Khái niệm bảo lãnh là gì? Chủ thể của bảo lãnh bao gồm?
Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Bảo lãnh lần đầu tiên được quy định từ năm 1959: “Các hợp tác xã, các tập đoàn tổ chức ra phải được cấp trên có thẩm quyền công nhận thì được vay vốn. Đối với các tập đoàn sản xuất của cán bộ, bộ đội, đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc phải có sự bảo lãnh của Phòng miền Nam”. Sau đó, biện pháp bảo lãnh đã được quy định trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991. Quy định về bảo lãnh trong ba Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 và 2015 gần như hoàn toàn khác nhau, ngoại trừ giống nhau ở điểm đều có sự xuất hiện của bên thứ ba.
Bảo lãnh theo Bộ luật Dân sự năm 1995 gồm hai loại giao dịch là bảo lãnh bằng việc cầm cố hoặc thế chấp tài sản và bảo lãnh không bằng tài sản. Tuy nhiên, điều quan trọng là khi đó, nếu cầm cố, thế chấp để bảo đảm cho người thứ ba thì được gọi là bảo lãnh và phải thông qua giao dịch bảo lãnh. Trong những năm đó, nếu bảo lãnh kèm theo cầm cố hoặc thế chấp tài sản thì các ngân hàng thường ghi hợp đồng là hợp đồng thế chấp – bảo lãnh, hợp đồng cầm cố – bảo lãnh hoặc hợp đồng bảo lãnh – thế chấp hay hợp đồng bảo lãnh – cầm cố.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự cũ, bảo lãnh chỉ còn lại một hình thức duy nhất là bảo đảm của người thứ ba nhưng không có tài sản cụ thể đưa vào cầm cố, thế chấp. Còn nếu người thứ ba đã có tài sản bảo đảm chuyển giao cho bên nhận bảo đảm thì được gọi là biện pháp cầm cố và có tài sản bảo đảm không chuyển giao cho bên nhận bảo đảm thì được gọi là biện pháp thế chấp.
Như vậy, trong giai đoạn này không còn hợp đồng bảo lãnh bằng hàng hoá, tài sản, nhà ỗ nói chung, bằng quyền sử dụng đất nói riêng. Điển hình là các loại bảo lãnh Chính phủ, bảo lãnh của ngân hàng không kèm theo tài sản bảo đảm, nhưng là loại bảo lãnh tin cậy và đương nhiên ngân hàng phải chịu trách nhiệm về tài sản.
Cũng tương tự như hai Bộ luật trước đây, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh), cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Thỏa thuận về bảo lãnh có thể được thể hiện bằng hợp đồng riêng về bảo lãnh, thư bảo lãnh hoặc hình thức cam kết bảo lãnh khác.
3. Bảo lãnh theo quy định pháp luật Việt Nam
Điều 335 Bộ luật dân sự 2015 quy định về bảo lãnh như sau:
– Bảo lãnh được hiểu cơ bản chính là việc người thứ ba ( bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền ( bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ ( bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
– Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh sẽ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Như vậy, từ điều luật cụ thể bên trên, ta có thể hiểu bảo lãnh là hành vi cam kết của người thứ ba thay cho bên thực hiện nghĩa vụ đối với một cá nhân hay tổ chức khác. Theo đó, nếu chủ thể là bên có nghĩa vụ đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà không tiến hành hoặc thực hiện không đúng thì chủ thể là bên bảo lãnh sẽ phải có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đó theo đúng với cam kết.
Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng cho phép đối với trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ. Trong trường hợp cụ thể này thì các cá nhân phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập.
Chủ thể là bên có quyền sẽ có thể yêu cầu bất kỳ ai trong số những chủ thể là những người bảo lãnh liên đới sẽ cần phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Khi một người trong số những chủ thể là người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì chủ thể đã thực hiện bảo lãnh sẽ có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với chính bản thân mình theo đúng quy định pháp luật hiện hành.
4. Chủ thể của bảo lãnh bao gồm các đối tượng sau đây
– Thứ nhất, bên bảo lãnh:
Bên bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Trong trường hợp nếu là cá nhân, bên bảo lãnh có thể bao gồm nhiều cá nhân. Khi nhiều người cùng thực hiện bảo lãnh một nghĩa vụ thì các chủ thể thực hiện bảo lãnh sẽ phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập. Bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên thỏa thuận mỗi người bảo lãnh chỉ phải thực hiện một phần nghĩa vụ.
Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho chủ thể là bên được bảo lãnh thì chủ thể đó sẽ có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình. Khi một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới lại được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác sẽ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ.
– Thứ hai, bên nhận bảo lãnh:
Bên nhận bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Trong trường hợp nếu là cá nhân, chủ thể là bên nhận bảo lãnh có thể bao gồm nhiều cá nhân. Chủ thể là bên nhận bảo lãnh chính là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ với chủ thể là bên được bão lãnh.
Đối với trường hợp nếu chủ thể là bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì chủ thể là bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với chủ thể là bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Khi một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới miễn cho chủ thể là bên bảo lãnh không phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì trong trường hợp đó chủ thể là bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những chủ thể là những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại.
– Thứ ba, bên được bảo lãnh:
Bên được bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Nếu là cá nhân, chủ thể là bên được bảo lãnh sẽ có thể bao gồm nhiều cá nhân. Chủ thể là bên được bảo lãnh là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ với chủ thể là bên được bão lãnh. Bên được bảo lãnh sẽ có nghĩa vụ hoàn trả đối với bên bảo lãnh.
Chúng ta cũng cần lưu ý rằng, bên được bảo lãnh luôn là đối tượng có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp bảo lãnh đó. Các chủ thể đó cũng có thể biết hoặc không biết về xác lập quan hệ bảo lãnh để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng đều phải hoàn trả cho chủ thể là bên bảo lãnh các lợi ích mà bên đó đã thay mình thực hiện với bên kia.
5. Vấn đề chung về bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp được hiểu cơ bản chính là hoạt động bảo lãnh mà trong đó, các chủ thể là người xin bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình (gọi là ngân hàng chỉ thị) đề nghị ngân hàng ở nước mà người thụ hưởng (gọi là ngân hàng bảo lãnh) phát hành như bảo lãnh (gọi là bảo lãnh chính hay bảo lãnh gốc) và chuyển cho các chủ thể là người thụ hưởng.
Để nhằm mục đích bảo lãnh gián tiếp có hiệu lực, thì ngân hàng chỉ thị sẽ cần phải phát hành một thư bảo lãnh cho ngân hàng bảo lãnh hưởng. Thư bảo lãnh giữa hai ngân hàng này được gọi là thư bảo lãnh đối ứng hay bảo lãnh giáp lưng (Counter Guarantee or Back – to – Back Guarantee).
Nội dung và các điều khoản của thư bảo lãnh đối ứng sẽ cần phải giống với nội dung và các điều khoản của thư bảo lãnh gốc.
Trong trường hợp khi mà xảy ra vi phạm hợp đồng, thứ tự bồi hoàn sẽ được thực hiện cụ thể như sau: Chủ thể là người thụ hưởng sẽ truy đòi ngân hàng bảo lãnh; sau đó ngân hàng bảo lãnh truy đòi ngân hàng chỉ thị; và cuối cùng, ngân hàng chỉ thị thực hiện truy đòi người yêu cầu bảo lãnh.
Như vậy, ta nhận thấy rằng, trong bảo lãnh gián tiếp có bốn bên tham gia cụ thể đó là:
– Thứ nhất: Người xin bảo lãnh (Principal).
– Thứ hai: Ngân hàng chỉ thị (Instructing Bank): Là ngân hàng ở nước người xin bảo lãnh.
– Thứ ba: Ngân hàng bảo lãnh (Issuing Bank): Là ngân hàng ở nước người thụ hưởng.
– Thứ tư: Người thụ hưởng (Beneficiary).
Chủ thể của bảo lãnh
Thứ nhất, bên bảo lãnh
Bên bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Nếu là cá nhân, bên bảo lãnh có thể bao gồm nhiều cá nhân. Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập. Bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên thỏa thuận mỗi người bảo lãnh chỉ phải thực hiện một phần nghĩa vụ. Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình. Khi một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ.
Thứ hai, bên nhận bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Nếu là cá nhân, bên nhận bảo lãnh có thể bao gồm nhiều cá nhân. Bên nhận bảo lãnh chính là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ với bên được bão lãnh. Nếu bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Khi một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới miễn cho bên bảo lãnh không phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại.
Thứ ba, bên được bảo lãnh
Bên được bảo lãnh có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Nếu là cá nhân, bên được bảo lãnh có thể bao gồm nhiều cá nhân. Bên được bảo lãnh là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ với bên được bão lãnh. Bên được bảo lãnh có nghĩa vụ hoàn trả đối với bên bảo lãnh.
Các bên sẽ phát sinh mối quan hệ như sau:
- Bên A và bên B phát sinh quan hệ nghĩa vụ với nhau bằng biện pháp bảo lãnh. Quan hệ giữa bên A và bên C phát sinh mối quan hệ bảo lãnh do thỏa thuận của hai bên. Bên C chỉ thực hiện nghĩa vụ phát sinh với bên B khi bên A không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết với bên B trong phạm vi bảo lãnh được quy định trong hợp đồng bảo lãnh.
- Đây được xem là hành vi liên đới chịu trách nhiệm giữa các bên. Tuy nhiên, việc phát sinh mối quan hệ bảo lãnh giữa hai bên khi các bên có thỏa thuận với nhau và bên bảo lãnh đồng ý bảo lãnh thì mới có hiệu lực. Các bên phải có thỏa thuận với nhau trong hợp đồng để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên nếu phát sinh tranh chấp. Đồng thời việc phát sinh quan hệ bảo lãnh chỉ xuất hiện khi bên nhận bảo lãnh đồng ý đảm bảo bằng hình thức bảo lãnh.