GNP là gì? Ý nghĩa và cách tính tổng sản phẩm quốc gia
Phan Thị Linh Chi
0
Thị trường tài chính
Thuật ngữ GNP được sử dụng phổ biến khi nghiên cứu kinh tế vĩ mô. GNP chính là tổng sản phẩm quốc gia do công dân nước đó làm ra ở trong nước hay ở ngoài nước. Vậy cách tính GNP như thế nào? Chỉ số GNP có ý nghĩa gì?
Mục Lục
GNP là gì?
GNP là từ viết tắt của Gross National Product có nghĩa là tổng sản phẩm quốc dân hay tổng sản phẩm quốc gia, là một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra bằng yếu tố sản xuất của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
Hiểu một cách đơn giản, GNP chính tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian xác định (thường là 1 năm).
Ví dụ: Một nhà máy sản xuất ô tô chủ sở hữu là công dân Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam thì lợi nhuận sau thuế từ nhà máy sẽ được tính là một phần GNP của Nhật Bản vì vốn sử dụng trong sản xuất như nhà xưởng, máy móc… là thuộc sở hữu của công dân người Nhật Bản. Ngoài ra, lương của công nhân Nhật Bản làm việc tại nhà máy này cũng là một phần của GNP của Nhật Bản.
Điều này có nghĩa sản phẩm do công dân của quốc gia làm ra, bất kể là trong nước hay ở nước ngoài đều được tính vào GNP của quốc gia đó. Cho nên, GNP chính là tổng sản phẩm quốc dân do công dân quốc gia đó làm ra ở trong nước hay ở ngoài nước.
GNP là tổng sản phẩm quốc dân hay tổng sản phẩm quốc gia
Bản chất của GNP
Bản chất của GNP sẽ được thể hiện qua các yếu tố cụ thể như sau:
- GNP cộng rất nhiều loại sản phẩm thành một chỉ tiêu duy nhất về giá trị của hoạt động kinh tế. GNP sẽ sử dụng giá thị trường để thực hiện điều này, bởi giá thị trường phản ánh giá trị của các hàng hoá.
- GNP biểu thị đầy đủ tất cả các hàng hóa được sản xuất ra trong nền kinh tế và được bán hợp pháp trên các thị trường. Tuy nhiên thực tế vẫn có một số sản phẩm mà GNP không thể biểu thị được như các sản được sản xuất và bán trong nền kinh tế ngầm
- GNP gồm tất cả những hàng hoá hữu hình như thực phẩm, xe hơi, quần áo… và những dịch vụ vô hình như cắt tóc, khám bệnh…
- GNP chỉ bao gồm giá trị của những hàng hoá và dịch vụ cuối cùng, không tính giá trị của những hàng hóa trung gian. Nhưng nếu hàng hoá trung gian được đem vào quá trình sản xuất ra sản phẩm và sản phẩm này không được đưa ra sử dụng mà đưa vào hàng tồn kho để bán trong tương lai thì lúc này hàng hoá trung gian được coi là hàng hoá cuối cùng và vẫn được tính vào GNP.
- GNP gồm mọi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong thời kỳ hiện tại, không bao gồm những giao dịch liên quan đến hàng hóa được sản xuất ra trong quá khứ.
- Tất cả các yếu tố sản xuất của một quốc gia dù có tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất kì đâu trên thế giới thì kết quả tạo ra cũng được tính vào GNP của quốc gia đó.
- GNP phản ánh giá trị sản xuất thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể, thường là một năm hoặc một quý. GNP phản ánh lượng thu nhập hay chi tiêu trong thời kỳ đó.
Các loại GNP
GNP được phân thành 2 loại như sau:
GNP danh nghĩa (GNPn)
Là chỉ số để đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo giá cả hiện hành, tức là giá cả của cùng thời kỳ đó. Chỉ số GNP này thường được dùng khi muốn nghiên cứu mối quan hệ tài chính, ngân hàng
GNP thực tế (GNPr)
Là chỉ số đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất trong một thời kỳ, theo giá cố định ở một thời kỳ được lấy làm gốc. Chỉ số này được dùng khi cần phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Cầu nối giữa 2 loại GNPn và GNPr là chỉ số giá cả còn gọi là chỉ số lạm phát (D) tính theo GNP. Theo đó, D được tính theo công thức: D = GNPn / GNPr x 100 hay GNPr = GNPn/D
Cách tính GNP
GNP của một quốc gia sẽ được tính theo các công thức sau:
Công thức 1: Tính GNP theo tổng sản phẩm quốc nội – GDP. Cụ thể như sau:
GNP = GDP + thu nhập ròng từ nước ngoài
Trong đó:
Thu nhập ròng từ nước ngoài = Thu nhập từ các yếu tố xuất khẩu – Thu nhập từ các yếu tố nhập khẩu
Theo công thức này GNP được tính bằng cách dựa trên sự chênh lệch về các khoản thu nhập chuyển ra nước ngoài và chuyển vào trong nước.
Ví dụ: Một nền kinh tế đơn giản có GDP là 110 tỷ USD, thu nhập ròng từ nước ngoài là 50 tỷ USD. Lúc này GNP của nền kinh tế này sẽ được tính như sau: GNP = 110 + 50 = 160 tỷ USD
Công thức 2: Chỉ số tổng sản phẩm quốc gia GNP của một quốc gia trong 1 năm được tính như sau:
GNP = (X – M) + NR + C + I + G
Trong đó:
- X: Chỉ số về sản lượng kim ngạch xuất khẩu ròng dịch vụ và hàng hóa.
- M: Chỉ số sản lượng kim ngạch nhập khẩu ròng dịch vụ và hàng hóa.
- NR: Thu nhập ròng từ các tài sản ở nước ngoài (thu nhập ròng).
- C: Chỉ số chi phí tiêu dùng cá nhân.
- I: Tổng mức đầu tư cá nhân quốc nội.
- G: là chỉ số chi phí tiêu dùng của nhà nước.
Ví dụ: Một chiếc xe máy đem bán cho người tiêu dùng thì xe máy đó được xem là sản phẩm cuối cùng; còn những bộ phận trên xe máy như: yên xe, bánh xe, bình điện… mà nhà sản xuất bán cho nhà máy lắp ráp xe máy được xem là sản phẩm trung gian. Nếu bánh xe đó được bán trực tiếp cho người tiêu dùng thì bánh xe được xem là sản phẩm cuối cùng và được tính vào chỉ số GNP.
Ý nghĩa của GNP trong nền kinh tế vĩ mô
Trong nền kinh tế vĩ mô của một quốc gia, chỉ số GNP có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể:
- GNP cho biết quy mô thu nhập và mức sống của công dân một quốc gia. Theo đó, khi nghiên cứu tiến hành nghiên cứu GNP tính theo giá cố định, các nhà kinh tế sẽ biết được tình hình gia tăng thu nhập và cải thiện mức sống của người dân của một nước trong một khoảng thời gian xác định.
- GNP chính là thước đo đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước, chỉ số này được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian xác định. Hay nói cách khác GNP chính là chỉ số đo lường “sức khỏe kinh tế” của một quốc gia.
- Nếu tốc độ tăng GNP thực tế thấp hơn tốc độ tăng dân số, mức thu nhập bình quân đầu người sẽ giảm. Cho nên khi phân tích và so sánh về mức sống, người ta thường dùng chỉ tiêu thu nhập quốc dân đầu người. Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy GNP tính theo chi phí nhân tố trừ đi quỹ khấu hao (D), sau đó chia cho dân số.
Tuy nhiên tổng sản phẩm quốc gia GNP cũng có những hạn chế nhất định:
- Đối với những người khởi nghiệp, kết quả sản xuất của một người mang hai quốc tịch có thể vô tình được tính vào GNP bởi hai quốc gia khác nhau. Ví dụ một công dân Hoa Kỳ chuyển đến Canada và bắt đầu sản xuất các sản phẩm y tế, thì công việc sản xuất của công dân này sẽ được tính gấp đôi khi GNP toàn cầu được ước tính.
- Nếu chỉ sử dụng GNP sẽ khiến việc so sánh nền kinh tế của các quốc gia khác nhau trở nên khó khăn bởi hiện nay có nhiều doanh nghiệp hoạt động trên quy mô toàn cầu, mạng lưới thương mại quốc tế phức tạp hơn. Cho nên nhiều quốc gia tính toán giá trị kinh tế bằng cách sử dụng GDP – tổng sản phẩm quốc nội.
GNP vẫn bỏ sót một số sản phẩm như sản phẩm được sản xuất và bán trong nền kinh tế ngầm hay sản phẩm tự cung, tự cấp như rau, củ, quả trong vườn.
GNP cho biết quy mô thu nhập và mức sống của một quốc gia
Sự khác nhau giữa GNP và GDP
GNP và GDP là hai khái niệm được sử dụng phổ biến khi nghiên cứu nền kinh tế vĩ mô của một quốc gia. Hai chỉ số này có mối quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau khiến nhiều người có sự nhầm lẫn. Tuy nhiên, hai thuật ngữ này hoàn toàn khác nhau về bản chất, cách tính và mức độ phản ánh. Bảng sau sẽ đưa ra các yếu tố so sánh giúp bạn hiểu rõ về GNP và GDP:
Tiêu chí so sánh
GNP
GDP
Khái niệm
Là tổng sản phẩm quốc dân hay tổng sản phẩm quốc gia, một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra bằng yếu tố sản xuất của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
GDP (Gross Domestic Product) là tổng sản phẩm nội địa hay tổng sản phẩm quốc nội, chỉ tiêu dùng để đo lường tổng giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm hoặc 1 quý).
Bản chất
– GNP bao hàm tổng sản lượng quốc gia, tính cả nguồn thu từ ngoài đất nước, lãnh thổ của mình.
– GNP được tạo ra ở tất cả các quốc gia, lãnh thổ mà công dân, doanh nghiệp của quốc gia đó thu được.
Chỉ số GDP là toàn bộ giá trị được các thành phần kinh tế hoạt động trong lãnh thổ của quốc gia đó tạo ra.
Công thức
GNP = (X – M) + NR + C + I + G
GDP = C + I + G + NX
Mức độ phản ánh
Chỉ số bình quân đầu người GNP sẽ là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hóa và dịch vụ mà mỗi người dân của quốc gia đó có thể mua được bởi vì GNP bao gồm GDP và phần chênh lệch tài sản từ nước ngoài.
Chỉ số GDP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân của quốc gia đó.
Áp dụng
Được Ngân hàng Thế giới áp dụng để đưa ra các ước tính về chỉ số GNP của các quốc gia
Các quốc gia áp dụng để tính toán
Tình hình tổng sản phẩm quốc dân – GNP của Việt Nam và các nước trên thế giới
Hàng năm Ngân hàng Thế giới (WB) đều đưa ra các ước tính về chỉ số GNP của các nước. Trước đó vào năm 2018, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của Việt Nam là 231,48 tỷ USD theo số liệu từ Ngân hàng thế giới. Theo đánh giá, GNP của Việt Nam tăng 8,67% trong năm 2018, với mức thay đổi 18,47 tỷ USD so với con số 213,01 tỷ USD của năm 2017. Năm 2019, GNP của Việt Nam đạt 249,99 tỷ USD.
Biểu đồ GNP Việt Nam giai đoạn 1989 – 2018 (Nguồn: solieukinhte.com)
Trong khi đó các nước trên thế giới, tổng sản phẩm quốc gia GNP cũng có sự thay đổi, khác nhau giữa các nước. Dưới đây là bảng chi tiết GNP của Việt Nam và một số nước trên thế giới năm 2019 (số liệu do Ngân hàng Thế giới công bố):
Hiện ngân hàng Thế giới vẫn chưa có các công bố về GNP của các nước trong năm 2020. Tuy nhiên, năm 2020, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, tổng sản phẩm quốc dân của Việt Nam cũng như nhiều quốc gia theo đánh giá chung sẽ có nhiều thay đổi do nền kinh tế có sự thay đổi về tốc độ tăng trưởng.
Trong nghiên cứu và phân tích các yếu tố kinh tế vĩ mô, chỉ số GNP luôn được xem xét và đánh giá để có những góc nhìn về nền kinh tế, tốc độ phát triển của một quốc gia. Hy vọng qua bài viết trên bạn đã nắm rõ GNP – tổng sản phẩm quốc dân chính là sản phẩm do công dân quốc gia đó làm ra, bất kể ở trong hay ngoài nước cũng như mối quan hệ và sự khác biệt giữa tổng sản phẩm quốc gia và tổng sản phẩm nội địa (GDP).