Luận văn: Giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề, 9 điểm, HOT!

  1. 1
    BỘ QUỐC PHÒNG
    HỌC

    VIỆN CHÍNH TRỊ
    
    VŨ ĐÌNH THẮNG
    GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
    TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
    LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
    HÀ NỘI – 2013

  2. 2
    BỘ QUỐC PHÒNG
    HỌC

    VIỆN CHÍNH TRỊ
    
    VŨ ĐÌNH THẮNG
    GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
    TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
    Chuyên ngành:
    Mã số:
    QUẢN LÝ GIÁO DỤC
    60 14 01 14
    NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN PHƯƠNG ĐÔNG
    HÀ NỘI – 2013

  3. 3
    DANH MỤC CÁC

    CHỮ VIẾT TẮT
    TT Viết tắt Viết đầy đủ
    1. BCH Ban chấp hành
    2. CNH Công nghiệp hóa
    3. CNKT Công nhân kỹ thuật
    4. CSDN Cơ sở dạy nghề
    5. ĐH Đại học
    6. GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
    7. HĐH Hiện đại hóa
    8. ILO Tổ chức Lao động quốc tế
    9. LĐ-TB&XH Lao động – Thương binh và Xã hội
    10. TCCN Trung cấp chuyên nghiệp
    11. T.W Trung ương
    12. UNESCO Tổchức vănhóakhoahọcvàgiáo dụccủaLiênHiệpQuốc
    13. UBND Ủy ban nhân dân
    14. WTO Tổ chức thương mại thế giới
    15. XHCN Xã hội chủ nghĩa

  4. 4
    MỤC LỤC
    Trang
    MỞ ĐẦU

    1
    Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
    ĐÀO TẠO NGHỀ 10
    1.1 Những khái niệm cơ bản 10
    1.2 Hệ thống tổ chức, nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nghề 20
    Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO
    TẠO NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
    MINH 30
    2.1 Thực trạng hoạt động đào tạo nghề tại thành phố Hồ Chí Minh 30
    2.2 Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nghề trên địa bàn thành
    phố Hồ Chí Minh 43
    Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
    VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ
    CHÍ MINH 57
    3.1 Định hướng và dự báo 57
    3.2 Giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề trên địa bàn thành
    phố Hồ Chí Minh 68
    3.3 Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp 84
    KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 90
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
    PHỤ LỤC 96
    MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài
    Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, cùng
    với quá trình đổi mới trong lĩnh vực GD&ĐT, dạy nghề đã được phục hồi,

  5. 5
    từng bước được

    đổi mới và phát triển: Quy mô dạy nghề được mở rộng, chất
    lượng dạy nghề được nâng cao, đa dạng hoá các loại hình, hình thức đào tạo,
    bước đầu điều chỉnh cơ cấu cấp độ đào tạo, đổi mới nội dung chương trình,
    phương pháp đào tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề được chú
    trọng, đa dạng hoá và tăng cường nguồn lực dành cho dạy nghề, chất lượng
    dạy nghề đã chuyển biến tích cực; đội ngũ lao động qua đào tạo nghề từng
    bước đáp ứng được yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và xuất khẩu
    lao động.
    Tuy nhiên, trong dạy nghề, quản lý nhà nước về đào tạo nghề còn một
    số yếu kém trong quy hoạch phát triển, cụ thể là: Số lượng, chất lượng, cơ cấu
    ngành nghề, cơ cấu cấp trình độ đào tạo còn chưa đáp ứng được yêu cầu của
    lao động trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; chương trình và phương pháp
    đào tạo còn chậm đổi mới; đội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng và còn yếu
    về chất lượng; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề còn thiếu về số lượng và
    lạc hậu về công nghệ; xã hội hoá dạy nghề còn chậm, thiếu đồng bộ; cơ chế;
    chính sách về dạy nghề chậm được đổi mới; nguồn lực đầu tư còn hạn chế;
    đặc biệt là bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo nghề chưa thật sự ổn định và
    chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.
    Chính vì vậy, Kết luận số 242 – TB/TW ngày 15 tháng 4 năm 2009 của
    Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết T.W 2 (khoá VIII) về
    phương hướng phát triển GD&ĐT đến năm 2020: “Đẩy mạnh công tác đào
    tạo nghề, kể cả những nghề thuộc lĩnh vực công nghệ cao. Mở rộng mạng
    lưới CSDN, phát triển trung tâm dạy nghề quận, huyện,… Chú trọng xây
    dựng một số trường dạy nghề đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Tăng nhanh quy
    mô công nhân và cán bộ kỹ thuật lành nghề ở những lĩnh vực công nghệ cao,
    tiếp cận trình độ tiên tiến thế giới”.
    Luật Dạy nghề năm 2006, quy định dạy nghề có ba trình độ, sơ cấp
    nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, đồng thời xác định chính sách đầu tư
    của Nhà nước về phát triển dạy nghề: “Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để
    đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy nghề, phát triển đội ngũ

  6. 6
    giáo viên, HĐH

    thiết bị, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất
    lượng dạy nghề; tập trung xây dựng một số CSDN tiếp cận với trình độ tiên
    tiến của khu vực và thế giới; chú trọng phát triển dạy nghề ở các vùng có
    điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; đầu tư đào tạo các nghề thị
    trường lao động có nhu cầu, nhưng khó thực hiện xã hội hóa…”
    Giai đọan từ nay đến 2020, trên phạm vi cả nước cũng như tại TP.HCM
    sẽ xây dựng và phát triển nhanh các khu công nghệ cao, các khu kinh tế và
    nhiều KCN, cùng với việc đẩy mạnh tốc độ phát triển các ngành dịch vụ giá
    trị gia tăng cao mang tính cạnh tranh. Kinh tế TP.HCM chuyển dịch theo
    hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ có
    giá trị gia tăng cao thì nhu cầu nhân lực được đào tạo căn bản, chất lượng cao
    sẽ rất lớn. Thực trạng kinh tế – xã hội đòi hỏi nhu cầu rất lớn về chất lượng
    lao động nghề để đáp ứng yêu cầu việc làm tại Thành phố. Nhưng trên thực
    tế, công tác đào tạo nghề và quản lý nhà nước về đào tạo nghề, đặc biệt là cơ
    cấu bộ máy quản lý, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội và yêu cầu của
    doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố và các tỉnh lân cận. Hệ thống văn bản
    quy phạm pháp luật về đào tạo nghề và quản lý nhà nước về đào tạo nghề
    chưa đầy đủ, còn rời rạc, ít nhiều cũng gây trở ngại trong hoạt động đào tạo
    nghề và quản lý nhà nước về đào tạo nghề.
    Do đó, chất lượng nguồn nhân lực Thành phố là yêu cầu khách quan
    trong quá trình phát triển, đồng thời cũng là thách thức đối với Thành phố và
    hệ thống giáo dục – đào tạo, trong đó có quản lý về đào tạo nghề, trong quá
    trình CNH – HĐH.
    Từ những lý do trên chúng tôi chọn vấn đề “Giải pháp quản lý nhà
    nước về đào tạo nghề trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” để
    nghiên cứu là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
    2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
    Quán triệt và cụ thể các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,
    Nhà nước về phát triển giáo dục – đào tạo; trong những năm qua đã có rất
    nhiều công trình khoa học, nhiều bài viết về đào tạo nghề, phát triển nguồn

  7. 7
    nhân lực phục

    vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiêu
    biểu như:
    Hội thảo khoa học (2001): “Cơ cấu tổ chức và quản lý hệ thống giáo
    dục kỹ thuật và dạy nghề ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010” do Tổng cục
    Dạy nghề – Bộ LĐ- TB&XH chủ trì.
    Đề tài khoa học (1998): “Các giải pháp tăng cường công tác đào tạo đội
    ngũ CNKT công nghiệp của TP.HCM giai đoạn 2000 và 2005”. Đây là công
    trình nghiên cứu của tập thể các giáo sư, chuyên viên, nhà quản lý, cán bộ
    giảng dạy,… do tác giả Tạ Văn Doanh làm chủ nhiệm.
    Đề tài (2002): “Nghiên cứu phát triển hệ thống dạy nghề và đào tạo
    CNKT TP.HCM giai đoạn 2001 – 2005” do Sở Khoa học – Công nghệ và Sở
    LĐ-TB&XH và Xã hội TP.HCM phối hợp tổ chức.
    Kỷ yếu Hội nghị “Tổng kết hoạt động dạy nghề, giải quyết việc làm và
    xuất khẩu lao động 2003” do Sở LĐ-TB&XH chủ trì.
    Ngoài ra, cũng có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
    liên quan đến vấn đề nghiên cứu như:
    Tác giả Nguyễn Duy Bắc (2002) quan tâm đến “Đào tạo nghề phục vụ
    sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” (Tạp chí
    Giáo dục, số 22/2002). Trong đó, tác giả đã nêu lên một số vấn đề lý luận và
    thực trạng chỉ ra những khó khăn của dạy nghề ở nông thôn và đề xuất một số
    biện pháp bảo đảm chất lượng dạy nghề phù hợp với đặc thù nông thôn.
    Tác giả Phạm Minh Hạc (2008) với nghiên cứu về “Đào tạo nghề góp
    phần phát triển nguồn nhân lực của đất nước thế kỷ XXI (Tạp chí Khoa học
    Giáo dục, số 5/2008). Từ sự phân tích nhu cầu đào tạo nghề để phục vụ phát
    triển kinh tế – xã hội của đất nước, tác giả đã tập trung làm rõ những hạn chế,
    khuyết điểm trong đào tạo nghề ở nước ta hiện nay như: Đào tạo nghề chưa
    gắn với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, sự phân bố các trường dạy nghề
    không hợp lý, nội dung chương trình, phương pháp dạy nghề lạc hậu, bộ máy
    quản lý nhà nước về dạy nghề không ổn định, trang thiết bị cho dạy nghề cần
    chi phí lớn. Đây là công trình nghiên cứu đề cập đến nhiều nội dung, trong đó
    có vấn đề quản lý nhà nước về đào tạo nghề.

  8. 8
    Tác giả Nguyễn

    Đức Trí (2008) đi sâu nghiên cứu về “Giáo dục nghề
    nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường lao động (Tạp chí Khoa học Giáo dục, số
    5/2008). Trên cơ sở luận chứng nhu cầu của thị trường lao động, thực trạng
    giáo dục nghề nghiệp; tác giả đề xuất một số giải pháp về xác định nhu cầu số
    lượng, cơ cấu lao động, qui hoạch lại mạng lưới hệ thống các cơ sở giáo dục
    nghề nghiệp, xây dựng một số loại tiêu chuẩn cần thiết cho giáo dục nghề
    nghiệp, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng đào tạo nghề, đa dạng hóa và
    gắn kết giữa đào tạo và sử dụng.
    Cũng đề cập đến quản lý nhà nước về dạy nghề, tác giả Nguyễn Minh
    Đường (2008) đã nghiên cứu, đề xuất “Hoàn thiện cơ cấu giáo dục quốc dân
    và tổ chức quản lý giáo dục nghề (Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 38/2008).
    Chỉ ra một số bất cập về quản lý hệ thống giáo dục nghề nghiệp hiện nay,
    kiến nghị một số giải pháp như tổ chức lại hệ thống dạy nghề, hoàn thiện hệ
    thống quản lý dạy nghề.
    Tác giả Phan Văn Nhân (2008) đã nghiên cứu về “Nhu cầu đổi mới và
    quản lý hệ thống giáo dục nghề nghiệp từ việc xây dựng, qui hoạch phát triển
    giáo dục và nguồn nhân lực cấp tỉnh thành phố, (Tạp chí Khoa học Giáo dục,
    số 38/2008). Đánh giá thực trạng quản lý hệ thống giáo dục nghề nghiệp Việt
    Nam, vướng mắc trong quá trình xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục và
    nguồn nhân lực cấp tỉnh, thành phố, đề xuất giải pháp về hợp nhất cơ quan
    quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, hoàn thiện tổ chức bộ máy phòng
    quản lý giáo dục nghề nghiệp, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
    của cơ sở dạy nghề, thành lập hội đồng đào tạo nhân lực cấp quốc gia, các
    trung tâm đánh giá và cấp chứng chỉ nghề quốc gia, qui hoạch và thống nhất
    mạng lưới CSDN.
    Tập trung nghiên cứu, tìm kiếm “Giải pháp nâng cao khả năng đáp
    ứng nhu cầu xã hội của đào tạo nghề” (Tạp chí Khoa học Giáo dục, số
    39/2008), tác giả Phan Minh Hiển (2008) đã luận giải chủ thể của nhu cầu xã
    hội trong đào tạo nghề, của cơ sở sử dụng lao động, của người học, đề xuất
    giải pháp nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội của đào tạo nghề như:
    Đổi mới quản lý dạy nghề, tiếp tục phát triển các CSDN, phát triển chương

  9. 9
    trình dạy nghề

    theo nhu cầu lao động, nâng cao năng lực giáo viên dạy nghề,
    thiết lập hệ thống thông tin dạy nghề, xây dựng hoàn thiện các chính sách
    nâng cao chất lượng dạy nghề, công tác người học nghề, nâng cao khả năng
    đáp ứng nhu cầu xã hội của đào tạo nghề.
    Đi từ nghiên cứu “Thực trạng quản lý đào tạo nghề các trường dạy
    nghề theo hướng đáp ứng nhu cầu xã hội” (Tạp chí Giáo dục, số 297/2012);
    tác giả Nguyễn Thị Hằng đã chỉ ra thực trạng đào tạo nghề hiện nay như: Mức
    độ phù hợp của chương trình đào tạo, thông tin về đào tạo và tư vấn cho học
    sinh, quan hệ hợp tác giữa trường nghề và doanh nghiệp, đào tạo bồi dưỡng
    cán bộ,… từ đó rút ra những điểm mạnh, điểm yếu từ thực trạng đã khảo sát.
    Từ sự khái quát tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây, chúng tôi
    nhận thấy:
    Các công trình trên đã nghiên cứu các hướng, nội dung chính sau:
    Nêu thực trạng công tác quản lý nhà nước về công tác đào tạo nghề
    hiện nay còn những bất cập chồng chéo khi lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp có
    hai bộ ngành cùng song trùng quản lý là Bộ GD&ĐT (quản lý hệ TCCN, cao
    đẳng, ĐH) và Bộ LĐ-TB&XH (quản lý trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề
    và cao đẳng nghề).
    Đề xuất các chính sách nâng cao chất lượng đào tạo nghề: Tăng quyền
    tự chủ cho các cơ sở đào tạo nghề; cải tiến chương trình và phương pháp đào
    tạo, nâng cao năng lực giáo viên dạy nghề; tăng cường đầu tư thiết bị dạy
    nghề; quy hoạch lại mạng lưới các CSDN; tăng cường sự liên kết giữa các
    CSDN và doanh nghiệp nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
    nhu cầu thị trường lao động.
    Những công trình nghiên cứu và đề tài trên khá phong phú và đa dạng,
    đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến công tác đào tạo nguồn
    nhân lực. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đề cập nội dung rộng và còn
    nhiều ý kiến khác nhau. Các giải pháp tổ chức và thực hiện đào tạo nguồn
    nhân lực còn tản mạn. Đặc biệt chưa có công trình nào đề cập đến giải pháp
    quản lý đào tạo nghề nhằm đáp ứng nhu cầu, yêu cầu của xã hội và mục tiêu
    đến năm 2020 của TP.HCM.

  10. 10
    3. Mục đích

    và nhiệm vụ nghiên cứu
    Mục đích nghiên cứu
    Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về đào tạo
    nghề, đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề trên địa bàn
    TP.HCM góp phần hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, các cơ chế chính
    sách và nâng cao chất lượng đào tạo nghề nhằm cung ứng nguồn nhân lực
    chất lượng cao cho Thành phố và các tỉnh lân cận từ đây đến năm 2020.
    Nhiệm vụ nghiên cứu
    Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý nhà nước về đào tạo nghề.
    Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nghề trên
    địa bàn TP.HCM và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm.
    Đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề trên địa bàn
    TP.HCM hiện nay.
    4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động đào tạo nghề trên địa bàn
    TP.HCM.
    Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề
    trên địa bàn TP.HCM.
    Phạm vi nghiên cứu.
    Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý
    nhà nước về đào tạo nghề của Sở LĐ-TB&XH TP.HCM – cơ quan tham mưu
    giúp Ủy ban nhân dân Thành phố quản lý nhà nước trong đào tạo nghề.
    Giới hạn về khách thể khảo sát: Các CSDN thuộc Sở LĐ-TB&XH
    TP.HCM quản lý.
    Giới hạn về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà
    nước về đào tạo nghề từ khi có chủ trương đổi mới đến nay; trong đó trọng tâm
    là khảo sát, phân tích, thống kê số liệu đào tạo nghề giai đoạn 2008 – 2012.
    5. Giả thuyết khoa học
    Nâng cao chất lượng và phát triển số lượng các cơ sở đào tạo nghề phụ
    thuộc vào sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố. Trong công tác quản lý nhà
    nước về vấn đề này, nếu thường xuyên coi trọng công tác tuyên truyền giáo

  11. 11
    dục kết hợp

    với đổi mới tư duy, phương pháp quản lý; xây dựng, bổ sung hoàn
    thiện cơ chế chính sách, các văn bản pháp quy và quy hoạch mạng lưới CSDN
    phù hợp với nhu cầu của địa phương, coi trọng đúng mức quản lý chất lượng
    đạo tạo nghề của các CSDN thì công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề trên
    địa bàn Thành phố sẽ được nâng cao, góp phần thiết thực vào việc nâng cao
    chất lượng đào tạo nghề theo quan điểm của Đảng.
    6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
    Phương pháp luận nghiên cứu
    Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
    chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin; quán triệt và cụ thể hoá tư tưởng Hồ Chí
    Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục – đào
    tạo, quản lý giáo dục; trực tiếp là đào tạo và quản lý đào tạo nghề.
    Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm tiếp cận hệ thống – cấu trúc;
    quan điểm lịch sử – lôgíc và quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích những
    vấn đề liên quan.
    Phương pháp nghiên cứu
    Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
    Nghiên cứu các tài liệu liên quan tới lĩnh vực quản lý nhà nước về đào
    tạo nghề, nguồn nhân lực, lao động, việc làm.
    Nghiên cứu các văn kiện, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
    nước về giáo dục chuyên nghiệp. Nghiên cứu hệ thống quy trình, nội dung
    quản lý nhà nước về đào tạo nghề: Các chính sách, chiến lược, kế hoạch, quy
    hoạch mạng lưới sơ sở dạy nghề; tổ chức bộ máy quản lý, đào tạo đội ngũ
    giáo viên; phương pháp và chương trình đào tạo các cấp độ; đầu tư cơ sở vật
    chất; thanh tra, kiểm định, hợp tác quốc tế về đào tạo nghề.
    Nghiên cứu các báo cáo hàng năm của Bộ LĐ-TB&XH, Tổng cục Dạy
    nghề, Sở LĐ-TB&XH, Ban Quản lý các KCN và KCX TP.HCM, Sở Công
    thương TP.HCM, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM về lao động, việc làm.

  12. 12
    Nghiên cứu sách,

    báo, tạp chí về dạy nghề; internet và các tài liệu khác
    có liên quan.
    Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
    Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Điều tra các đối tượng là sinh
    viên, học viên và cựu học viên; giáo viên dạy nghề; lãnh đạo một số CSDN;
    lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề tại TP.HCM.
    Phương pháp quan sát: Trực tiếp quan sát hoạt động quản lý đào tạo
    nghề tại các CSDN và hoạt động quản lý tại các cơ quan quản lý về dạy nghề
    của Thành phố.
    Phương pháp tọa đàm: Trao đổi với một số cán bộ quản lý của các cơ
    quan quản lý nhà nước về đào tạo nghề các cấp (Bộ LĐ-TB&XH, Tổng cục
    Dạy nghề, Sở LĐ-TB&XH,…); lãnh đạo, giáo viên của một số CSDN về
    những vấn đề quản lý nhà nước đào tạo nghề.
    Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến một số nhà khoa học, giáo viên,
    cán bộ quản lý CSDN về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan tới
    việc nghiên cứu đề tài.
    Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu báo cáo tổng kết tình hình
    đào tạo nghề hàng năm của Sở LĐ-TB&XH, Tổng cục dạy nghề,… từ những
    vấn đề đã và đang diễn ra nhằm đúc kết thành những kinh nghiệm về quản lý
    nhà nước về đào tạo nghề tại TP.HCM hiện nay.
    Phương pháp toán học
    Sử dụng phương pháp toán học để thống kê, phân tích số liệu: Sử dụng
    các phần mềm, toán thống kê để thống kê số liệu kết hợp phần mềm để phân
    tích kết quả điều tra khảo sát và các số liệu có liên quan.
    7. Ý nghĩa của đề tài
    Vận dụng lý luận quản lý giáo dục nói chung vào quản lý nhà nước về
    đào tạo nghề vào địa bàn TP.HCM.
    Xây dựng khái niệm của đề tài.
    Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về
    đào tạo nghề tại TP.HCM nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển đào tạo nghề

  13. 13
    phục vụ sự

    nghiệp CNH – HĐH giai đoạn 2015 – 2020 và những năm sau đó
    theo Nghị quyết Hội nghị BCH Đảng bộ TP.HCM lần IX đã xác định.
    8. Cấu trúc của luận văn
    Luận văn có cấu trúc bao gồm: Phần mở đầu; 3 chương (07 tiết); kết
    luận và kiến nghị; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

  14. 14
    Chương 1
    NHỮNG VẤN

    ĐỀ LÝ LUẬN
    QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
    1.1. Những khái niệm cơ bản
    1.1.1. Đào tạo nghề (dạy nghề)
    Theo từ điển Tiếng Việt, năm 2007 (Nxb Đà Nẵng): Đào tạo là “làm
    cho trở thành người có năng lực, có khả năng làm việc theo những tiêu chuẩn
    nhất định.”
    Đào tạo là khái niệm có nội hàm rộng, đó chính là huấn luyện, bồi
    dưỡng, rèn luyện cho một người từ chưa hiểu biết thành hiểu biết, từ chưa có
    năng lực làm việc thành có năng lực, từ người năng lực chưa hoàn chỉnh
    thành người phát triển đầy đủ năng lực, phẩm chất để làm việc. Khái niệm
    “đào tạo” nghiên cứu trong luận án này được hiểu theo phạm vi hẹp hơn, đó
    là “đào tạo nghề” hay còn gọi là “dạy nghề” và được quy định tại Luật Giáo
    dục và Luật Dạy nghề.
    Theo Luật Giáo dục: Đào tạo nghề là “một bậc học trong hệ thống giáo
    dục quốc dân, đào tạo nghề là một khái niệm mà phạm trù của nó nằm trong
    khái niệm đào tạo; đào tạo nghề nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp
    trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ
    đào tạo”.
    Theo Luật Dạy nghề: Đào tạo nghề – dạy nghề là “hoạt động dạy và học
    nhằm trang bị, kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người
    học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn tất
    khóa học”.
    Theo Benjamin S.Bloom (Taxonomy of Educational Objectives) mọi
    công việc đều đòi hỏi những kiến thức, kỹ năng và thái độ nhất định để có thể
    thực hiện được. Do đó, đào tạo nghề phải là quá trình truyền đạt cho người
    học những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết của nghề sẽ được người học
    nghề thực hiện trong tương lai.

  15. 15
    Về lĩnh vực

    nhận thức, B.S.Bloom chia thành 6 cấp độ phát triển của
    kiến thức, nhận thức từ đơn giản nhất đến phức tạp.
    Sáng tạo Sự sáng tạo trong thực tế
    Các cấp độ phát triển Những đặc trưng
    (Hình 1: Sơ đồ Các cấp độ phát triển của kiến thức – Bloom, 1956)
    Theo Romiszowski, đào tạo nghề là phải rèn luyện cho người học cả 3
    lĩnh vực: kiến thức, thái độ và kỹ năng làm việc, trong đó:
    Kiến thức cần thiết có liên quan đến một công việc là những thông tin
    có ảnh hưởng trực tiếp đến công việc. Kiến thức là những thông tin chứa
    trong não. Kiến thức có thể là: sự kiện, khái niệm, nguyên tắc, quy trình, quy
    định, quy luật, nguyên tắc, quá trình, cấu trúc…
    Thái độ là những giá trị bên trong, những cảm xúc, niềm tin, động cơ.
    Thái độ có các thành phần chủ yếu: kiến thức về chủ đề, cảm xúc về chủ đề,
    hành động nhằm biểu hiện cảm nhận cá nhân. Thái độ có thể quan sát được,
    bao gồm hành vi cá nhân (vẻ bề ngòai, thói quen, sự tôn trọng, sự nhất quán,
    sự tham gia…), hành vi cư xử (lịch sự, cởi mở, hợp tác, trung thực, hòa đồng,
    hợp tác…) và không quan sát được, bao gồm tình cảm, niềm tin, giá trị, …
    Kỹ năng là khả năng thực hiện một phần hay toàn bộ một công việc.
    Người hành nghề cần có những kỹ năng về đối tượng lao động, bao gồm kỹ
    năng nhận thức (sáng tạo, giải quyết vấn đề, phân tích, tổng hợp, ra quyết
    Phân
    tích
    Phân
    tích
    h
    Tổng
    hợp
    Đánh
    giá
    Áp dụng
    Hiểu
    Nhớ Chỉ nhớ, nhắc lại các sự kiện, khái
    niệm, những vấn đề cụ thể
    Nắm được ý nghĩa, bản chất, quy luật,
    đặc tính …
    Thể hiện sự hiểu biết qua các tình
    huống tự nhiên, cụ thể
    – Vận dụng vào thực tế, làm chủ tri thức
    – Khả năng tổng hợp, khái quát hóa
    – Khả năng phân tích, suy luận

  16. 16
    định) và kỹ

    năng tâm vận nghề nghiệp; kỹ năng về sử dụng công cụ lao động,
    bao gồm kỹ năng sử dụng, kiểm tra, bảo quản; kỹ năng về mối quan hệ trong
    lao động, bao gồm kỹ năng đàm phán, thuyết phục, giao tiếp, làm việc nhóm,
    lắng nghe, đàm phán…
    Theo Tổ chức Lao động thế giới (ILO): Đào tạo nghề là nhằm cung cấp
    cho người học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên
    quan tới công việc, nghề nghiệp được giao.
    Trong quá trình đào tạo cần chú ý đào tạo cả ba lĩnh vực: Kiến thức, kỹ
    năng, thái độ; đồng thời phải hướng dẫn cho người học khả năng tự tìm việc,
    tự tạo việc làm và tự trao dồi chuyên môn để có thể thích ứng với sự tiến bộ
    nhanh của khoa học công nghệ.
    Các doanh nghiệp muốn có những công nhân biết thực hiện các kỹ năng
    cần thiết trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Người công nhân phải có khả
    năng giải quyết các vấn đề, điều chỉnh được các quy trình và hợp tác với đồng
    nghiệp để tìm ra những giải pháp thích hợp. Người công nhân phải thấy được
    mối tương quan giữa mọi kỹ năng với nhiệm vụ, công việc được giao. Một
    công nhân như vậy là phải vừa thành thạo vừa rất tự tin trong công việc.
    Theo tác giả Phan Chính Thức, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy
    nghề (Bộ LĐ-TB&XH) thì đào tạo nghề là quá trình phát triển có hệ thống
    kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp và khả năng tìm được việc
    làm, tự tạo việc làm [33, tr.23].
    Từ các cách tiếp cận trên đây cho thấy, đào tạo nghề là quá trình cung
    cấp cho người học những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết của một nghề
    cụ thể và những kỹ năng hội nhập trong môi trường doanh nghiệp để có thể
    thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên quan đến công việc được giao hoặc tự tạo
    việc làm trong phạm vi nghề nghiệp đó.
    Theo các quy định hiện hành, đào tạo nghề hiện nay có ba trình độ là sơ
    cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề:
    Mục tiêu dạy nghề trình độ sơ cấp là nhằm trang bị cho người học năng
    lực thực hành một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số công việc
    của một nghề; có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong

  17. 17
    công nghiệp, có

    sức khoẻ, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt
    nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình
    độ cao hơn.
    Dạy nghề trình độ sơ cấp được thực hiện từ ba tháng đến dưới một năm
    đối với người có trình độ học vấn, sức khoẻ phù hợp với nghề cần học (trích
    Điều 10 – 11, Luật Dạy nghề).
    Mục tiêu dạy nghề trình độ trung cấp nhằm trang bị cho người học nghề
    kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có
    khả năng làm việc độc lập và ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; có
    đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có
    sức khoẻ, tạo điều kiện cho người học nghề sau khi tốt nghiệp có khả năng
    tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn.
    Dạy nghề trình độ trung cấp được thực hiện từ một đến hai năm học tuỳ
    theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông; từ ba
    đến bốn năm học tuỳ theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp
    trung học cơ sở (trích Điều 17 – 18, Luật Dạy nghề).
    Mục tiêu dạy nghề trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho người học nghề
    kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề, có
    khả năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng
    tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc; giải quyết được các tình
    huống phức tạp trong thực tế; có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ
    luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ, tạo điều kiện cho người học nghề
    sau khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học
    lên trình độ cao hơn.
    Dạy nghề trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tuỳ
    theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông; từ
    một đến hai năm học tuỳ theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp
    trung cấp nghề cùng ngành nghề đào tạo (trích Điều 24 – 25, Luật Dạy nghề).
    Về loại hình đào tạo nghề được thực hiện bằng 2 loại hình: Dạy nghề
    chính quy và dạy nghề thường xuyên.

  18. 18
    Dạy nghề chính

    quy: Được thực hiện với các chương trình sơ cấp nghề,
    trung cấp nghề và cao đẳng nghề tại các CSDN theo các khóa học tập trung và
    liên tục.
    Dạy nghề thường xuyên: Được thực hiện với các chương trình dạy nghề
    theo quy định của Luật Dạy nghề. Dạy nghề thường xuyên được thực hiện
    linh hoạt về thời gian, địa điểm, phương pháp đào tạo để phù hợp với yêu cầu
    của người học nghề nhằm tạo điều kiện cho người lao động học suốt đời,
    nâng cao trình độ kỹ năng nghề thích ứng với yêu cầu của thị trường lao
    động, tạo cơ hội việc làm, tự tạo việc làm.
    Giữa giáo dục hàn lâm và đào tạo nghề có nhiều điểm chung nhưng
    cũng có những điểm khác biệt. Giáo dục hàn lâm nhằm mục tiêu phát triển
    toàn diện nhân cách, những năng lực rộng; còn đào tạo nghề nhằm mục tiêu
    hình thành năng lực thực hiện cụ thể và những công việc định hướng.
    C.Ia.Batusep đã viết: “Giáo dục và giáo dục học nghề nghiệp có những khác
    biệt. Dạy thực hành (dạy sản xuất) trong các trường dạy nghề là một đặc
    điểm, chính việc dạy thực hành là một bộ phận quan trọng nhất của giáo dục
    kỹ thuật nghề nghiệp. Giáo dục nghề nghiệp vừa phát triển, song vừa phụ
    thuộc vào giáo dục hàn lâm trong một mức độ nào đó” [2, tr.27]. Đào tạo
    nghề khác với giáo dục hàn lâm ở những điểm chủ yếu sau:
    Đào tạo nghề gắn chặt với sản xuất, với doanh nghiệp, với việc làm, đặc
    biệt là trong điều kiện kinh tế thị trường;
    Là hoạt động đào tạo nghề nghiệp mang tính thực hành kỹ thuật cao,
    chiếm từ 70% thời gian học trở lên, có những nghề chiếm tới 90 – 100%.
    Đối tượng học nghề: Những người trưởng thành, thậm chí đã lớn tuổi.
    1.1.2. Cơ sở dạy nghề
    Theo Luật Dạy nghề hiện hành, CSDN bao gồm: Trung tâm dạy nghề;
    trường trung cấp nghề; trường cao đẳng nghề; trường TCCN, trường cao
    đẳng, trường ĐH có đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề,
    cao đẳng nghề.

  19. 19
    Luật Giáo dục

    chỉ rõ, cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm: Trường
    TCCN; trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, lớp
    dạy nghề và được gọi chung là CSDN.
    Như vậy, CSDN là các trung tâm dạy nghề, trường trung cấp nghề,
    trường cao đẳng nghề; trường TCCN, trường cao đẳng và các doanh nghiệp
    có đăng ký dạy nghề.
    Về hình thức sở hữu, có CSDN công lập và tư thục, CSDN có vốn đầu
    tư nước ngoài.
    Mô hình tổ chức hoạt động của CSDN có ba loại hình cơ bản là:
    Trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề.
    CSDN trình độ sơ cấp gồm có: Trung tâm dạy nghề; trường trung cấp
    nghề, trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp; doanh
    nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác, trường TCCN,
    trường cao đẳng, trường ĐH, cơ sở giáo dục khác có đăng ký dạy nghề trình
    độ sơ cấp.
    CSDN trình độ trung cấp gồm có: Trường trung cấp nghề; trường cao
    đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình độ trung cấp; trường TCCN, trường cao
    đẳng, trường ĐH có đăng ký dạy nghề trình độ trung cấp.
    CSDN trình độ cao đẳng gồm có: Trường cao đẳng nghề; trường cao
    đẳng, trường ĐH có đăng ký dạy nghề trình độ cao đẳng.
    CSDN là tế bào cơ sở của nền giáo dục quốc dân, nơi trực tiếp thực
    hiện mọi chủ trương, chính sách của nhà nước về dạy nghề, nơi trực tiếp
    quyết định chất lượng dạy nghề. Vì vậy, việc quản lý hệ thống này nhằm tạo
    điều kiện cho nó phát triển, đồng thời hướng hoạt động của nó theo đúng chủ
    trương chiến lược, mục tiêu dạy nghề và chính sách, pháp luật là một nội
    dung quan trọng trong quản lý nhà nước về dạy nghề.
    1.1.3. Quản lý nhà nước về đào tạo nghề
    Một số nhà nghiên cứu hành chính, luật pháp cho rằng: Quản lý nhà
    nước về dạy nghề là sự tác động, điều chỉnh thường xuyên của Nhà nước
    bằng quyền lực nhà nước đối với toàn bộ hoạt động dạy nghề của một quốc

  20. 20
    gia nhằm định

    hướng, thiết lập trật tự kỷ cương của hoạt động dạy nghề,
    hướng đến mục tiêu và yêu cầu của sự phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
    Từ sự phân tích trên có thể hiểu: Quản lý nhà nước về đào tạo nghề là
    sự tác động có tổ chức và điều hành bằng quyền lực nhà nước đối với các
    hoạt động dạy nghề, do các cơ quan quản lý dạy nghề của Nhà nước từ T.W
    đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước ủy quyền
    nhằm phát triển sự nghiệp dạy nghề, duy trì trật tự, kỷ cương, thỏa mãn nhu
    cầu đựơc đào tạo nghề của lao động xã hội và thực hiện mục tiêu phát triển
    sự nghiệp dạy nghề của Nhà nước.
    Quản lý nhà nước về đào tạo nghề là việc các cơ quan nhà nước thực
    hiện quyền lực công để điều hành, điểu chỉnh toàn bộ các hoạt động đào tạo
    nghề trong phạm vi toàn xã hội để thực hiện mục tiêu dạy nghề của Nhà nước.
    Quản lý nhà nước về đào tạo nghề là sự quản lý hệ thống dạy nghề về
    mục tiêu chương trình, nội dung, kế hoạch dạy nghề, tiêu chuẩn giáo viên,
    quy chế kiểm tra, thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ.
    Có thể chia quản lý đào tạo nghề trên hai phương diện: Quản lý nhà
    nước về đào tạo nghề và quản lý sự nghiệp trong các CSDN. Trong quản lý
    đào tạo nghề cần có sự phân định rõ hai phương diện quản lý và kết hợp chặt
    chẽ cả hai phương diện để phát triển sự nghiệp dạy nghề.
    Vai trò của quản lý nhà nước về dạy nghề được thể hiện ở vị trí quan
    trọng trong việc tạo lập và phát triển được nguồn lực quyết định nhất cho sự
    phát triển, đó là nguồn lực con người được đào tạo nghề đáp ứng cho yêu cầu
    công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, quản lý nhà nước về dạy nghề có vai
    trò to lớn và việc thường xuyên hoàn thiện quản lý nhà nước về dạy nghề là
    một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển giáo dục –
    đào tạo và dạy nghề của quốc gia.
    Quản lý sự nghiệp dạy nghề (quản lý đào tạo nghề) là sự tác động, điều
    khiển của người đứng đầu CSDN và bộ máy quản lý vào các hoạt động dạy
    nghề của đơn vị trên cơ sở chính sách, pháp luật về dạy nghề của Nhà nước và
    hệ thống quy chế, nội quy hoạt động của tổ chức nhằm nâng cao chất lượng
    đào tạo nghề, thực hiện tốt kế hoạch dạy nghề được đặt ra.

  21. 21
    Quản lý tại

    các CSDN là quản lý tất cả các nhân tố, các hoạt động và
    quá trình diễn ra tại CSDN nhằm đạt được các mục tiêu cũng như nhiệm vụ
    đặt ra đối với CSDN. Quản lý tại các CSDN là hoạt động quản lý tác nghiệp
    trong phạm vi nội bộ CSDN với các đối tác…
    Chủ thể của quản lý nhà nước về dạy nghề là Nhà nước với hệ thống
    các cơ quan quyền lực, mà trực tiếp là Chính phủ và hệ thống bộ máy quản lý
    nhà nước về dạy nghề từ T.W đến địa phương (Ở T.W là Bộ LĐ-TB&XH, ở
    cấp tỉnh/thành phố trực thuộc T.W là Sở LĐ-TB&XH).
    Khách thể của quản lý nhà nước về dạy nghề là hệ thống các CSDN và
    những người tham gia vào quá trình dạy nghề.
    Mục đích quản lý nhà nước về đào tạo nghề là đảm bảo trật tự, kỷ
    cương trong các hoạt động đào tạo nghề nhằm làm cho sự nghiệp đào tạo
    nghề không ngừng phát triển đáp ứng yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh
    tế, cơ cấu lao động, yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
    Mục đích quản lý nhà nước về đào tạo nghề nhằm tạo ra những tiền đề,
    điều kiện cho sự phát triển sự nghiệp đào tạo nghề: Làm cho sự phát triển đào
    tạo nghề đúng hướng, đáp ứng các mục tiêu chiến lược đào tạo nghề trong
    từng giai đoạn phát triển; làm cho tất cả các hoạt động đào tạo nghề đi vào kỷ
    cương, trật tự; đảm bảo sự công bằng trong đào tạo nghề thông qua hệ thống
    chính sách về dạy nghề, tạo cơ hội cho mọi người có điều kiện tham gia vào
    quá trình đào tạo nghề; đảm bảo những điều kiện vật chất cho sự nghiệp đào
    tạo nghề phát triển.
    Nhà nước là người đầu tư và đồng thời là người đặt hàng lớn nhất cho
    đào tạo nghề.
    Nguyên tắc quản lý nhà nước về đào tạo nghề là tổng thể những tư
    tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính
    nhà nước. Nguyên tắc quản lý nhà nước về đào tạo nghề là tư tưởng xuất phát
    làm cơ sở cho tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước về
    đào tạo nghề.
    Quản lý nhà nước về dạy nghề được thực hiện theo hai nguyên tắc cơ bản:
    Một là, nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ.

  22. 22
    Quản lý theo

    ngành là quản lý của một cơ quan hành chính nhà nước,
    T.W (Bộ, Tổng cục…) đối với toàn ngành trên phạm vi cả nước trên những
    mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, tài chính,… nhằm bảo đảm
    sự thống nhất của ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân và trong toàn xã
    hội để khai thác hợp lý nhất mọi tiềm năng và đạt được năng suất và hiệu quả
    tối ưu.
    Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý các đơn vị, tổ chức kinh tế,
    văn hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế – kỹ thuật hoặc hoạt động với mục đích
    giống nhau nhằm làm cho hoạt động của các tổ chức, đơn vị này phát triển
    một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được với yêu cầu của Nhà nước và
    nhu cầu của xã hội.
    Quản lý theo ngành là liên hiệp hoặc hợp nhất các đơn vị kinh tế, văn
    hóa, xã hội cùng một cơ cấu kinh tế kỹ thuật như sản xuất ra cùng một sản
    phẩm hoặc hoạt động cùng một mục đích giống nhau.
    Theo đó, CSDN thực hiện chức năng, nhiệm vụ đào tạo nghề theo sự
    chỉ đạo của ngành dọc, nhưng các CSDN đều đóng trên một địa bàn cụ thể
    nào đó, vì vậy cũng phải tuân thủ sự quản lý hành chính của địa phương theo
    quy định phân cấp của Nhà nước.
    Mọi hoạt động quản lý không thể tách rời sự chỉ đạo theo ngành dọc và
    theo lãnh thổ; đây được coi là nguyên tắc quan trọng trong quản lý nhà nước
    nói chung và quản lý về dạy nghề nói riêng.
    Hai là, nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý dạy nghề.
    Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động chính trị – xã
    hội ở nước ta, đồng thời cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và
    hoạt động của bộ máy nhà nước.
    Quản lý nhà nước về dạy nghề cũng tuân thủ nguyên tắc này. Nguyên
    tắc tập trung dân chủ yêu cầu Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục
    quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, quy chế thi cử, hệ thống văn
    bằng… Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về quản lý dạy nghề, trong đó có dạy
    nghề ở địa phương và tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.

  23. 23
    Nguyên tắc tập

    trung dân chủ cũng đòi hỏi trong quá trình triển khai
    quản lý, chỉ đạo cần tuân thủ những quy định chung của cấp trên về chủ
    trương, đường lối, phát triển sự nghiệp dạy nghề; đòi hỏi cơ sở phải tuân thủ
    hành lang pháp lý đã quy định nhưng tuyệt đối không được áp đặt, cần tạo
    điều kiện cho cơ sở phát huy quyền chủ động, sáng tạo của họ.
    Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước về dạy
    nghề là Nhà nước thống nhất, tập trung quản lý về chế độ, chính sách dạy
    nghề, về mục tiêu, nội dung, quy chế văn bằng… Tuy nhiên, tạo điều kiện cho
    cơ sở chủ động, sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động đào tạo nghề và
    quản lý dạy nghề cụ thể, tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân
    cấp, phân quyền về quản lý dạy nghề rõ ràng bằng một hành lang pháp lý hợp
    lý, đồng bộ. Đối với cơ sở, phát huy quyền làm chủ của tập thể sư phạm, đồng
    thời đề cao trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng đối với việc quản lý
    nhà nước. Dân chủ hóa giáo dục là tư tưởng lớn, tuy nhiên việc dựa vào các
    văn bản pháp luật, pháp quy để đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với mọi đối
    tượng tham gia hoạt động dạy nghề là điều cần nắm chắc khi triển khai
    nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ sở.
    Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ là phát huy quyền
    chủ động của CSDN dựa trên hành lang pháp lý được quy định bởi Luật Giáo
    dục, Luật Dạy nghề và những văn bản pháp quy trong hoạt động quản lý dạy
    nghề, đồng thời nâng cao tinh thần cá nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và phát
    huy dân chủ của tập thể theo quy chế dân chủ cơ sở.
    1.1.4. Giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề
    Giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề là những ý tưởng của các
    cấp quản lý giải quyết các vấn đề trong toàn bộ quá trình đào tạo nghề (về mô
    hình quản lý, mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, thiết bị – cơ sở vật
    chất, …), xây dựng quy chế, quy định tạo hành lang pháp lý, trao quyền tự
    chủ cho các CSDN, nhằm tạo ra nguồn nhân lực có tay nghề cao (kỹ năng
    nghề, tư duy sáng tạo,…) và có phẩm chất đạo đức tốt (thái độ, tác phong lao
    động, kỹ năng mềm,…) đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa và
    phát triển xã hội.

  24. 24
    Giải pháp quản

    lý nhà nước về đào tạo nghề gồm các giải pháp nhằm
    thực hiện tốt chức năng quản lý quá trình đào tạo nghề, quản lý các nhân tố
    trong quá trình đào tạo, quản lý chất lượng đào tạo nghề.
    Tùy vào các trình độ đào tạo, mục tiêu, đối tượng đào tạo mà có những
    giải pháp khác nhau nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
    1.2. Hệ thống tổ chức, nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nghề
    1.2.1. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về đào tạo nghề
    Đào tạo nghề là quá trình phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ
    xảo và thái độ nghề nghiệp; đào tạo nghề phải nhằm hướng vào hoạt động
    nghề nghiệp và hoạt động xã hội. Đào tạo nghề là một ngành học trong hệ
    thống giáo dục quốc dân.
    Năm 1998, để tạo sự gắn kết giữa dạy nghề và giải quyết việc làm nên
    Chính phủ đã có Nghị định số 33/1998/NĐ-CP ngày 23/05/1998 thành lập
    Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Bộ LĐ-TB&XH. Theo đó, chức năng quản lý
    nhà nước về đào tạo nghề được chuyển giao từ ngành GD&ĐT sang ngành
    LĐ-TB&XH quản lý (ở cấp TW là Bộ LĐ-TB&XH, ở cấp tỉnh/thành phố trực
    thuộc T.W là Sở LĐ-TB&XH).
    (Hình 2: Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam)

  25. 25
    Hiện nay, mạng

    lưới CSDN được phát triển rộng khắp ở 63 tỉnh, thành
    phố, trên 600 huyện, quận, thị xã, các KCN, KCX, làng nghề. Cả nước hiện
    có 140 trường cao đẳng nghề, 306 trường trung cấp nghề, 853 trung tâm dạy
    nghề và hàng ngàn CSDN khác tại các doanh nghiệp và cơ sở giáo dục đào
    tạo (theo số liệu của Tổng cục Dạy nghề – tháng 03/2012).
    Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về dạy nghề. Chính phủ trình
    Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng đến quyền
    và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương
    về cải cách nội dung, chương trình của bậc đào tạo, cấp đào tạo; hàng năm
    báo cáo với Quốc hội về hoạt động giáo dục – đào tạo trong đó có dạy nghề và
    về việc thực hiện ngân sách giáo dục.
    (Hình 3: Mô hình hóa tổ chức bộ máy dạy nghề)
    Cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở T.W chịu trách nhiệm trước
    Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về dạy nghề. Bộ LĐ-TB&XH chịu
    trách nhiệm trước chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về dạy nghề. Theo
    Quyết định số 43/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ v/v quy định chức
    năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Dạy nghề thuộc
    Chính phủ
    Bộ LĐ-TB&XH UBND tỉnh,
    thành phố
    Sở LĐ-TB&XH
    Cơ sở đào tạo
    thuộc Bộ
    UBND huyện,
    quận
    Phòng LĐ-
    TB&XHCác CSDN
    thuộc huyện,
    quận
    Các CSDN
    thuộc tỉnh, thành
    phố

  26. 26
    Bộ LĐ-TB&XH thì

    Tổng cục Dạy nghề là tổ chức thuộc Bộ LĐ-TB&XH,
    thực hiện chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH quản lý nhà
    nước về dạy nghề, bao gồm: Chương trình, giáo trình, nội dung, kế hoạch,
    chất lượng dạy nghề, khung trình độ nghề quốc gia, khung trình độ kỹ năng
    nghề quốc gia, tiêu chuẩn giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề, quy
    chế thi, tuyển sinh, hệ thống văn bằng, chứng chỉ, danh mục nghề đào tạo, cơ
    sở vật chất và thiết bị dạy nghề; tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
    về lĩnh vực dạy nghề theo quy định của pháp luật. Tổng cục Dạy nghề có tư
    cách pháp nhân, có con dấu hình Quốc huy, là đơn vị dự toán ngân sách cấp II
    thuộc Bộ LĐ-TB&XH, có tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước.
    Bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về dạy
    nghề ở T.W thực hiện quản lý nhà nước về dạy nghề theo thẩm quyền.
    Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về dạy nghề ở địa
    phương theo phân cấp của Chính phủ và có trách nhiệm đầu tư phát triển dạy
    nghề đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của địa phương.
    Cấp tỉnh, thành phố thuộc T.W có Sở LĐ-TB&XH; Giám đốc Sở LĐ-
    TB&XH chịu trách nhiệm trước ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện
    quản lý nhà nước về dạy nghề trong phạm vi tỉnh, thành phố. Đối với trường
    cao đẳng nghề, Sở LĐ-TB&XH được ủy nhiệm quản lý một vài mặt của quá
    trình đào tạo hoặc quản lý cả bốn mặt: Chuyên môn, nhân sự, tài chính, cơ sở
    vật chất.
    Cấp huyện, quận có Phòng LĐ-TB&XH huyện, quận; Trưởng Phòng
    LĐ-TB&XH chịu trách nhiệm trước ủy ban nhân dân huyện, quận thực hiện
    quản lý nhà nước về dạy nghề trong phạm vi huyện, quận theo phân cấp.
    Tổ chức bộ máy quản lý dạy nghề: Năm 1998, trước nhu cầu phát triển
    kinh tế xã hội và nhu cầu nhân lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
    hóa đất nước, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định chuyển giao nhiệm vụ quản
    lý nhà nước về đào tạo nghề từ Bộ GD&ĐT sang Bộ LĐ-TB&XH.
    Ở nước ta hiện nay, bộ máy quản lý nhà nước về dạy nghề được chia
    làm ba cấp tương ứng với các cấp hành chính.
    – Ở T.W là Bộ LĐ-TB&XH (Tổng cục Dạy nghề);

  27. 27
    – Ở địa

    phương:
    Cấp tỉnh/thành phố trực thuộc T.W: Là Sở LĐ-TB&XH (Phòng Dạy
    nghề) thuộc UBND tỉnh/thành phố trực thuộc T.W.
    Theo Nghị định 70/2009/NĐ-CP ngày 21/08/2009 của Chính phủ quy
    định Sở LĐ-TBXH tỉnh/thành phố trực thuộc T.W có nhiệm vụ quản lý Nhà
    nước về lĩnh vực dạy nghề như sau:
    (1). Xây dựng và trình UBND cấp tỉnh/thành phố chiến lược, quy
    hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm, hàng năm về dạy nghề; chương trình, dự
    án phát triển dạy nghề ở địa phương; tổ chức thực hiện sau khi được phê
    duyệt.
    (2). Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện về chuyên môn,
    nghiệp vụ đối với Phòng LĐ-TB&XH và các CSDN trên địa bàn.
    (3). Trình UBND cấp tỉnh ban hành những quy định cụ thể về quản lý
    dạy nghề, chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề,
    học sinh, sinh viên học nghề phù hợp với các quy định của pháp luật. Thực
    hiện đăng ký hoạt động dạy nghề trình độ trung cấp nghề, sơ cấp nghề theo
    quy định của Bộ LĐ-TB&XH.
    (4). Tổ chức hội giảng giáo viên dạy nghề, hội thi thiết bị tự làm, hội
    thi học sinh giỏi nghề cấp tỉnh.
    (5). Xây dựng, trình Hội đồng nhân dân, UBND cấp tỉnh các giải pháp
    thực hiện xã hội hóa dạy nghề; chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện.
    (6). Phối hợp với Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư trong quá trình
    lập dự toán thu, chi ngân sách; phân bổ dự toán, quản lý và quyết toán ngân
    sách dạy nghề hàng năm theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và phân
    cấp quản lý ngân sách của địa phương.
    (7). Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về dạy nghề; xử lý vi
    phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
    (8). Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về dạy nghề theo quy định.
    Cấp quận/huyện: Là Phòng LĐ-TB&XH thuộc UBND quận/huyện.

  28. 28
    Để thực hiện

    tốt, sâu sát và có hiệu quả sự quản lý của mình đối với các
    CSDN, Nhà nước phân cấp quản lý chúng cho các cơ quan quản lý nhà nước
    về dạy nghề từ T.W đến địa phương.
    Mỗi CSDN đều chịu sự tác động của hai luồng quản lý là quản lý nhà
    nước và quản lý sự nghiệp trong nội bộ cơ sở. Nhà nước thông qua các cơ
    quan quản lý của mình không can thiệp vào hoạt động quản lý sự nghiệp của
    các CSDN mà chỉ thực hiện các nội dung quản lý nhà nước như:
    Quản lý sự tồn tại và phát triển của các CSDN (lý do tồn tại, thu hẹp
    hay mở rộng quy mô…);
    Quản lý các điều kiện hoạt động của CSDN theo tiêu chuẩn của Nhà
    nước và yêu cầu chất lượng (cơ sở trường, lớp, điều kiện giảng dạy, học tập,
    đội ngũ giáo viên, hệ thống giáo trình…);
    Quản lý việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước
    của CSDN.
    1.2.2. Nội dung của quản lý nhà nước về đào tạo nghề
    Xuất phát từ vai trò của dạy nghề đối với sự nghiệp phát triển kinh tế –
    xã hội, từ quan điểm phát triển sự nghiệp dạy nghề, quản lý dạy nghề là một
    nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động điều hành của Nhà nước ta. Nghị quyết
    Đại hội XI chỉ rõ: “Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng
    nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các KCN, các
    vùng kinh tế động lực và cho việc xuất khẩu lao động. Mở rộng mạng lưới cơ
    sơ dạy nghề, phát triển trung tâm dạy nghề quận, huyện” và “Tạo chuyển
    biến căn bản về chất lượng dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu
    vực và thế giới. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích phát triển các hình thức
    dạy nghề đa dạng, linh hoạt: Dạy nghề ngoài công lập, tại doanh nghiệp, tại
    làng nghề”. Nội dung chủ yếu trong quản lý nhà nước về đào tạo nghề bao
    gồm:
    Một là, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch, quy
    hoạch phát triển dạy nghề.
    Hoạch định chiến lược phát triển dạy nghề là quá trình nghiên cứu một
    cách có hệ thống, đòi hỏi sự tham gia của mọi thành viên không chỉ trong

  29. 29
    ngành dạy nghề

    mà còn có sự tham gia của các chuyên gia ngành khác. Các
    chiến lược là những hoạt động cần phải thực hiện đảm bảo đạt được mục tiêu
    của chiến lược cũng như vượt qua thách thức, rào cản.
    Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ;
    được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào
    đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc tính chất
    của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,… Muốn định ra
    chính sách đúng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng
    giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác định trong
    đường lối, nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh và điều
    kiện cụ thể.
    Xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển dạy nghề là hướng vào mục
    tiêu, nhiệm vụ đặt ra cho sự nghiệp dạy nghề, đồng thời hoạch định các chính
    sách và cơ chế quản lý nhằm hướng vào các chương trình, kế hoạch đó.
    Kế hoạch thực hiện là những nhiệm vụ rất cụ thể đảm bảo các mục tiêu
    hoạt động được hoàn thành. Nó chỉ rõ phải làm gì? Ai làm? Khi nào? Chi phí
    bao nhiêu?
    Kế hoạch là dự án tổng thể các mục tiêu kinh tế – xã hội ở tầm kinh tế
    vĩ mô hay kinh tế vi mô được thể hiện thành các chỉ tiêu chung của nền kinh
    tế quốc dân hay của các ngành, các đơn vị lãnh thổ, hay đơn vị cơ sở, cùng
    các chính sách, các biện pháp chủ yếu tương ứng bảo đảm việc thực hiện kế
    hoạch là việc cần làm trong tất cả các việc bởi nó quyết định hiệu quả các
    việc còn lại.
    Quy hoạch là sự phân bố và sắp xếp các hoạt động và các yếu tố sản
    xuất, dịch vụ và đời sống trên một địa bàn lãnh thổ (quốc gia, vùng, tỉnh,
    huyện…) cho một thời kì trung hạn, dài hạn (có chia các giai đoạn) để cụ thể
    hoá chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trên lãnh thổ, theo thời gian và là cơ
    sở để lập các kế hoạch phát triển.
    Hai là, xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
    đào tạo nghề.

  30. 30
    Để quản lý

    và điều tiết thống nhất toàn bộ hoạt động đào tạo nghề trên
    phạm vi cả nước, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động dạy nghề của các
    CSDN, những nội dung quan trọng mà pháp luật Nhà nước điều chỉnh trong
    hoạt động dạy nghề là:
    Xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về dạy nghề đã
    ban hành tập trung hướng dẫn cụ thể ở một số nội dung sau: Mạng lưới các cơ
    sở đào tạo nghề và danh mục ngành nghề đào tạo, mục tiêu, chương trình
    khung, nội dung, phương pháp dạy nghề; vấn đề tuyển sinh, chiêu sinh, quản
    lý học sinh, học viên học trong nước và được cử đi đào tạo ở nước ngoài; tiêu
    chuẩn chức danh của đội ngũ làm công tác giảng dạy trong hệ thống đào tạo
    nghề; thời gian, khung chương trình của các cấp trình độ đào tạo nghề và quy
    chế thi, kiểm tra, công nhận tốt nghiệp, cấp phát văn bằng – chứng chỉ nghề;
    tiêu chuẩn, định mức trang thiết bị, cơ sở vật chất của các CSDN; quy định
    trách nhiệm quản lý nhà nước về dạy nghề; về xử phạt vi phạm hành chính
    trong lĩnh vực dạy nghề; ban hành quy định về quy trình kiểm định chất
    lượng, hướng dẫn xếp hạng CSDN công lập; xét duyệt và cho phép phát hành
    các loại sách giáo khoa, ấn phẩm phục vụ cho dạy nghề.
    Ba là, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dạy nghề.
    Nhận thức đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động thực tiễn của
    con người. Thực tế chứng minh rằng, một trong những nguyên nhân thành
    công hay thất bại trong việc tổ chức hoạt động dạy nghề chính là vấn đề nhận
    thức. Vì vậy, phải tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, cung cấp
    thông tin một cách đầy đủ về đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước,
    những thuận lợi, khó khăn, nhằm làm chuyển biến nhận thức của các ngành,
    các cấp, các tổ chức xã hội, quần chúng nhân dân theo hướng tích cực về vị trí
    của đào tạo nghề trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
    Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về vai trò và vị trí của đội ngũ CNKT
    trong sự phát triển kinh tế xã hội trên các phương tiện thông tuyên truyền đại
    chúng. Giới thiệu những CSDN có chất lượng cao, những cá nhân điển hình
    về lập thân, lập nghiệp và thành đạt từ việc tạo nghiệp đến rèn luyện kỹ năng
    nghề nghiệp và sáng tạo trong nghề của mình. Qua đó tác động và làm chuyển

  31. 31
    biến mạnh mẽ

    nhận thức về nghề nghiệp trong từng cá nhân, gia đình và toàn
    xã hội.
    Các cán bộ quản lý và giáo viên các trường dạy nghề đóng vai trò nòng
    cốt trong việc tổ chức thực hiện tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mọi
    người về công tác đào tạo nghề.
    Đối tượng tiếp theo cần tác động là các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
    phương. Cần có sự chuyển biến nhận thức của cấp ủy Đảng và chính quyền
    địa phương về công tác dạy nghề, để từ đó có sự quan tâm đầy đủ cho công
    tác này.
    Đối với các lực lượng xã hội và nhân dân, cần phải làm cho họ hiểu
    rằng, chỉ có thể làm tốt công tác dạy nghề mới tạo điều kiện phát triển kinh tế
    – xã hội, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
    Bốn là, thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
    phạm trong lĩnh vực dạy nghề.
    Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn quan trọng trong chu trình quản lý
    nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường kỷ
    luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Thanh tra trách nhiệm
    giải quyết khiếu nại, tố cáo là một mắt xích, có ý nghĩa quan trọng trong quá
    trình quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo. Thanh tra, kiểm tra sẽ nắm bắt
    được tình hình khiếu nại, tố cáo và kết quả giải quyết ở các cơ quan, đơn vị
    thuộc thẩm quyền, qua đó thấy được những thiếu sót cũng như những vướng
    mắc trong việc thực hiện các chính sách pháp luật để kịp thời chỉ đạo, hướng
    dẫn hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật. Thực hiện
    theo Luật Khiếu nại, tố cáo.
    Trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm được giao cho
    người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Trường hợp cần thiết thì người đứng đầu cơ
    quan, tổ chức này có thể giao cho cơ quan thanh tra hoặc cơ quan khác có
    thẩm quyền tiến hành thẩm tra, xác minh, kết luận và kiến nghị các biện pháp
    xử lý.
    Năm là, huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực nhằm phát triển
    hoạt động dạy nghề (cả về số lượng và cả chất lượng).

  32. 32
    Chăm lo, phát

    triển sự nghiệp đào tạo nghề là trách nhiệm của toàn xã
    hội. Từng địa phương, từng doanh nghiệp có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp
    đào tạo nghề đảm bảo nguồn nhân lực cho địa phương mình, cho doanh
    nghiệp mình.
    Nhân lực là nguồn lực quý giá nhất vì con người vừa là động lực, vừa
    là mục tiêu của sự phát triển. Nhân lực trong việc thực hiện phát triển dạy
    nghề là bộ máy quản lý nhà nước về dạy nghề, cán bộ quản lý tại các CSDN
    và các giảng viên, giáo viên dạy nghề.
    Nguồn lực thứ hai cần huy động là vật lực. Đó là cơ sở vật chất (đất
    đai, phòng học lý thuyết, nhà xưởng thực hành, máy móc thiết bị dạy nghề,
    mô hình – dụng cụ trực quan, nguyên vật liệu, …). Đào tạo nghề sẽ khó khăn
    nếu không có các phương tiện và những điều kiện vật chất nhất định. Nếu chỉ
    trông chờ vào Nhà nước thì không thể đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự
    nghiệp đào tạo nghề. Song tiềm lực đáng kể đó trong nhân dân rất lớn.
    Tài lực là nguồn lực quan trọng và cần thiết. Thiếu nguồn tài lực là
    thiếu tiền đề vật chất cho sự phát triển đào tạo nghề. Nhưng chúng ta đang
    đứng trước một mâu thuẫn lớn giữa phát triển quy mô và chất lượng đào tạo
    với khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước.
    Trên quan điểm đầu tư cho sự nghiệp dạy nghề là một loại đầu tư phát
    triển, Nhà nước ta ngày càng tăng cường đầu tư, tăng tỷ trọng chi trong ngân
    sách cho dạy nghề, đồng thời ban hành các chính sách thích hợp nhằm huy
    động các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả
    vay vốn nước ngoài để phát triển dạy nghề.
    *
    * *
    Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về đào tạo
    nghề, luận văn đã khái quát và luận giải những khái niệm liên quan đến quản
    lý nhà nước về đào tạo nghề. Thông qua những vấn đề trên cho thấy hệ thống

  33. 33
    đào tạo nghề

    ở nước ta còn bất cập là đang tồn tại song song hai hệ thống
    quản lý nhà nước về đào tạo nghề:
    Một là, Bộ GD&ĐT đang quản lý hệ thống trường ĐH, Cao đẳng,
    TCCN và các cơ sở giáo dục thường xuyên.
    Hai là, Bộ LĐ-TB&XH đang quản lý hệ thống trường Cao đẳng nghề,
    Trung cấp nghề, Trung tâm Dạy nghề, các CSDN dưới 10 học viên và các
    doanh nghiệp có đăng ký dạy nghề.
    Vì vậy chủ thể quản lý trực tiếp đào tạo nghề chưa thống nhất, mà bị
    chia cắt dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy tự quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo
    của mình và ra văn bản quản lý, cấp giấy phép theo quy định riêng. Vừa thiếu
    sự thống nhất, vừa chồng chéo trong quản lý. Nhiều cơ sở đào tạo công lập
    chịu sự quản lý hành chính của rất nhiều cơ quan quản lý như: Bộ chủ quản
    chuyên ngành (quản lý về tài chính, con người), Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ-
    TB&XH (quản lý về chuyên môn).
    Hệ thống quản lý nhà nước về đào tạo nghề đã trở nên quá tải, bất cập.
    Để đạt được mục tiêu Nghị quyết Hội nghị BCH T.W khóa XI và Nghị quyết
    Hội nghị BCH Đảng bộ TP.HCM lần IX đã đề ra đến năm 2015 và đến năm
    2020, ngay từ bây giờ phải đổi mới hệ thống quản lý nhà nước về đào tạo
    nghề từ T.W đến địa phương, nhất là với các thành phố lớn như TP.HCM, Hà
    Nội, Đà Nẵng,…

  34. 34
    Chương 2
    CƠ SỞ

    THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
    TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
    2.1. Thực trạng hoạt động đào tạo nghề tại thành phố Hồ Chí Minh
    2.1.1. Thực trạng mạng lưới cơ sở dạy nghề trên địa bàn Thành phố
    Theo số liệu báo cáo của Sở LĐ-TB&XH, TP.HCM là địa bàn có số
    lượng CSDN phát triển mạnh và đông nhất nước so với các tỉnh thành khác,
    đó là chưa kể những trường ĐH, Cao đẳng thuộc Bộ GD&ĐT cũng có tham
    gia đào tạo ở các trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề.
    Số lượng CSDN tăng nhanh qua các năm, từ khoảng dưới 200 CSDN
    vào năm 2001 thì đến năm 2005, TP.HCM có 271 CSDN và tính đến tháng
    12/2012 là 422 cơ sở phân bổ khắp 24 quận-huyện, trong đó các CSDN ngoài
    công lập chiếm tỷ lệ nhiều hơn và tăng nhanh hơn các CSDN công lập, cho
    thấy đào tạo nghề đang được xã hội hóa cao và đang là một bộ phận quan
    trọng trong hệ thống đào tạo của TP.HCM và cả nước (xem phụ lục 2).
    Tổng số cơ sở dạy nghề trên địa bàn
    thành phố Hồ Chí Minh
    Đơn
    vị tính
    2011 2012
    Dự kiến
    2013
    Tổng số: Cơ sở 410 422 442
    1
    Trường Cao đẳng nghề “ 11 12 14
    Trong đó trường ngoài công lập “ 5 5 6
    2
    Trường Trung cấp nghề “ 29 28 29
    Trong đó trường ngoài công lập “ 10 10 11
    3
    Trung tâm dạy nghề “ 67 82 84
    Trong đó TTDN ngoài công lập “ 55 70 73
    4
    Các CSDN thuộc các tổ chức chính
    trị xã hội, các công ty xí nghiệp có
    tham gia dạy sơ cấp nghề
    “ 303 300 315
    (Bảng 1: Số liệu về hệ thống các CSDN tại TP.HCM năm 2011, 2012
    – Nguồn: Báo cáo của Phòng Dạy nghề – Sở LĐ-TBXH, tính đến 12/2012)
    Theo số liệu báo cáo của Sở GD&ĐT TP.HCM, năm học 2012- 2013,
    có 66 cơ sở đào tạo thuộc ngành GD&ĐT Thành phố quản lý, gồm có:
    + 15 trường ĐH (3 trường công lập, 12 trường ngoài công lập);

  35. 35
    + 15 trường

    cao đẳng (7 trường công lập, 8 trường ngoài công lập);
    + 36 trường TCCN (28 trường ngoài công lập).
    Bên cạnh hệ thống các CSDN và các cơ sở đào tạo do Thành phố quản
    lý, trên địa bàn TP.HCM còn có các trường ĐH, cao đẳng, TCCN, các CSDN
    thuộc các Bộ, ngành T.W quản lý, gồm có: 40 trường ĐH, 28 trường cao
    đẳng, 8 trường TCCN.
    Dạy nghề ở TP.HCM có thể nói đa dạng, phong phú bởi không chỉ có
    hệ thống CSDN chính quy tăng nhanh mà các CSDN không chính quy cũng
    tăng lên với các hình thức đào tạo truyền nghề tại nhà, tại các cơ sở kinh
    doanh nhỏ như: Nghề sửa chữa xe gắn máy, sửa chữa điện tử, chế tác nữ
    trang, cắt-uốn tóc, may,…
    Những cơ sở này số người học nghề không nhiều thường từ khoảng 1-3
    người, vừa học vừa thực hành cho tới khi thạo việc. Hình thức này tuy không
    quy mô nhưng lại thực tế và hiệu quả nên đang được nhiều người lựa chọn.
    Chính những cơ sở này góp phần giải quyết lao động tự do làm giảm tỷ lệ
    người thất nghiệp, đặc biệt là số lao động nông thôn do bị thu hồi đất nông
    nghiệp ở các huyện ngoại thành.
    TP.HCM là một trung tâm lớn nhất nước về kinh tế, văn hóa, khoa học
    kỹ thuật và công nghệ; là cửa ngõ quan trọng trong việc đón nhận những
    luồng đầu tư mới từ các nước phát triển. Do đó, các CSDN trên địa bàn
    TP.HCM có ưu thế là luôn được tiếp cận nhanh với những tiến bộ về khoa
    học – công nghệ trên thế giới và những máy móc thiết bị hiện đại nên rất nhạy
    bén với những nhu cầu luôn biến động của thị trường lao động.
    2.1.2. Quy mô dạy nghề trên địa bàn Thành phố
    Song song với sự phát triển của hệ thống các CSDN, lượng tuyển sinh
    cũng tăng nhanh qua từng năm. Năm 2006, tổng số học sinh – sinh viên của
    các CSDN đạt 316.605 học sinh. Đến năm 2010, số học sinh – sinh viên đã
    tăng lên 380.345 người. Trong giai đoạn 2007-2011, Thành phố đã tuyển sinh
    hơn 1.500.000 sinh viên, học sinh, học viên các trình độ đào tạo nghề. Đối

  36. 36
    với 4 nhóm

    ngành công nghiệp thuộc lĩnh vực ưu tiên của Thành phố riêng
    trong năm 2011 đã tuyển sinh được 51.662 sinh viên, học sinh (bao gồm
    4.446 sinh viên cao đẳng nghề, 3.756 học sinh trung cấp nghề, 43.460 học
    sinh sơ cấp nghề); Ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ đã tuyển sinh được 21.729
    sinh viên, học sinh (bao gồm 4.767 sinh viên cao đẳng nghề, 1.962 học sinh
    trung cấp nghề, 15.000 học sinh sơ cấp nghề).
    Quy mô đào tạo của hệ thống các cơ sở đào tạo thuộc Thành phố quản
    lý là rất lớn. Trong năm 2012, các cơ sở đào tạo thuộc Sở GD&ĐT quản lý có
    168.991 học sinh, sinh viên đang theo học (trong đó: Cao đẳng: 47.803,
    TCCN: 72.224); các CSDN thuộc Sở LĐ-TB&XH quản lý có 320.882 học
    viên, học sinh sinh viên đang theo học (cao đẳng nghề:14.985, trung cấp
    nghề: 6.451, sơ cấp nghề: 299.446).
    Số tuyển sinh đào tạo nghề tăng bình quân năm 2001-2010: 9,1 %,
    trong đó tuyển sinh đào tạo nghề hệ dài hạn tăng nhanh hơn hệ ngắn hạn. Đây
    là một xu thế phát triển tốt, đó là công tác dạy nghề đã tăng năng lực đào tạo
    và đào tạo trình độ cao hơn nhưng hiện nay, xu thế học nghề của người dân
    vẫn chuộng học ngắn hạn.
    – Dài hạn là học sinh, sinh viên đào tạo trình độ trung cấp nghề và cao
    đẳng nghề tăng bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt 11,25%.
    – Ngắn hạn là học viên đào tạo trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3
    tháng (còn gọi là dạy nghề thường xuyên) tăng bình quân giai đoạn 2006-010
    đạt 8,81%.
    Số lượng tuyển sinh và tốt nghiệp hàng năm tuy có tăng nhưng còn
    chậm; hiệu suất đào tạo chưa cao (trung bình 55- 60 % đối với hệ dài hạn, gần
    90% đối với hệ ngắn hạn).
    Trên 70% học sinh, sinh viên tìm được việc làm hoặc tự tạo được việc
    làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số trường nghề tỷ lệ này
    đạt trên 90%. Riêng các sinh viên tốt nghiệp các khóa cao đẳng nghề năm
    2010, 2011 và 2012 được doanh nghiệp tuyển dụng trên 80% ngay tại lễ trao

  37. 37
    bằng tốt nghiệp

    với mức lương khởi điểm bình quân là 3,3 triệu đồng/tháng.
    Nhiều trường có uy tín và các nghề có nhu cầu lao động lớn, tỉ lệ này lên đến
    100%, thậm chí học sinh còn được các doanh nghiệp nhận trước khi tốt
    nghiệp như các nghề: Cơ khí chính xác, tiện-phay-bào, mộc mỹ nghệ, …
    Đối tượng đào tạo nghề được mở rộng, nhiều mô hình dạy nghề mới
    được áp dụng có hiệu quả như dạy nghề cho nông dân, cho lao động ở những
    vùng bị thu hồi đất do chuyển đổi mục đích sử dụng đất; dạy nghề cho người
    tàn tật, cho bộ đội xuất ngũ; dạy nghề cho lao động các KCN, KCX; dạy nghề
    cho phục vụ xuất khẩu lao động,… Tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp
    năm 2012: Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề, TCCN, Sơ cấp nghề đạt 64%.
    2.1.3. Chất lượng đào tạo nghề tại Thành phố Hồ Chí Minh
    Về giáo viên dạy nghề
    Đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy nghề (sau đây gọi là giáo viên dạy
    nghề) có vai trò quyết định đến chất lượng dạy nghề. Vì vậy, đây là một trong
    những vấn đề được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm ban hành
    nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, ví dụ như: Nghị định 43/2008/NĐ-CP
    ngày 08/04/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều
    62 và Điều 72 Luật Dạy nghề về chính sách cho giáo viên dạy nghề; Bộ LĐ-
    TB&XH đã ban hành nhiều văn bản như: Thông tư số 09/2008/TT-
    BLĐTBXH ngày 27/06/2008 hướng dẫn chế độ làm việc của giáo viên dạy
    nghề; Quyết định 57/2008/QĐ-LĐTBXH ngày 26/05/2008 về sử dụng, đào
    tạo bồi dưỡng giáo viên dạy nghề, Thông tư số 30/2010/TT-BLĐTBXH ngày
    29/09/2010 quy định chuẩn giáo viên, giảng viên dạy nghề .v.v….
    Ngoài ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề được quan
    tâm nhiều trong thời gian gần đây, nhất là nhằm mục tiêu đổi mới và phát
    triển dạy nghề, thực hiện đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề đáp ứng được
    các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế theo Quyết định số 826/QĐ-
    LĐTBXH ngày 07/07/2011 của Bộ LĐ-TB&XH.

  38. 38
    Trong thời gian

    qua, Bộ đã xây dựng 138 chương trình, tài liệu bồi
    dưỡng kỹ năng giảng dạy theo chương trình khung cho giáo viên dạy trình độ
    cao đẳng nghề, trung cấp nghề; 51 chương trình, tài liệu bồi dưỡng công nghệ
    mới; 28 chương trình, tài liệu bồi dưỡng kỹ năng nghề cho giáo viên dạy trình
    độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề; 06 chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp
    vụ sư phạm tiếp cận trình độ quốc tế của City&Guilds .v.v…
    Thực hiện các chương trình trên, Bộ đã tổ chức hàng trăm lớp bồi
    dưỡng ở các cấp độ cho giáo viên dạy nghề về kỹ năng giảng dạy theo
    chương trình khung; kỹ năng giảng dạy theo năng lực thực hiện (chương trình
    hợp tác với ILO); công nghệ mới cho giáo viên dạy trình độ cao đẳng nghề,
    trung cấp nghề và giáo viên các trung tâm dạy nghề; nâng cao kỹ năng nghề
    cho giáo viên dạy nghề; đánh giá dựa trên năng lực thực hiện cho giáo viên
    dạy nghề (chương trình hợp tác với Singapore); nghiệp vụ sư phạm tiếp cận
    trình độ quốc tế của City&Guilds; công nghệ CNC cho giáo viên dạy nghề
    (chương trình hợp tác với EBG – Cộng hòa liên bang Đức) .v.v… và 04 khóa
    đào tạo nâng cao kỹ năng nghề tại Malaysia cho giáo viên dạy 04 nghề trọng
    điểm khu vực; 02 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nghề quốc tế theo chuẩn
    của Malaysia tại Việt Nam cho giáo viên dạy các nghề trọng điểm khu vực.
    Hiện nay, Bộ đang thực hiện việc chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy các
    nghề trọng điểm cấp độ quốc gia về trình độ đào tạo, kỹ năng và sư phạm
    nghề; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ khu vực
    và quốc tế về kỹ năng nghề và năng lực sư phạm của các nước tiên tiến trong
    khu vực ASEAN và các nước phát triển trên thế giới, phấn đấu 100% số giáo
    viên này phải đạt chuẩn của các nước tương ứng vào năm 2014.
    Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Dạy nghề, tính đến thời điểm cuối
    năm 2011, hiện nay cả nước có 33.270 giáo viên, giảng viên dạy nghề tại các
    trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề, (trong đó có:
    12.444 giảng viên tại các trường cao đẳng nghề, 11.514 giáo viên tại các
    trường trung cấp nghề và 9.312 giáo viên tại các trung tâm dạy nghề) và có

  39. 39
    gần 16.000 giáo

    viên thuộc các cơ sở khác có tham gia dạy nghề, tăng 1,6 lần
    so với năm 2006.
    Không chỉ có đội ngũ giáo viên dạy nghề trong các CSDN, cơ sở giáo
    dục và cơ sở khác có dạy nghề còn hàng ngàn người dạy nghề ở các lớp dạy
    nghề thuộc doanh nghiệp, làng nghề, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh,
    dịch vụ trong các chương trình, đề án về dạy nghề như Đề án Đào tạo nghề
    cho lao động nông thôn đến năm 2020 v.v….
    Riêng tại TP.HCM, theo báo cáo của Phòng Dạy nghề – Sở LĐ-
    TB&XH, tổng số giáo viên tham gia dạy nghề tính đến cuối năm 2011 là
    9.337 người (trong đó có 4.211 giáo viên dạy trình độ cao đẳng nghề, 1.171
    giáo viên dạy trình độ trung cấp nghề, 5.125 giáo viên dạy sơ cấp nghề và
    dạy nghề thường xuyên chương trình không chính quy); phân theo trình độ
    chuyên môn có 260 tiến sỹ, 1.839 thạc sỹ, 4.255 ĐH, 471 cao đẳng, 868 trung
    cấp; có 8.217 giáo viên có nghiệp vụ sư phạm theo quy định.
    Về trình độ đào tạo: Giáo viên cơ hữu, chính quy đảm bảo trình độ,
    kiến thức khoa học, đảm nhận tốt phần dạy lý thuyết. Nhưng tay nghề hướng
    dẫn thực hành chưa đồng đều; một số do chưa rèn luyện nhiều nên chưa thật
    thuần thục trong thao tác mẫu, trong tổ chức hướng dẫn thực hành cho học
    sinh. Đối với một số nghề trong trường sư phạm kỹ thuật chưa đào tạo giáo
    viên, các CSDN phải mời những chuyên gia kỹ thuật, người có tay nghề cao
    đến hướng dẫn, giảng dạy; tuy có kỹ năng thực hành nhưng lại thiếu nghiệp
    vụ sư phạm nên gặp khó khăn trong giảng dạy.
    Về phương pháp giảng dạy: Thông qua hướng dẫn, chỉ đạo của các cấp
    quản lý cùng với nỗ lực của các trường và mối liên kết với các dự án, nhiều
    phương pháp giảng dạy mới được áp dụng trong các CSDN, phát huy được
    tính tích cực của người học. Song việc cải tiến phương pháp giảng dạy nhất là
    giảng dạy gắn với thực tế kỹ thuật – công nghệ đang phát triển không ngừng
    còn phải được kiên trì chỉ đạo, vận động, hướng dẫn.
    Thực hiện chiến lược phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề, đổi mới
    phương pháp giảng dạy, trong 5 năm qua Thành phố đã chỉ đạo Sở LĐ-

  40. 40
    TB&XH phối hợp

    với các đơn vị có chức năng tổ chức các lớp bồi dưỡng về
    chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng tin học, các lớp chuyên đề về kỹ
    thuật mới; hợp tác với Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP HCM để chuẩn hóa
    nghiệp vụ sư phạm cho 864 giáo viên. Đến cuối năm 2011, tỷ lệ giáo viên đạt
    chuẩn chiếm tỷ lệ 88%.
    Về chương trình đào tạo nghề
    Để triển khai thực hiện Luật Dạy nghề, cùng với việc xây dựng quy
    hoạch mạng lưới CSDN làm căn cứ cho việc thành lập các trung tâm dạy
    nghề, trường trung cấp nghề và trường cao đẳng nghề thì việc phát triển các
    chương trình dạy nghề cũng là nhiệm vụ then chốt cho việc vận hành hệ thống
    dạy nghề 3 cấp trình độ đào tạo.
    Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển chương trình dạy
    nghề, nên trong 5 năm qua Bộ LĐ-TB&XH đã ban hành 03 văn bản quy
    phạm pháp luật về danh mục nghề đào tạo (Quyết định 37/2008/QĐ-
    BLĐTBXH ngày 16/04/2008, Thông tư số 17/2010/TT-BLĐTBXH ngày
    04/06/2010 thay thế Quyết định 37/2008/QĐ-BLĐTBXH, Thông tư số
    11/2012/TT-BLĐTBXH ngày 15/05/2012) và 01 văn bản quy định chương
    trình khung trình độ trung cấp nghề, chương trình khung trình độ cao đẳng
    nghề (Quyết định số 58/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 26/05/2008) làm cơ sở để
    các CSDN phát triển các chương trình dạy nghề.
    Từ khi Luật Dạy nghề có hiệu lực (tháng 6/2007) đến tháng 12/2012,
    Bộ LĐ-TB&XH đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tổ chức biên
    soạn, phê duyệt, ban hành được 205 dựa vào tiêu chuẩn kỹ năng nghề với sự
    tham gia của các doanh nghiệp. Kết cấu chương trình được chuyển từ chương
    trình theo môn học (tách rời giữa lý thuyết và thực hành) sang chương trình
    theo mô đun (tích hợp giữa lý thuyết và thực hành).
    Ngoài ra, theo Quyết định số 826/QĐ-LĐTBXH ngày 07/07/2011, Bộ
    LĐ-TB&XH đã tiến hành thí điểm xây dựng, ban hành 14 chương trình, giáo
    trình cho các nghề trọng điểm quốc gia; thực hiện chuyển giao, sử dụng 8
    chương trình, giáo trình ở cấp độ khu vực và quốc tế. Bộ cũng đã tiến hành

  41. 41
    xây dựng chương

    trình tiếng Anh theo chuẩn TOEIC và tổ chức đào tạo, bồi
    dưỡng cho giáo viên các trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề tổ chức
    triển khai giảng dạy tiếng Anh theo chuẩn TOEIC từ năm 2009; xây dựng
    được 96 chương trình sơ cấp nghề để dạy nghề cho lao động nông thôn.
    Dựa trên nguyên tắc xây dựng chương trình dạy nghề, các CSDN tại
    TP.HCM đã tự xây dựng và biên soạn trên 300 chương trình và giáo trình dạy
    nghề ở các trình độ và yêu cầu đào tạo (trong đó đa số là ngắn hạn; nhiều
    chương trình mang tính chuyên nghiệp cao).
    Quá trình biên soạn chương trình và giáo trình dạy nghề vừa kế thừa
    các chương trình và giáo trình đã có, vừa gắn với thực tế yêu cầu sản xuất
    kinh doanh, yêu cầu xã hội. Đặc biệt trong 3 – 5 năm năm gần đây, các cơ sở
    đã tham khảo và đưa nhiều nội dung chương trình nước ngoài vào giảng dạy,
    giúp người học tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.
    Các CSDN đã chú trọng hơn đến tính thích ứng thực tế của chương
    trình đào tạo, bám sát yêu cầu thực tế sản xuất kinh doanh để đào tạo: Từ việc
    khảo sát, nghiên cứu các dây chuyền sản xuất kinh doanh, nghiên cứu các
    công nghệ mới của các doanh nghiệp, nhiều trường đã điều chỉnh, bổ sung
    chương trình đào tạo; tổ chức cho học viên thực tập tại các cơ sở sản xuất
    kinh doanh; sau một thời gian giảng dạy, giáo viên, nhà trường đều cùng lắng
    nghe ý kiến của học viên, nhận xét của người sử dụng lao động cũng như đối
    chiếu với tình hình sản xuất thực tế của doanh nghiệp, để điều chỉnh, sửa đổi,
    bổ sung hoặc cập nhật nội dung mới.
    Bước đầu nghiên cứu xây dựng chương trình liên thông trong nội bộ
    chương trình dạy nghề để tạo cơ hội hoàn thiện và cập nhật kết quả, hiệu quả
    đào tạo. Tổng cục Dạy nghề cũng chấp thuận cho TP.HCM đào tạo bổ sung
    kỹ năng thực hành cho học sinh có trình độ trung cấp để hoàn thiện tay nghề
    và cấp Bằng nghề. Bên cạnh đó, Dự án “Tăng cường các Trung tâm dạy
    nghề” (viết tắt là Dự án SVTC) đã cấp 14 bộ chương trình nghề theo môđun
    để các CSDN tham khảo, ứng dụng. Hiện nay chương trình dạy nghề ngắn
    hạn đang được một số trung tâm từng bước xây dựng theo phương pháp học

  42. 42
    phần (môđun). Học

    viên có thể chọn bất cứ học phần nào để có thể đáp ứng
    được nội dung tuyển dụng lao động của các công ty, xí nghiệp đang cần hoặc
    tự bản thân người lao động có thể hoạt động kinh tế gia đình.
    Để đáp ứng yêu cầu chất lượng cao trong đào tạo, ngoài việc cập nhật
    những nội dung chuyên môn mới, kỹ năng thực hành của học viên cũng được
    chú trọng bằng cách tăng cường thiết bị phục vụ cho việc huấn luyện những
    công nghệ mới, nâng cao trình độ tay nghề cho học viên khi ra trường.
    Tuy nhiên, việc biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo dạy nghề mặc
    dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu. Vẫn
    còn một số nghề hiện đang đào tạo trong các CSDN nhưng không có giáo
    trình giảng dạy.
    Về cơ sở vật chất – thiết bị và huy động nguồn lực cho dạy nghề
    Từ năm 2007 đến nay, sau khi Luật Dạy nghề có hiệu lực thi hành, các
    CSDN ngày càng được quan tâm đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất thiết bị dạy
    nghề từ nhiều nguồn: Nguồn ngân sách nhà nước, Chương trình mục tiêu, vốn
    ODA, đầu tư của doanh nghiệp và các nguồn khác.
    Các CSDN thường xuyên rà soát, bổ sung điều kiện về cơ sở vật chất,
    thiết bị, đảm bảo được diện tích tối thiểu cho hoạt động dạy nghề bao gồm
    khu dạy học lý thuyết, khu nhà xưởng dạy thực hành, khu ký túc xá cho sinh
    viên, học sinh.
    Một số trường, trung tâm đã được trang bị đồng bộ, hiện đại ở một số
    nghề, nhất là những trường, trung tâm dạy nghề được thụ hưởng các dự án
    ODA và chương trình mục tiêu quốc gia. Ngoài việc đầu tư, mua sắm, phong
    trào tự làm thiết bị dạy nghề của các CSDN đã bổ sung nhiều thiết bị cho
    giảng dạy và thực hành.
    Công tác chuẩn hóa, hiện đại hóa trang thiết bị dạy nghề đã được Bộ
    LĐ-TB&XH quan tâm bằng việc ban hành các quy định về danh mục thiết bị
    tối thiểu cho các nghề đào tạo. Từ 2010 đến nay, đã ban hành được 41 bộ
    danh mục thiết bị dạy nghề tối thiểu cho 41 nghề, bước đầu đã được các
    CSDN tiếp nhận và áp dụng vào xây dựng dự án cũng như xây dựng kế hoạch
    mua sắm thiết bị, nhìn chung được đánh giá đạt hiệu quả.

  43. 43
    Các nguồn đầu

    tư tài chính cho dạy nghề bao gồm: Ngân sách nhà nước
    (không bao gồm vốn ODA), người học nghề, các CSDN, doanh nghiệp và đầu
    tư nước ngoài. Nguồn lực đầu tư cho dạy nghề được đa dạng hóa, trong đó
    ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ đạo chiếm khoảng 63% (xem phụ lục 3).
    Ngân sách nhà nước chi cho dạy nghề trong tổng chi ngân sách cho
    GD&ĐT những năm qua được tăng dần: Từ 4,3% năm 1998 lên 6,7% năm
    2006 và 9% năm 2010. Ngân sách nhà nước chi cho dạy nghề giai đoạn 2006-
    2010 trong tổng chi ngân sách cho giáo dục- đào tạo bình quân 7,56% (xem
    phụ lục 4).
    Đối với TP.HCM: Nét nổi bật trong phát triển dạy nghề Thành phố là
    xã hội hóa đầu tư phát triển dạy nghề. Tổng nguồn lực tài chính cho dạy nghề
    năm 2011 là 1.481,70 tỉ đồng, trong đó ngoài ngân sách nhà nước khoảng
    1.238 tỉ đồng, chiếm khoảng 83% (xem phụ lục 5).
    Ngoài ra, UBND TP.HCM đã ban hành Quyết định số 156/2006/QĐ-
    UBND ngày 27/10/2006 về việc thành lập Quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết
    việc làm cho người có đất bị thu hồi để thực hiện các dự án đầu tư trên địa
    bàn Thành phố với nguồn quỹ ban đầu là 50 tỉ đồng.
    Trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách đã ban hành, vấn
    đề đất đai được Thành phố quan tâm đúng mức. Tuy quỹ đất có hạn, nhưng
    Thành phố đã chấp thuận giao đất cho nhiều dự án mở rộng và xây dựng mới
    CSDN. Với tính nhạy bén và năng động của Thành phố, hệ thống chủ trương,
    chính sách của Nhà nước đã thúc đẩy mạnh mẽ các lực lượng xã hội tham gia
    hoạt động dạy nghề
    Trước yêu cầu phát triển của xã hội, các cấp, các ngành đã dần chuyển
    biến về nhận thức đối với sự cần thiết phát triển dạy nghề. Thể hiện qua sự
    đầu tư của ngân sách thành phố để phát triển CSDN dạy nghề trong 6 năm
    qua khoảng hơn 150 tỷ đồng (Không kể phần đầu tư cho các cơ sở giáo dục
    nghề nghiệp khác không do Sở LĐ-TB&XH quản lý).
    Ngày càng có nhiều tổ chức xã hội, đoàn thể tham gia vào lĩnh vực dạy
    nghề (Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, .v.v…). Về mặt xã

  44. 44
    hội, cá nhân,

    doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (trong và ngoài
    nước), các hội nghề nghiệp cũng tham gia phát triển CSDN.
    Tuy nhiên, sự chuyển biến nói trên, chưa theo kịp yêu cầu phát triển,
    chưa thực sự thường xuyên, sâu sắc. Công tác đầu tư (tài chính và nhân lực)
    chưa ngang tầm với nhiệm vụ dạy nghề, nhất là quy mô đầu tư; ngân sách bảo
    đảm chi thường xuyên còn tuỳ thuộc vào khả năng kinh phí và nhận thức của
    cơ quan cấp phát.
    Cơ sở vật chất cho công tác quản lý nhà nước về dạy nghề chỉ mới đáp
    ứng được một phần nào đó, chưa có đầu tư về chiều sâu, phục vụ công tác
    quản lý lâu dài. Dữ liệu về dạy nghề còn lưu giữ theo kiểu thủ công nên chưa
    kịp thời, đầy đủ và chính xác để khi cần có ngay số liệu để xử lý phục vụ cho
    công tác chỉ đạo, điều hành, lập kế hoạch thực hiện.
    Các phương tiện kỹ thuật, trang thiết bị công nghệ thông tin và các
    công trình khoa học nhà nước để áp dụng cho công tác quản lý nhà nước về
    dạy nghề chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.
    Nguồn lực đầu tư từ ngân sách cho dạy nghề mặc dù có tăng nhưng
    còn thấp, chưa tương xứng với tốc độ tăng chỉ tiêu đào tạo, gây ảnh hưởng
    không tốt đến chất lượng đào tạo, định mức 4,5 triệu đồng/học sinh nhưng
    thực tế chỉ được cấp phát khoảng 60% so định mức chi phí đào tạo.
    Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính phủ quy định
    quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên
    chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập và Thông tư 71/2006/TT-BTC
    ngày 09/08/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày
    25/04/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
    hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
    công lập là cơ sở pháp lý để thực thi nội dung quản lý này.
    Ngành nghề và phương thức đào tạo
    Nhiều ngành nghề và hình thức đào tạo được bổ sung, đáp ứng nhu cầu
    đa dạng phong phú của người lao động cũng như thực tế sản xuất kinh doanh.
    Ngoài hình thức đào tạo tập trung, đào tạo tại trường theo chương trình chính