Hiep uoc masstrict – luat – Hiệp ước Maastricht Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bài này viết về Hiệp – Studocu

Hiệp ước Maastricht

Bách khoa toàn thư mở

W

ikipedia

Bài này viết về Hi

ệp ước Liên minh châu Âu 1992. Đối với Hiệp ước năm 1843 giữa

Bỉ và Hà Lan, xem

Hiệp ước Maastricht (1843)

.

Hiệp ước Maastricht

(tên chính thức:

Hiệp ước về Liên min

h châu Âu

,

tiếng

Anh

:

T

r

eaty on European Union

,

TEU

) là hiệp ước được ký kết ngày

7 tháng 2

năm

1992

Maastricht

,

Hà Lan

sau khi thương thuyết xong ng

ày 7 tháng 12 năm 1991 giữa

các nước thành viên của

Cộng đồng châu Âu

, và có hiệu lực từ ngày 1 tháng

1

1 năm

1993 dưới thời

Ủy ban Delors

.

Hiệp ước này thành lập

Liên minh châu Âu

và đưa tới việ

c thiết lập đồng

euro

. Hiệp

ước Maastricht đã đượ

c các hiệp ước sau đó sửa chữa bổ sung nhiều.

Đến năm 1993 đã có 12 quốc gi

a phê chuẩn Hiệp ước Maastricht về Liên minh ch

âu

Âu:

Anh, Pháp, Đức, Cộng hòa Ireland,

Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Hy

Lạp, Đan

Mạch, Luxembour

g, Bỉ, và Hà Lan. Áo, Phần L

an, và Thụy Điển trở thành thành

viên

của EU vào năm 1995.

[1]

Nội dung

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Các nước phê chuẩn Hiệp ước Maastricht

Hiệp ước Maastricht d

ẫn tới việc lập ra đồng

euro

, và lập ra cái thường gọi là

ba trụ

cột chính của Liên minh châu Âu

. Quan niệm về Liên minh

chia thành trụ cột

Cộng

đồng châu Âu

, trụ cột

Chính sách đối ngoại và an ninh c

hung

và trụ cột

Tư pháp và

Nội vụ

. Hai trụ cột sau là các lãnh

vực chính sách liên chính phủ, trong đó quyền của

các nước thành viên mở rộng l

ớn nhất. T

rong khi dưới trụ cột Cộng đồng châu Âu, các

cơ quan thể chế si

êu quốc gia của Liên minh – Ủy ban, Nghị viện và

Tòa án – có quyền

nhiều nhất. Cả ba trụ cột đều là

việc mở rộng các cơ cấu chính sách đã tồn tại

từ trước.

T

rụ cột Cộng đồng châu Âu l

à sự tiếp tục của

Cộng đồng Kinh tế châu Âu

và chữ

“Kinh tế” được bỏ khỏi tên, để tiêu

biểu cho nền tảng chính sách rộng lớn hơn do Hiệp

ước Maastricht mang l

ại. V

iệc phối hợp trong chính sách đối ngoại đã diễn ra đầu thập

niên 1970 dưới sự che chở của

V

iệc hợp tác Chính trị châu Âu

(

tiếng

Anh

, “European

Political Cooperation” hay “EPC”).

V

iệc hợp tác Chính trị châu Âu đã được ghi vào

các hiệp ước bởi

Đạo luật chung châu Âu

(

tiếng

Anh

, “Single European

Act”), nhưng

không là thành phần của

Cộng đồng Kinh tế châu Âu

.

T

rong khi đó trụ cột

Tư pháp và Nội vụ

đã đưa việc h

ợp tác vào các lãnh vực xét xử tội

phạm, nơi nương náu cho người tỵ

nạn, việc nhập cư và hợp tác tư pháp trong các v

ấn

đề dân sự, một số trong các lãnh vực

này vốn đã là chủ đề cho việc hợp tác liên chính

phủ trong việc thi hành

Hiệp ước Schengen

năm 1990.

V

iệc lập ra hệ thống 3 trụ cột là kết quả của mong muốn mở rộng Cộng đồng Kinh tế

tới các lãnh vực đối ngoại

, quân sự, xét xử tội phạm, hợp tác tư pháp của nhiều nư

ớc

thành viên, dù có mối nghi ngại củ

a vài nước thành viên khác, nhất là

Vương quốc

Anh

.

Thay vì đổi tên

Cộng đồng Kinh tế châu Âu

thành

Liên minh châu Âu

, thỏa thuận đạt

được trong hiệp ước này sẽ l

ập ra một Liên minh châu Âu riêng rẽ, hợp pháp, bao gồm

thay đổi tên gọi Cộng đồng Kinh tế ch

âu Âu và các lãnh vực chính sách liên chính phủ