Lãi suất là gì? Quy định pháp luật về lãi suất
Lãi suất là tỉ lệ phần trăm (%) tính trên vốn đầu tư để xác định lãi của người đầu tư. Về bản chất, lãi suất là giá cả của vốn đầu tư. Lãi suất là cơ sở để tính mức lãi trên vốn đầu tư của nhà đầu tư, vì lợi nhuận thu được của nhà đầu tư tỈ lệ thuận với lãi suất.
Mục Lục
1. Khái niệm về lãi
Lãi suất là tỉ lệ phần trăm (%) tính trên vốn đầu tư để xác định lãi của người đầu tư. Về bản chất, lãi suất là giá cả của vốn đầu tư. Lãi suất là cơ sở để tính mức lãi trên vốn đầu tư của nhà đầu tư, vì lợi nhuận thu được của nhà đầu tư tỈ lệ thuận với lãi suất. Lãi suất được hình thành phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cung, cầu vốn đầu tư trong nền kinh tế, yêu cầu điều tiết nền kinh tế của nhà nước…
2. Về mức lãi suất
Khoản 1 Điều 468 BLDS quy định: Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác…Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”. Như vậy, lãi suất tối đa trong các hợp đồng vay tài sản các bên được thỏa thuận theo BLDS mới không quá 20%/năm (tức 1,7%/tháng).
Tại khoản 1 Điều 476 BLDS năm 2005 quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Tại Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì mức lãi suất cơ bản là 9%/01 năm, tức là 0,75%/01 tháng. Lãi suất cao nhất các bên đương sự được thỏa thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 476 là 1,125%/01 tháng (tức 13,5%/01 năm).
So sánh quy định về lãi suất giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 thấy: BLDS năm 2015 quy định luôn mức lãi suất cao nhất được thỏa thuận trong các hợp đồng dân sự vay tài sản là 20%, không phụ thuộc vào mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định. Mức lãi suất theo BLDS năm 2015 cao hơn so với BLDS năm 2005 mục đích giảm thiểu sự chênh lệch về mức lãi suất trong các hợp đồng dân sự thông dụng với các hợp đồng tín dụng, bình đẳng hóa giữa các chủ thể khi tham gia vào các giao dịch vay tài sản.
Đối với các hợp đồng tín dụng, lãi suất được quy định tại Luật chuyên ngành. Tại Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng quy định: ” Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn….Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyển thỏa thuận về lãi suất…theo quy định của pháp luật”. Quy định này xuất phát từ đặc điểm kinh doanh thu lợi nhuận từ việc cho vay của các tổ chức tín dụng. Thực tế giải quyết các tranh chấp hợp đồng tín dụng, đã có nhiều vụ án Tòa án chấp nhận mức lãi suất 15%/năm …
3. Về trường hợp không rõ về lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất
Theo quy định mới tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 thì trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất theo quy định tại khoản 1 Điều 468. Theo quy định này mức lãi suất trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp sẽ là 10%/01 năm (tức 0,83%/tháng).
So với quy định cũ tại khoản 2 Điều 476 BLDS năm 2005 thì trường hợp không rõ về lãi suất hoặc các bên đương sự có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Theo quy định này thì mức lãi suất có tranh chấp là 0,75%/01 tháng. Như vậy, mức lãi suất trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất theo quy định của BLDS năm 2015 không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước và mức lãi lớn hơn so với quy định của BLDS năm 2005.
4. Về thực hiện nghĩa vụ trả nợ quá hạn
* Trường hợp vay không có lãi quá hạn
– Theo quy định tại khoản 4 Điều 475 BLDS năm 2005 thì trường hợp vay không có lãi: Nếu khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ. Theo quy định trên trường hợp vay không có lãi, nếu quá hạn bên vay sẽ phải chịu lãi mức là 0,75%/tháng.
– Theo quy định tại khoản 4 Điều 466 BLDS năm 2015 quy định: Trường hợp vay không lãi. Nếu quá hạn vay, người vay phải chịu mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này (tức là bằng 50% mức lãi suất so với lãi suất vay tối đa do các bên thỏa thuận). Trường hợp này mức lãi suất được áp dụng giống như trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất.
* Trường hợp vay có lãi quá hạn
– Theo quy định cũ, tại khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005 quy định: Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Như vậy, lãi suất quá hạn theo quy định cũ thấp hơn lãi suất tối đa mà các bên được thỏa thuận (Bên vay chỉ phải chịu lãi suất 0,75%). Điều này mâu thuẫn với lãi suất trong hạn tối đa mà các bên được thỏa thuận, không bảo vệ quyền lợi cho bên cho vay; tạo điều kiện cho bên đi vay chây ỳ trách nhiệm trả nợ.
– Theo quy định mới: Tại điểm b khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc tả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a. Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tịa khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b. Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Như vậy, Bộ luật mới quy định rõ 2 trường hợp vay có lãi khi đến hạn mà không trả. Trường hợp thứ nhất, đối với tiền lãi phát sinh trong hạn chưa trả thì phải chịu lãi suất như trong trường hợp không rõ hoặc có tranh chấp về lãi suất (10%/năm). Đối với trường hợp lãi quá hạn chưa trả thì bên vay phải chịu mức lãi suất bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng (ví dụ: Mức lãi trong hợp đồng là 1%, quá hạn sẽ là 1,5%). Như vậy, theo quy định mới thì bên vay phải trả lãi suất quá hạn trong trường hợp vay có lãi là 150%, so với lãi suất theo hợp đồng các bên đã thỏa thuận (ví dụ: Lãi suất trong hạn các bên thỏa thuận với nhau là 20%, nếu đến hạn bên vay không trả được sẽ phải chịu lãi suất 20% x 150% = 30%,năm). Với quy định này sẽ thúc đẩy được trách nhiệm trả nợ của bên vay, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người cho vay, phù hợp với xu thế của thực tiễn trong các giao dịch tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Lưu ý, trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát đối với các tranh chấp hợp đồng vay tài sản, cần xem xét bên cho vay thường lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người đi vay để buộc họ phải chịu lãi suất cao. Nếu có dấu hiệu tội phạm hình sự, cần kiến nghị Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015 về tội “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”
Trên đây là giới thiệu 01 số quy định về lãi suất theo BLDS năm 2015. Cần phải hiểu đúng để vận dụng trong công tác kiểm sát và thực hiện các quyền kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật khi kiểm sát việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
5. Quyết định về lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của tòa án
Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, tại điểm b khoản 1 Điều 13 hướng dẫn việc quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của tòa án như sau: Đối với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi; hoặc khoản tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; hoặc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ví dụ: A cho B vay 01 tỉ đồng, thời hạn vay 01 tháng, không thỏa thuận lãi (bao gồm cả lãi vay trong hạn và lãi chậm trả). Hết thời hạn trả nợ B không trả tiền, A khởi kiện đến tòa án yêu cầu giải quyết buộc B trả số tiền gốc và lãi suất chậm trả cho đến khi trả xong số tiền gốc. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của A buộc B phải trả 01 tỉ tiền gốc và 50 triệu tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm). Đồng thời tuyên bên có nghĩa vụ (bên B) phải chịu lãi theo điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP (kể từ ngày A có đơn yêu cầu thi hành án). Sau khi xét xử sơ thẩm B kháng cáo, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án tạm đình chỉ giải quyết (02 năm). Cấp phúc thẩm giữ nguyên án sơ thẩm hoặc sửa một phần (nhưng vẫn giữ cách tuyên về lãi theo điểm b khoản 1 Điều 13 nêu trên).
Vấn đề đặt ra: Nếu tuyên như hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019NQ-HĐTP và áp dụng vào ví dụ cụ thể nêu trên thì trong khoảng thời gian chờ kết quả xét xử phúc thẩm, lãi chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền sẽ không được tính cho người có quyền khi họ có yêu cầu. Trên thực tế hiện nay rất nhiều tòa án áp dụng cách tuyên như vậy.
Nhiều ý kiến cho rằng cách xác định lãi chậm thực hiện nghĩa vụ như vậy chưa thật sự hợp lý, bởi tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả” và khoản 4 Điều 466 quy định: “Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
Như vậy, theo các quy định trên thì đối với trường hợp vay không thỏa thuận lãi, khi đến thời hạn trả nợ mà bên có nghĩa vụ chậm trả tiền và bên cho vay có yêu cầu thì bên có nghĩa vụ phải trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp A đứng ra vay ngân hàng giúp B một khoản tiền trong một thời gian nhất định (giữa A và B có giấy vay tiền, hợp đồng vay… không lãi suất). Đến hạn B không thực hiện nghĩa vụ trả nợ và phát sinh tranh chấp. Trong quá trình giải quyết tại tòa án, khoản tiền A đứng ra vay cho B, A vẫn phải trả lãi hàng tháng cho ngân hàng. Trường hợp vụ việc giữa A và B nêu tại ví dụ trên, nếu A không được xem xét về khoản tiền lãi chậm trả trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm sẽ gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của A.
Hiện nay cũng có quan điểm cho rằng, trong trường hợp vay không thỏa thuận lãi, khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trả tiền và bên có quyền có yêu cầu tính lãi chậm thực hiện nghĩa vụ thì sẽ quyết định về lãi theo điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP (tính từ ngày tuyên án sơ thẩm). Quan điểm này về nội dung là phù hợp, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền và cho thấy việc áp dụng pháp luật linh hoạt. Tuy nhiên, nếu quyết định như vậy lại không đúng với tinh thần của điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP, bởi điểm a khoản 1 Điều 13 được áp dụng cho trường hợp “các bên có thỏa thuận về việc trả lãi”.
Theo quan điểm của tác giả, việc quyết định lãi chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng không có thỏa thuận lãi nên quy định tách biệt, rõ ràng như sau:
– Đối với trường hợp bên có quyền không yêu cầu trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án thì bên có nghĩa vụ phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong (như điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP).
– Đối với trường hợp bên có quyền có yêu cầu trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ phải chịu khoản tiền lãi của số tiền gốc chưa thanh toán kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong.