Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2023): ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM | TT Y tế Quận Gò Vấp
1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc
tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên
trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm
lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế
quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn
giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm
1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác -Lênin từ lý
luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là
ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế
Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan
trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước
– Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược
Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia
phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày
xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã
làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp
thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của
chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế điển hình,
chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam,
mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba
kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị
riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực
hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ
vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số
cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai
thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân,
chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến
khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng,
duy trì các hủ tục lạc hậu.
– Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội
diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân
Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia
đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng
lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị
thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu
thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân
dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu
thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm
lược.
– Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống
thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam
rơi vào khủng hoảng về đường lối cách mạng
Trước sự xâm lược của thực dân
Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra
liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực
lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước
theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại
của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào
nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng
lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi
nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam
chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái
Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
–
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà
yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911
người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này)
ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng giành
độc lập tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm,
gian khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý:
Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công
nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
–
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 năm 1919, với
tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi đến
Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đòi Chính phủ Pháp
phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam.
– Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất
những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo
Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành
độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
– Từ ngày 25 đến
30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư
cách đại biểu Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán
thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt
Nam.
– Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng
Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu,
Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô)
và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi
của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm
1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam
đã chín muồi.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
– Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà
Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, những
đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã
họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một nước
có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ
chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải
thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào
Cộng sản ở Việt Nam.
– Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung
Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản.
Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo
luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến
xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội
nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời
kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản
Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả
đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn
tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản
có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.
– Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị
lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng
– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra
thời kì mới cho cách mạng Việt Nam – thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được
những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những
nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất
các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
– Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm
dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt
Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong
trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của
giai cấp, của dân tộc.
– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ
giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to
lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng
tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp
xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ
của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi
cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây
dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực
hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây
dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng.
Nguồn tin : Ban Tuyên giáo Quận Gò Vấp