Mấy khía cạnh lý luận về cán bộ, công chức cấp cơ sở | Tạp chí Tuyên giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”; “Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo, đánh giá và sử dụng cán bộ, giao cho họ những trọng trách và giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó.
Cán bộ là những người tổ chức và lãnh đạo hoạt động thực tiễn, là trụ cột trong mọi giai đoạn cách mạng của đất nước. Có cán bộ tốt thì mới có phong trào cách mạng tốt, còn ngược lại thì phong trào phát triển chậm, không đúng hướng, thắng lợi không cao hoặc có thể đi xuống. Bởi vì, cán bộ chính là người ”bắc cầu” đem quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với quần chúng nhân dân, tổ chức lãnh đạo họ thực hiện; cán bộ là người đem ”lý thuyết” để cho người dân hiện thực hóa. Cùng với vai trò ”bắc cầu” cán bộ còn là người nắm bắt tình hình, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân phản ảnh cho Đảng, Nhà nước để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách sát hợp với thực tiễn phong trào, bảo đảm cho Đảng gần dân, dân tin Đảng.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân cần đội ngũ cán bộ có tài, có đức. Những người đảm nhận chức trách, quyền hạn ở mọi cấp mọi ngành từ Trung ương đến cơ sở, đại diện cho lợi ích của quần chúng nhân dân mà không có đủ uy tín, mất uy tín trước dân có tác hại to lớn không thể lường hết. Vì vậy cần phải nâng cao chất lượng, uy tín cho cán bộ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm”.
Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cán bộ, công chức cấp cơ sở có một vai trò rất quan trọng, bởi họ là người giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hoá sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội ở cơ sở; là người giữ vai trò quyết định trong việc quán triệt, tổ chức thực hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ cùng cấp và mọi chủ trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp trên, cũng như mọi chương trình, kế hoạch của chính quyền xã, vì lẽ đó, cán bộ, công chức cấp cơ sở là một trong những nhân tố có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố không nhỏ góp phần quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta thành nước công nghiệp, có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cán bộ, công chức cấp cơ sở là những người trực tiếp, tiếp xúc với nhân dân hàng ngày, giải đáp, hướng dẫn, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp lắng nghe, giải quyết hoặc kiến nghị lên cấp trên những kiến nghị, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, chất lượng hoạt động của công chức cấp cơ sở ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Cán bộ: Ở Việt Nam từ “cán bộ” được nghe một cách quen thuộc, phổ biến. Hiểu theo nghĩa thông thường của người dân thì “cán bộ” được hiểu là người làm việc ở cơ quan Đảng, Nhà nước. Có cách hiểu khác “cán bộ” là những người mang trọng trách, công vụ và có những quyền hạn nhất định. Tại những trụ sở hành chính chính công, “cán bộ” là danh từ chung được những người dân đến giải quyết công việc chỉ về những người đang thụ lý hoặc giải quyết một vụ việc cho người dân. Ở các trại giạm tù nhân sử dụng từ “cán bộ” để chỉ các “quản giáo” phụ trách, quản lý mình.
Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người làm việc trong bộ máy chính quyền, Đảng, đoàn thể, lực lượng vũ trang. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi như những người có mức lương từ cán sự (cũ) trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương thấp hơn cán sự. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và dễ hiểu. Theo Người: Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng.
Theo khoản 1, Điều 4 Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13-11-2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2010, quy định: “Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên có thể hiểu “cán bộ” là khái niệm dùng để chỉ những người có chức vụ do bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội và lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương, thuộc biên chế Nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; giữ vai trò và cương vị nòng cốt trong cơ quan (có thể là người lãnh đạo, người quản lý), có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của cơ quan.
– Công chức: Công chức là một khái niệm chung được sử dụng phổ biến nhiều quốc gia trên thế giới để chỉ những công dân được tuyển dụng vào làm việc thường xuyên trong cơ quan nhà nước, do tính chất đặc thù của mỗi quốc gia, khái niệm công chức của các nước cũng không hoàn toàn đồng nhất. Có nước chỉ giới hạn công chức trong phạm vi những người hoạt động quản lý nhà nước. Một số nước khác có quan niệm rộng hơn, công chức không chỉ bao gồm những người thực hiện trực tiếp các hoạt động quản lý nhà nước mà còn bao gồm cả những người làm việc trong các cơ quan có tính chất công cộng.
Khái niệm công chức được hình thành và thường gắn liền với sự hình thành và phát triển của nền hành chính nhà nước. Khái niệm công chức lần đầu tiên được nêu ra trong Sắc lệnh 76/SL ngày 20-5-1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Quy chế công chức như sau: “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển dụng, giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều là công chức theo Quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ định” (Trích Điều 1, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950). Cùng với sự phát triển của đất nước và nền hành chính nước nhà, khái niệm công chức đã dần được quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn. Tuy nhiên, các khái niệm này vẫn chưa phân định rõ ràng ai là cán bộ, ai là công chức. Năm 2008, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã thông qua Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12. Đây là bước tiến mới, mang tính cách mạng về cải cách chế độ công vụ, công chức, thể chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng về công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều 4, Khoản 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, xác định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, thuộc đơn vị Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức Chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập) trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Để hướng dẫn thi hành Luật cán bộ công chức, Chính phủ và các bộ ngành đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới như Nghị định số 06/2010/NĐ- CP ngày 25 tháng 01 năm 2010 quy định công chức là “Công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Như vậy công chức ở Việt Nam không chỉ là những người làm việc trong các cơ quan Hành chính nhà nước mà còn bao gồm cả những người làm việc ở các Phòng Ban của Đảng, Mặt trận tổ quốc Việt Nam; các tổ chức Chính trị xã hội; những người lãnh đạo, quản lý đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng cộng sản Việt Nam.
– Cán bộ, công chức cấp cơ sở: Cán bộ, công chức cấp cở sở (hay cấp xã) Theo khoản 3, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức quy định: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội; công chức (cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở: Khái niệm chất lượng: Chất lượng là một phạm trù trừu tượng, nó mang tính chất định tính và khó định lượng, chúng ta không thể cân đo đong đếm được. Dưới mỗi cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về chất lượng cũng khác nhau. Theo từ điển tiếng Việt, chất lượng được xem là: “Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của mỗi con người, một sự vật, một sự việc”. Đây là cách đánh giá một con người, một sự việc, một sự vật trong cái đơn nhất, cái tính độc lập của nó. Theo một cách hiểu khác thì: Chất lượng là một phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật để phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật, biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng thể, bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật.
Như vậy, về chất lượng cán bộ, công chức, có thể hiểu chất lượng của cán bộ, công chức là khả năng giải quyết các vấn đề thuộc tất cả các lĩnh vực, khả năng thỏa mãn các yêu cầu của tổ chức, cá nhân về cung ứng các dịch vụ hành chính. Tiêu chí để đánh giá chất lượng cán bộ, công chức cũng đa dạng: Có thể là tỷ lệ giải quyết hồ sơ đảm bảo đúng quy định về thời gian, quy trình, thủ tục; có thể là sự đo lường về mức độ thỏa mãn của người dân khi hưởng thụ dịch vụ hành chính liên quan đến các yếu tố, như sự hài lòng về thái độ phục vụ, sự hài lòng về thời gian giải quyết công việc của người dân…
– Khái niệm chất lượng cán bộ, công chức, cấp cơ sở: Chất lượng cán bộ, công chức được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn của cán bộ, công chức là những quy định cụ thể các yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức… của những người cán bộ, công chức theo những tiêu chí nhất định đối với từng ngành nghề riêng biệt. Để đánh giá chất lượng cán bộ, công chức là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức khỏe, trí tuệ khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực, luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng và khả năng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu chất lượng đối với cán bộ, công chức ngày càng cao, đòi hỏi người cán bộ, công chức không những có trình độ, phẩm chất theo tiêu chuẩn cán bộ, công chức mà còn phải gương mẫu, có tinh thần kỷ luật cao, có tư duy khoa học, lý luận sắc bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, gắn bó với tập thể, với cộng đồng, có kỹ năng tốt trong việc kết hợp tri thức khoa học, kinh nghiệm, kỹ năng thực tiễn một cách nhạy bén, linh hoạt; luôn chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chất lượng của cán bộ, công chức ngoài những yếu tố nêu trên còn phụ thuộc vào cơ cấu cán bộ, công chức, đó là tỷ lệ hợp lý giữa các độ tuổi, giữa giới tính nam và nữ, giữa thành phần dân tộc, giữa cán bộ với công chức lãnh đạo, quản lý, công chức phụ trách chuyên môn nghiệp vụ.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu, chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở là chỉ tiêu tổng hợp chất lượng của cán bộ, công chức, thể hiện qua phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, kỹ năng công tác, chất lượng và hiệu quả thực nhiệm vụ được phân công của cán bộ, công chức cũng như cơ cấu hợp lý về độ tuổi, về số lượng cán bộ, công chức và khả năng thích ứng, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Về tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở: Tiêu chí về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; Tiêu chí về năng lực chuyên môn và kỹ năng công tác; Tiêu chí về uy tín trong công tá; Tiêu chí về chất lượng và hiệu quả thực hiện công việc được giao; Tiêu chí về năng lực tổ chức, quản lý.
Các hoạt động nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở: Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; Công tác tuyển dụng; Công tác sử dụng cán bộ, công chức; Công tác đánh giá cán bộ, công chưc; Công tác kiểm tra, giám sát công chức trong thi hành công vụ.
Bên cạnh đó các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng cán bộ, công chức gồm: Các yếu tố khách quan, như: Chế độ, chính sách – Khen thưởng; kỷ luật cán bộ, công chức. Các yếu tố chủ qua: Tinh thần trách nhiệm trong công tác; Ý thức tổ chức kỷ luật của cán bộ, công chức.
Cán bộ, công chức cấp cơ sở có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là người gần dân, sát dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, trực tiếp giải quyết những yêu cầu, thắc mắc về lợi ích chính đáng của nhân dân. Cán bộ, công chức cấp cơ sở đã có sự đóng góp rất lớn trong sự nghiệp cách mạng, duy trì ổn định an ninh chính trị, phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, là động lực của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Chất lượng cán bộ, công chức cấp cơ sở là tổng hợp các yếu tố về phẩm chất chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, sức khỏe, trí tuệ khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, ý chí, niềm tin, năng lực, gắn bó với tập thể, cộng đồng và khả năng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu chất lượng đối với cán bộ, công chức ngày càng cao, đòi hỏi người cán bộ, công chức không những có trình độ, phẩm chất theo tiêu chuẩn cán bộ, công chức mà còn phải gương mẫu, đi tiên phong về lý luận và thực tiễn, có tinh thần kỷ luật cao, có tư duy khoa học, lý luận sắc bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, gắn bó với tập thể, với cộng đồng, có kỹ năng tốt trong việc kết hợp tri thức khoa học, kinh nghiệm, kỹ năng thực tiễn một cách nhạy bén, linh hoạt. Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì cán bộ, công chức cần phải hội tụ những yếu tố cấu thành đó./.
Đỗ Quỳnh Liên
Báo Tuyên Quang