GIẢI QUYẾT MỘT SỐ TÌNH HUỐNG SƯ PHẠM TRONG TRƯỜNG MẦM NON

 

GIẢI QUYẾT MỘT SỐ TÌNH HUỐNG
SƯ PHẠM TRONG TRƠNGF MẦM NON

M

C L

C

PHẦN MỞ ĐẦU

I.

                  

Lý do chọn đề tài

II.

               

Đối tượng nghiên cứu

III.

            

Nhiệm vụ nghiên cứu

IV.

           

Phương pháp nghiên cứu

NỘI DUNG

I. Những vấn đề lý luận chung

1.

    

Năng lực đối xử khéo léo sư phạm

2.

    

Một số đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5 tuổi

II. Vận dụng vào việc ứng xử các tình huống sư phạm thường

gặp ở lớp 5 tuổi A trường mầm non Đức Thịnh

A.

  

Vài nét sơ lược về Trường Mầm non Đức Thịnh

B.

  

Vận dụng lý luận vào việc giải quyết một số tình huống sư phạm

ở lớp 5D Trường Tiểu học Hiền An

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.

I.

                  

Kết luận.

II.

               

Đề xuất.

PHẦN MỞ DẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Hằng ngày tôi phải tiếp xúc với nhiều học sinh và trong quá trình giao tiếp đó sẽ không khỏi vấp phải một vài tình huống khó xử nào đó. Vì thế phải làm thế nào để ứng xử khéo léo các tình huống một cách hợp lý, hợp tình, có tính giáo dục là điều mà chúng tôi luôn quan tâm, trăn trở.

Ở lứa tuổi mầm non, tâm lý của các cháu đang phát triển một cách mạnh mẽ, các cháu đã nhận thức được sự việc xảy ra, đồng thời thường hay bắt chước, học theo cách nói năng hoặc những hành động của giáo viên (người lớn). Vì vậy, người giáo viên ngoài công tác giảng dạy ra thì công tác giáo dục nhân cách cho trẻ cũng là vấn đề quan trọng cần lưu ý đến.

Người giáo viên muốn xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa cô và trò thông qua mọi hoạt động thì trước hết giáo viên phải biết khéo léo trong lúc cư xử với trẻ. Giáo viên phải hiểu được tâm lý của trẻ để có những phương pháp, biện pháp hay những lời khen, chê đúng mức, đúng lúc , đúng nơi. Nếu giáo viên không ứng xử khéo léo thì sẽ gây ấn tượng không tốt đối với trẻ và sau đó thì liệu việc giáo dục của giáo viên có đạt hiệu quả tốt hay không? Việc vận dụng những lý luận tâm lý học, giáo dục học vào những tình huống thực tiễn là một điều hết sức cần thiết đối với chúng tôi. Chuẩn bị một vài tình huống và cách ứng xử các tình huống nhằm làm cho mối quan hệ giữa cô và trẻ ngày càng tốt đẹp và để khỏi phải bối rối khi có tình huống bất ngờ xảy ra với mình. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài “Giải quyết một số tình huống sư phạm ở lớp mẫu giáo 5 tuổi”

II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

Vận dụng lý luận vào việc ứng xử các tình huống sư phạm ở lớp 5 tuổi A trường Mầm non Đức Thịnh

III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:

1. Tìm hiểu thực trạng các loại tình huống thường gặp ở lớp 5 tuổi A, 5 tuổi B trường Mầm non Đức Thịnh và tìm giải pháp tốt nhất đối với các tình huống đó.

2. Một số đề xuất để giải quyết các tình huống sư phạm được tốt hơn.

* Thời gian nghiên cứu:

Năm học 2016 – 2017

IV.   PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

– Tham khảo các tài liệu, văn bản có liên quan hằm tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề cần nghiên cứu.

– Quan sát, trò chuyện nhằm thu thập các tình huống.

– Phân loại tình huống.

– Luyện tập kỹ năng, kỹ xảo ứng xử.

NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận

Giáo dục và dạy học là vấn đề luôn luôn được nâng cao và phát triển, ta có thể coi đó là một hiện tượng.

Hiện tượng giáo dục tức là thế hệ đi trước truyền lại những kinh nghiệm và tích luỹ được trong quá trình giáo dục và giảng dạy cho các thế hệ đi sau. Sự truyền đạt và lĩnh hội những tri thức, kinh nghiệm đã được tích luỹ là những vấn đề cơ bản của giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội.

Một xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải có giáo dục và đào tạo, đó là điều tất yếu, đó là quy luật của sự tiến bộ xã hội, trong đó thế hệ đi sau phải học hỏi, chiếm lĩnh được kinh nghiệm mà thế hệ đi trước đã tích luỹ và truyền lại, thế hệ đi sau phải tiếp tục bổ sung để làm phong phú và hoàn thiện kho tàng trí thức.

Là một giáo viên ai cũng muốn hoạt động giáo dục của mình có hiệu quả. Thế nhưng điều này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khách quan và chủ quan tham gia vào quá trình giáo dục. Học sinh là một trong những nhân tố quan trọng của quá trình giáo dục.

Trẻ mầm non vẫn chưa phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý cũng như nhân cách của mình. Vì vậy, trong quá trình giáo dục đòi hỏi người giáo viên phải nắm thật vững đặc điểm tâm lý của học sinh ở lứa tuổi này, phải hiểu được những điều đang diễn ra trong tâm hồn các em.

Vấn đề chủ yếu trong sự khéo léo đối xử sư phạm là kỹ năng tìm ra những phương thức tác động đến trẻ một cách hiệu quả nhất, là sự cân nhắc đúng đắn những nhiệm vụ sư phạm phù hợp với những đặc điểm và khả năng của tẻ trong từng tình huống cụ thể.

* Những năng lực đối xử khéo léo sư phạm mà người giáo viên cần lưu ý, đó

+ Sự thống nhất giữa tình thương yêu có lý của giáo viên đối với trẻ và những hình thức đối xử hoàn thiện về mặt sư phạm.

+ Sự thống nhất giữa việc tôn trọng nhân cách học sinh và tính yêu cầu cao có cơ sở về mặc sư phạm.

+ Sự thống nhất giữa niềm tin và sự kiểm tra sư phạm.

+ Sự cân bằng giữa ý chí khi giao tiếp kết hợp tính giản dị, tự nhiên,.. và có thiện chí của những hình thức đối xử.

Ngoài ra, trong thực tiễn hoạt động sư phạm, người giáo viên cần phải biểu hiện sự nhạy bén về mức độ sử dụng các động tác sư phạm (như khuyến khích, khen thưởng, trách phạt,..), những động tác này quá lời, quá mức thì có thể dẫn đến “Phản sư phạm”.

Giáo viên phải nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp để xử lý.

Phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ, không nóng vội và thô bạo.

Biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết tốt những vấn đề phức tạp đặt ra trong công tác dạy học và giáo dục. Người giáo viên phải biết quan tâm đến trẻ.

Tóm lại. muốn đạt hiệu quả khi giảng dạy, người giáo viên không những phải chuẩn bị tốt giáo án mà còn phải nắm vững những thủ thuật để sử dụng phương pháp dạy học một cách hợp lý và phải dự kiến trước thái độ ứng xử của trẻ.

* Một số đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non.

Ở mỗi giai đoạn phát triển của trẻ đều có những đặc điểm tâm lý giống nhau để giúp giáo viên và cha mẹ có thể giao tiếp tốt với trẻ. Khi hiểu rõ được những đặc điểm tâm lý trẻ mầm non, giáo viên sẽ dễ dàng trong việc lựa chọn phương pháp giảng dạy, định hướng và giúp trẻ phát triển đúng với từng giai đoạn.

Vậy đặc điểm tâm lý trẻ mầm non có những điều gì cần lưu ý?

+ Trẻ tò mò khám phá thế giới xung quanh

Nhận thức của trẻ được hình thành nên trẻ bắt đầu quan sát và khám phá các vật xung quanh mình. Trẻ thích các trò chơi như nghịch nước, ném bóng, đồ chơi, nếm thử mùi vị của đồ ăn…


+ Trẻ bắt đầu giao tiếp và học theo

Chính vì vậy ở giai đoạn này, các giáo viên nên chú ý việc để dụng cụ học tập, đồ dụng nguy hiểm xa tầm với của trẻ để tránh những hậu quả nghiêm trọng.

Giao tiếp là một trong những đặc điểm tâm lý trẻ mầm non. Ở độ tuổi này, trẻ bắt đầu hình thành khả năng giao tiếp và hào hứng với việc giao tiếp với mọi người. Trẻ sẽ quan sát những gì đang diễn ra xung quanh, cha mẹ, người thân và giáo viên để học theo. Là giáo viên mầm non, giáo viên nên chú ý trong ngôn từ giao tiếp trên lớp sao cho chuẩn mực sư phạm, tránh sử dụng tiếng địa phương tránh gây nhiễu loạn ngôn ngữ của trẻ.

+
Trẻ thích được yêu thương

Các em bắt đầu tiếp xúc với thế giới bên ngoài nên đặc điểm tâm lý trẻ mầm non trong giai đoạn này là sợ hãi và cần sự yêu thương của gia đình, giáo viên và mọi người xung quanh. Khi trẻ sợ hãi, giáo viên nên động viên, ai ủi trẻ, khi trẻ mắc sai lầm thì giáo viên cũng nên nhẹ nhàng phân tích để cho trẻ hiểu, tránh quát mắng làm các em hoảng sợ.

+
Trẻ bắt đầu hình thành ý thức cá nhân

Tuy còn nhỏ nhưng ở giai đoạn mầm non, trẻ đã bắt đầu hình thành ý thức cá nhân của mình. Trẻ có thể tự đưa ra nhận xét khi xem một bộ phim hay nghe một bản nhạc hay. Ngoài ra, trẻ cũng rất chú ý đến những lời nhận xét của người khác dành cho mình.

Với đặc điểm tâm lý trẻ mầm non như vậy, giáo viên và cha mẹ nên quan sát và hỗ trợ trẻ trong quá trình hình thành ý thức, tránh cổ xúy cho những hành động sai hoặc chưa đúng của trẻ, tránh khen, chê, trách phạt trẻ trước mặt người khác để tránh làm trẻ thấy tự ti hoặc tự mãn về bản thân.

+
Trẻ bắt đầu tự lập

Trẻ thích được thể hiện cái tôi cá nhân của mình, thích tự mình làm những việc như mặc quần áo, đánh răng, rửa tay, tự ăn, sắp xếp đồ chơi, đi vệ sinh… Chính vì vậy, các giáo viên nên để trẻ tự làm những việc trong khả năng của mình và khuyến khích các em giúp đỡ gia đình với những việc phù hợp với lứa tuổi và sức khỏe.

Cơ sở thực tiễn:

II. VẬN DỤNG VÀO VIỆC ỨNG XỬ CÁC TÌNH HUỐNG SƯ PHẠM THƯỜNG GẶP Ở LỚP MẪU GIÁO 5 TUỔI A TRƯỜNG MẦM NON ĐỨC THỊNH

A. Vài nét sơ lược về TrườngTiểu học Hiền An

Trường Mầm non Đức Thịnh thuộc xã Đức Thịnh-huyện Đức Thọ-tỉnh Hà Tĩnh

Trường có 8 phòng học với đầy đủ sách cho giáo viên, học sinh và các đồ dùng đồ chơi dạy học khác.

Trường xây dựng tốt kế hoạch năm học và đề ra phương hướng hoạt động chủ yếu trong năm học nhằm để công tác giáo dục và giảng dạy đạt hiệu quả cao. Trường hoạt động có nề nếp – quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được phân công cho từng tổ chuyên môn.

Đội ngũ cán bộ giáo viên thật sự yêu nghề mến
trẻ, nhiệt tình trong mọi lĩnh vực công tác, tinh thần đoàn kết cao, có ý thức
vươn lên, tỷ lệ cán bộ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn cao, trình độ chuyên
môn vững vàng góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ;

Lớp mẫu giáo 5 tuổi A có sĩ số 31 trẻ. Các em chủ yếu sống tập trung ở khu vực gần trường thuộc địa bàn của xã nhà.

B. Việc vận dụng lý luận vào giải quyết một số tình huống sư phạm ở Trường Tiểu học Hiền An.

Lý luận là những vấn đề chung, nhưng trong thực tế thì những tình huống xảy ra rất đa dạng, mỗi tình huống đều có cách ứng xử cụ thể khác nhau. Trong phạm vi đề tài này,bản thân tôi nghiên cứu, phân ra 06 loại tình huống thường gặp và cách giải quyết các loại tình huống sư phạm như sau:

1)

   

Loại 1:

Đang giảng dạy trên lớp có một nhóm học sinh mất trật tự.

* Cách giải quyết loại tình huống này:

– Trước hết tôi xem thử tại sao học sinh lại mất trật tự. Nếu chỉ là vô tình thì tôi có những biện pháp sau:

+ Đổi chỗ những học sinh mất trật tự đó, việc phân tán mỏng lực lượng sẽ làm các em giảm tối thiểu cơ hội nói chuyện và sẽ tập trung vào học.

+Nếu vì một câu chuyện nào đó của một bạn trong nhóm thì tôi sẽ nhắc nhở các em hãy chú ý đến bài học, tôi nghĩ rằng ngay sau đó các em sẽ chăm chú vào bài giảng của tôi.

– Nếu các em cố ý gây mất trật tự thì tôi phải tìm hiểu xem lý do tại sao và có từng cách giải quyết cụ thể khác nhau:

+Nếu cố ý vì không hiểu bài thì tôi sẽ xem lại phương pháp dạy, cách truyền thụ tri thức của mình để điều chỉnh kịp thời, vìcó thể các em không hiểu bài nên “bỏ qua”luôn.

+ Nếu lúc đó tôi thấy mình vẫn dạy tốt, một số học sinh khác (ngoài nhóm mất trật tự) vẫn trả lời tốt câu hỏi của tôi, thì như vậy có nghĩa là những học sinh đó chỉ thích nói chuyện (mất trật tự) mà không chịu học thì tôi sẽ gọi một em trong nhóm đó và nêu một vài câu hỏi có liên quan đến bài học tôi vừa giảng, chắc chắn em đó sẽ không trả lời được câu hỏi của tôi, còn nếu trả lời được thì tôi cũng sẽ nhắc nhở (chung cho cả nhóm): “Các em học tập như vậy sẽ không tiếp thu được bài mới và khó làm tốt bài tập,nếu các em cứ liên tục như vậy thì kết quả học tập của các em sẽ không tốt và cô nghĩ đó không phải là điều mà bố mẹ các em và cô mong đợi. Vì vậy các em hãy cố gắng lên, em nào không hiểu bài thì cứ theo dõi rồi cuối giờ cô sẽ giảng lại”.

* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống 1:

– Ở đây đối tượng dạy học của tôi là học sinh tiểu học, vì vậy nếu có gây mất trật tự thì đó cũng chỉ là vô tình chứ chưa phải là cố ý. Các em ở lứa tuổi này còn rất sợ giáo viên và sự mất trật tự đó chỉ là hiếu động nhất thời, vì vậy giáo viên “ chú ý” nhiều đến học sinh thì các em sẽ nghiêm túc ngay.


Học sinh tiểu học chú ý chưa bền vững, sức tập trung chú ý chưa cao.

Tính kiềm chế của các em còn kém. Vì vậy khi gặp tình huống này giáo viên trước hết phải thể hiện sự tôn trọng nhân cách học sinh, đồng thời phải có yêu cầu cao đối với các em.

Tôi nghĩ rằng với lứa tuổi này ( tiểu học), dù các em có vô tình hay cố ý thì tôi cũng sẽ dùng những lời lẽ nhẹ nhàng để nhắc nhở, động viên các em và tuyệt đối không dùng những cử chỉ, hành động hay những lời nói nặng nề đối với học sinh, bởi điều đó làm cho các em cảm thấy xúc phạm và sẽ có phản ứng không tốt.

2)

   

Loại 2:

Một số học sinh cố ý coi thường mình

* Cách giải quyết tình huống loại 2.

Học sinh đã ‘cố ý” coi thường mình, thì với tôi, trước tiên tôi sẽ đặt câu hỏi tại sao?

Phẩm chất là thành phần cơ bản của nhân cách người giáo viên, vì vậy tôi sẽ tìm hiểu nguyên nhân tại sao để có hướng giải quyết tốt.

– Nếu như sự coi thường đó xuất phát từ người giáo viên thì lúc đó tôi phải xem xét lại bản thân mình và tự hỏi: Tại sao học sinh lại coi thường mình? Có thể vì tôi làm một việc gì đó mà học sinh không thích, hay có thể tôi đã sai hứa với học sinh, từ đó làm cho học sinh có ấn tượng không tốt với mình,..Nếu vậy tôi sẽ xin lỗi và sẽ sữa chữa những sai sót của mình

– Nếu thấy mình không có gì để học sinh phải xem thường thì nhân dịp nào đó tôi sẽ trao đổi, tâm tình và tỏ ra thân thiện với học sinh và nó sẽ có những tác động tâm lý đến học sinh.

Học sinh ở lứa tuổi này rất bướng, vì vậy có thể khi hỏi chuyện em đó sẽ trả lời một cách miễn cưỡng hoặc không nói chuyện với tôi, bởi vậy những ngày tiếp theo tôi sẽ duy trì sự tiếp xúc đó, luôn gần gủi học sinh để các em hiểu mình hơn, đồng thời tôi cũng sẽ tìm ra lý do tại sao em đó lại có thái độ như vậy.

– Nếu mọi cố gắng của tôi đều không đạt kết quả thì còn một cách duy nhất là kiên trì theo dõi, gần gũi với học sinh. Thông thường tôi sẽ uốn nắn học sinh đó ngay lúc mà học sinh đó cố tình vi phạm.

* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống loại hai:

Ở bậc tiểu học, các em thường xem giáo viên như là linh hồn của mình, cho nên mọi cử chỉ, lời nói của giáo viên đều được các em quan tâm, trong quá trình đó dù giáo viên có mắc một lỗi gì dù nhỏ cũng đều có ấn tượng không tốt đối với các em.

Giáo viên khi gặp tình huống này trước hết phải biết đặt vị trí của mình vào vị trí học sinh xem thử học sinh đang nghĩ gì để có cách xử lý tốt nhất.

Vì là học sinh cấp I nên sự đồng cảm giữa giáo viên và học sinh là vô cùng quan trọng, giáo viên phải biết xác định vị trí của mình trong quá trình giao tiếp để hiểu rõ học sinh. Các em ở tuổi này thường rất bướng bỉnh, cho nên giáo viên phải thực sự hiểu rõ về tâm lý các em thì các em sẽ quên đi dấu ấn không tốt về người thầy của mình, vì các em khó kìm hãm và khó làm chủ tình cảm của mình nên có thể sự coi thường đó chỉ là bộc phát.

Đây là học sinh cấp I nên giáo viên phải xử lý thế nào để lần sau học sinh đó không còn coi thường mình nữa. Giáo viên có thể kết hợp với gia đình để có sự uốn nắn kịp thời.

Tất nhiên kết quả của sự tác động phụ thuộc vào thái độ tình cảm của người giáo viên, giáo viên không nên có những lời lẽ phê phán một cách nặng nề bởi điều đó sẽ mang lại kết quả không tốt và lâu dần sẽ tích luỹ trong học sinh sự phản kháng, điều đó sẽ bất lợi đối với giáo viên trong việc giáo dục và dạy học.

3)

   

Loại 3:

Hai học sinh trong lớp mình chủ nhiệm có bất đồng cần giải quyết.

* Cách giải quyết chung của loại tình huống này:

Việc tôi làm đầu tiên là gặp riêng hai em đó và hỏi nguyên nhân của sự bất đồng của hai em, sau đó tôi sẽ có cách xử lý tuỳ thuộc vào từng nguyên nhân. Ở lứa tuổi này thuờng hay có những bất đồng như:

– Trong lúc chơi ( nhảy dây, kéo co…) nhưng do sự bực tức vì hơn thua hay có một bạn không trung thực trong khi chơi. Nếu là như vậy thì tôi sẽ gọi riêng hai học sinh để trao đổi, phân tích cho các em thấy được cái đúng, cái sai của mình và sau đó tôi sẽ hoà giải cho hai em và khuyên hai em bỏ qua mọi chuyện và trở thành bạn tốt của nhau.

Ở đây tôi chỉ giải quyết riêng giữa hai em chứ không đưa ra trước lớp, vì đây là lớp tiểu học nên có thể các em sẽ bị bạn bè trêu chọc, điều đó không hay cho các em.

– Nếu bất đồng vì lý do như: Dành nhau quyển sách, truyện,.. rồi dẫn đến đánh nhau thì lúc này tôi sẽ đưa vào xử lý trước lớp để phân tích cho cả lớp nói chung và hai em học sinh đó nói riêng để các em nhìn nhận được cái sai, đúng và cho hai em đó tự hứa trước lớp.

Sau cùng tôi sẽ kể cho cả lớp nghe về những tấm gương tốt về tình bạn.

* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống loại 3:

Ở tuổi này ý thức tập thể của các em chưa cao. Các em thường hay kiện nhau dù là việc nhỏ nhất, thế nhưng các em cũng rất nhanh quên. Học sinh tiểu học là tuổi nhiều cảm xúc, trong mỗi em đều đang hình thành những tình cảm mới, vì vậy tình bạn chưa bền vững, các em thường hay thay đổi tâm trạng một cách nhanh chóng.

Ở đây tôi chỉ giải quyết cá nhân giữa hai em hay có thể đưa ra trước lớp, bởi vì ở lứa tuổi này các em sẽ nhanh quên nên tôi chỉ xử sự như vậy để các em hiểu được sự việc và thoả mãn được bất đồng của mình, đồng thời để các em hiểu được bạn mình hơn và có mối quan hệ bạn bè tốt đẹp. Vì vậy mà tôi chỉ dùng uy tín để giáo dục học sinh.

4) Loại 4:

Bạn không tìm được câu trả lời chính xác đối với câu hỏi của học sinh ( Trong khi giảng dạy trên lớp).

* Cách giải quyết chung
của loại tình huống này

Ở lứa tuổi tiểu học, các em thường hay có những thắc mắc và nảy sinh ra những câu hỏi nhiều khi không nằm trong dự kiến bài học:

Có thể tôi sẽ gọi vài em học sinh giỏi trong lớp trả lời câu hỏi và nếu thấy đã tìm ra câu trả lời chính xác thì tôi sẽ bổ sung ý của tôi vào để có câu trả lời hoàn chỉnh, chính xác và logic, có sức thuyết phục.

Còn nếu không có học sinh nào trả lời được và bản thân tôi cũng cảm thấy chưa trả lời được chính xác thì tôi sẽ nói:

“ Câu hỏi này thật hay, cô chưa muốn giải đáp ngay bây giờ, mà các em hãy coi như đây là một bài tập về nhà và hãy tìm hiểu để tìm ra câu trả lời. Em nào có câu trả lời đúng và hay nhất cô sẽ ghi điểm tốt”.

Cơ sở lý luận khi giải quyết tình
huống  loại 4:

Ở lứa tuổi này rất hồn nhiên, ham tìm tòi, muốn khám phá cái mới vì lúc này trí tuệ các em đang phát triển, đang mong muốn nhận thức được nhiều vấn đề, vì vậy có thể đưa ra những câu hỏi “ hóc búa” mà nhiều giáo viên cũng phải lúng túng. Mặc dù không trả lời được câu hỏi nhưng tôi cũng sẽ không thể hiện để các em biết mình không trả lời được câu hỏi của học sinh mà chỉ nói với các em “ Xem đây như là bài tập”, nếu các em biết được giáo viên không trả lời được câu hỏi của mình thì sẽ gây cho các em cảm giác hụt hẫng, và dần dần sẽ làm cho các em mất lòng tin, điều đó dẫn đến sự khó khăn trong quá trình giáo dục của giáo viên.

5) Loại 5:

Trong giờ chữa bài tập học sinh đã phát hiện ra sai sót của giáo viên.

* Cách giải quyết chung của tình huống này:

Một số người cho rằng nếu gặp tình huống này giáo viên chỉ cần lên bảng sửa lại đáp số bài toán và kèm theo một câu xin lỗi học sinh là được.

Nhưng với tôi, tôi không đồng ý với cách giải quyết như vậy và tôi sẽ ứng xử như sau: Lúc đó tôi sẽ nói: ‘À, đúng rồi, bài toán này cô cố ý làm sai đáp số nhưng mà chỉ có bạn A phát hiện ra, cô làm như vậy để xem các em có thật vững khi làm toán không. Cô khen bạn A đã phát hiện nhanh, như vậy bạn A đã nắm vững bài học, thế là rất tốt, cô đề nghị cả lớp cho một tràng vỗ tay để biểu dương bạn A. Các em khác khi làm bài nhớ cẩn thận chứ không phải chỉ chép theo bảng nhé!”.

* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống này:

Bởi vì ở độ tuổi này nhân cách học sinh đang phát triển, khả năng lĩnh hội tâm lý học được hình thành đồng thời học sinh coi giáo viên như là linh hồn, là thần tượng của mình, nhất cử nhất động của giáo viên đều được học sinh ‘quan tâm” theo dõi, nên nếu giáo viên chỉ sữa sai đáp số bài toán và xin lỗi có lẽ không thuyết phục học sinh cho lắm. Vì vậy mà giáo viên cần phải biết linh hoạt và nhanh chóng biến tình huống này thành cái chủ động cho mình, sau đó là giải thích cho học sinh hiểu tại sao lại viết sai đáp số.

Ở tuổi này các em rất nhạy bén, nếu giáo viên chỉ sữa chữa như một số người đã làm thì tôi e rằng học sinh sẽ nghĩ: Cô còn sai nữa là. Và học sinh sẽ không “tâm phục khẩu phục giáo viên”.

          6)
Loại 6:

Một học sinh trong lớp bị mất cắp dụng cụ học tập.

* Cách giải quyết chung:

Thật sự đây là một tình huống khó xử đối với bất kì một giáo viên nào, và tôi đã xử sự như sau:

Trước hết tôi nói: “em nào đã thu cây bút của bạn B thì cuối giờ đưa cho cô để cô trả lại cho bạn”. Ở đây tôi chỉ bảo em học sinh đưa cho tôi bởi vì tôi nghĩ nếu em này trả lại trực tiếp cho em học sinh bị mất bút ( dụng cụ học sinh) thì cả em bị mất bút và các bạn trong lớp sẽ nghĩ không tốt về bạn mình và em này sẽ bị các bạn nghĩ xấu, điều đó ảnh hưởng đến tâm lý của học sinh.

Nếu kết quả là chẳng có em nào nhận là mình thu cả, vì vậy việc tôi làm tiếp theo là tôi nói với cả lớp: Nếu không có em nào thu cây bút của bạn thì cô giao việc này cho Ban cán sự lớp làm và việc của ban cán sự lớp là các em làm sao phải tìm ra cây bút cho bạn B. Và ngay ngày hôm đó em B đã nhận lại được cây bút của mình.

* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình
huống này

Ở đây, tôi đã không sử dụng cách khám xét cặp của các em, bởi vì các em ( lớp 3,4,5) đã biết nhìn nhận được sự việc, nếu tôi làm như vậy các em sẽ nghĩ rằng tôi “ nghi” cho các em, như vậy có nghĩa là tôi tự đánh mất niềm tin của các em đối với mình.

Sau khi em B nhận lại được cây bút, tôi đã nói với cả lớp: “lấy nhầm bút ( hay cái gì khác) của bạn là không tốt, nhưng các em đã nhận thấy cái sai của mình để trả lại cho bạn là một việc làm đáng khen. Cô hy vọng sau sự việc này, lớp chúng ta sẽ không có ai mắc phải sai lầm nữa”.

Sỡ dĩ tôi làm như vậy là vì các em đang ở trong độ tuổi hình thành và phát triển nhân cách, hình thành những thói quen và hành vi cuộc sống. Vì vậy, nếu giáo viên “bỏ qua” chuyện này thì các em sẽ có ý nghĩ cho rằng hành vi đó không phải là xấu, điều đó rất có hại cho các em.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

I.

                 

KẾT LUẬN.

Giao tiếp với mọi người là một nghệ thuật mà không phải ai cũng làm được. Ứng xử với học sinh cũng là một nghệ thuật, người giáo viên phải hiểu được tâm lý của học sinh, đặc điểm và hoàn cảnh của học sinh. Không những thế giáo viên phải linh hoạt với mỗi tình huống xảy ra và cách ứng xử phải mang tính khoa học, tính thuyết phục và tính giáo dục cao. Và dù có phải gặp tình huống nào đi nữa thì điều đầu tiên được đặt ra với người giáo viên là phải có lòng yêu nghề mến trẻ và sự khéo léo, đồng thời phải biết bình tĩnh suy xét mọi sự việc để tìm ra hướng giải quyết hợp lý, hợp tình. Bên cạnh đó, người giáo viên cũng cần tránh những áp đặt, tránh những lời lẽ hay hành động nặng nề, tránh nóng vội để xảy ra những sai lầm khônng đáng có khi xử lý tình huống.

Tóm lại, tài ứng xử sư phạm không gì khác hơn là một bộ phận của nghệ thuật sư phạm. Cho nên, cơ sở hình thành nên nó cũng là do lương tâm nghề nghiệp, niềm tin yêu và lòng tôn trọng người mà mình dạy dỗ, tinh thông nghề nghiệp.

II. ĐỀ XUẤT:

* Để vận dụng có hiệu
quả trong các tình huống ứng xử sư phạm, nhà sư phạm cần phải

+ Sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, chính xác.

+ Hiểu được đặc điểm tâm lý của lứa tuổi, trình độ phát triển nhân cách của mỗi học sinh và tập thể.

+Tôn trọng các em, công bằng với các em và luôn có yêu cầu cao đối với các em.

+ Nắm bắt kịp thời những tình huống sư phạm và có cách ứng xử hợp lý.

+ Phải luôn tìm tòi, học hỏi, rèn luyện để nâng cao nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện các phẩm chất ý chí.

* Với nhà trường

+ Tổ chức nhiều buổi toạ đàm để nhằm trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau.

+ Tổ chức thường xuyên các
cuộc thi ứng xử khéo léo sư phạm.