”(5).

Để có một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải là “công bộc” của nhân dân, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Do vậy, Tổng Bí thư chỉ rõ: “… xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”(6), đòi hỏi phải có “… một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(7). Nghĩa là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(8); và “mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(9).

Thứ ba, “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”

Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều tiên quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất XHCN tiến bộ, phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Từ những thành công, thất bại trong thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, tại Đại hội IX, Đảng ta đã xác định “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.

Tổng Bí thư đã làm rõ quan điểm của Đảng ta về bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam. Đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối”(10).

Về định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là vấn đề còn có những ý kiến chưa thống nhất. Trong cuốn sách, Tổng Bí thư luận giải: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn”(11). Đây là những đặc trưng bản chất làm rõ tính chất XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Thứ tư, “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”

Khẳng định quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, Tổng Bí thư cũng khẳng định: “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng”(12). Đó là một nền văn hóa “phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(13).

Trên cơ sở quan điểm của Đảng về vị trí “nền tảng tinh thần” của văn hóa trong xây dựng CNXH, Tổng Bí thư bổ sung làm rõ nội dung cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam “là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa của thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mĩ ngày càng cao”(14). 

Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa của dân tộc, Tổng Bí thư nêu ra một số nhiệm vụ trọng tâm, với những nội dung quan trọng: khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam; học tập theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh(15); “xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(16)…

Thứ năm, “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”

Về phương diện con người, CNXH đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người XHCN phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.

Quán triệt quan điểm của Đảng: Con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới, Tổng Bí thư nhấn mạnh chế độ XHCN là một chế độ xã hội mang bản chất tốt đẹp, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, lấy con người làm trung tâm, dựa trên lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa cá nhân và phe nhóm. “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột, chà đạp lên phẩm giá con người…”.

Theo Tổng Bí thư, giá trị của CNXH phải được hiện thực hóa trong đời sống hàng ngày mà người dân được thụ hưởng gắn với điều kiện, lộ trình cụ thể. Đó chính là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Đây luôn là mục tiêu hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới trong suốt quá trình phát triển đi lên của cách mạng nước ta. Tổng Bí thư đã viết: “xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây”. Rõ ràng “phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế”(17).

Thứ sáu, “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”

“Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển và tính chất nhân văn cao của xã hội. Một đòi hỏi quan trọng của XHCN là bảo đảm bình đẳng không chỉ cho cá nhân người công dân, mà còn ở cấp độ cho tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia. Mặt khác, “đoàn kết” là sức mạnh – đó là một chân lý, đồng thời đây cũng là một giá trị đặc trưng của xã hội XHCN.

“Bình đẳng” và “đoàn kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Tôn trọng và giúp nhau không chỉ là tình thương, lòng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu chuẩn quan trọng của xã hội phát triển. Đoàn kết toàn dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh thần đó, phương châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội XHCN Việt Nam.

Tổng Bí thư khẳng định, “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là… đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(18). Trong đó, phải “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Muốn thực hiện được nguyên tắc này, chúng ta phải: “Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(19).

Thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc, đạp tan mọi âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.

Thứ bảy, “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”

CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.

Luận giải rõ hơn quan điểm của Đảng ta về Nhà nước, Tổng Bí thư viết: “Chúng ta chủ trương… xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”(20). Đây là kiểu nhà nước pháp quyền khác hẳn về chất so với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ: “pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản, còn pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”(21).

Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là đòi hỏi khách quan để thực hiện mục tiêu XHCN hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản – Đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung XHCN, là đảng thực hiện mục tiêu và lý tưởng XHCN.

Thứ tám, “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”

Đây là một đặc trưng nổi bật của nội dung và mục tiêu xây dựng xã hội XHCN Việt Nam. Đây cũng chính là yếu tố, điều kiện để Việt Nam phát triển nhanh trên con đường đi lên CNXH. Để thực hiện được đặc trưng nêu trên, đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(22). 

Trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, Tổng Bí thư yêu cầu phải kiên định nguyên tắc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, ngoan cường bảo vệ giang sơn, độc lập, chủ quyền của đất nước, nhưng giàu tính nhân văn, trọng lẽ phải, công lý, chính nghĩa, hòa hiếu, hòa bình, hữu nghị; “dùng ngoại giao để đẩy lùi xung đột; gắn với thực tiễn của thế giới, để đưa Việt Nam hòa nhập vào dòng chảy của thời đại”(23). Đây chính là sự kế thừa “những tư tưởng, triết lý vượt thời đại của cha ông ta”, tinh hoa văn hóa và kinh nghiệm ngoại giao thế giới làm nên bản sắc riêng, rất độc đáo của nền ngoại giao và hoạt động đối ngoại Việt Nam(24). “Một nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc – trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam!”(25). 

2. Một số yêu cầu đặt ra trong quá trình bổ sung, phát triển và hiện thực hóa mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Mô hình CNXH Việt Nam là một trong những thành tựu nhận thức lý luận quan trọng của Đảng, đồng thời là kết quả sự tổng kết thực tiễn sáng tạo của nhân dân, thể hiện nguyện vọng, ý chí của cả dân tộc. Tám đặc trưng nêu trên thể hiện những giá trị cốt lõi của CNXH Việt Nam, phản ánh bản chất tốt đẹp, ưu việt riêng có của CNXH Việt Nam.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, mô hình nêu trên sẽ đáp ứng mục tiêu xây dựng một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; sự phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân(26). Nó khác hẳn về chất so với tất cả các chế độ xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm. Đây là một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chính đáng của con người, vì con người, do con người. Đây chính “là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”(27).

Vì vậy, cần phải nhận thức “Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”, tiếp tục phải suy nghĩ, tìm tòi để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện sao cho vừa đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Sự nghiệp này cần sự quyết tâm, đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cơ sở kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Trong đó, yếu tố quyết định thành công phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đường lối của Đảng phải phù hợp lòng dân, phát huy được sức mạnh của nhân dân, được nhân dân ủng hộ và tham gia tích cực; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc, đồng thời phải tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại(28).

_________________

Ngày nhận bài: 31-10-2022; Ngày bình duyệt: 2-11-2022; Ngày duyệt đăng: 11-11-2022.

 

(1), (13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70, 75-76.

(2), (3), (4), (5), (6),(7), (8), (9), (10), (11), (12), (14), (16), (17), (18), (19), (20), (21), (23), (25), (27) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội  và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.19, 22, 28, 28, 28, 21-22, 48, 28, 25-26, 26-27, 163, 164-165, 172, 33, 110, 111, 28-29, 28-29, 181, 201, 22.

(15), (24), (26), (28) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.170-171, 181, 21, 36-37.

(22) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 161-162.

TS VŨ THẾ TÙNG

PGS, TS ĐỖ THỊ THẠCH

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh