Festival và lễ hội truyền thống

Trước hết, nói đến festival là nói một loại hình sự kiện lớn hoặc siêu lớn được sản xuất ra cho một phân khúc thị trường nào đó, có nguồn gốc từ phương tây, với công nghệ tổ chức rất khác so với các lễ hội truyền thống ở nước ta.

Việc ra đời các festival có hai nguyên nhân: (1) Bản thân đời sống đô thị- công nghiệp cần có những cách tổ chức riêng, khác với đời sống nông thôn. Nhu cầu của cư dân đô thị đòi hỏi cần có các sự kiện văn hóa làm sống động đời sống tinh thần trong bối cảnh đường phố, quảng trường. Các festival là cách thức tốt nhất biểu thị bản sắc địa phương; (2) Những người tổ chức đã nhìn thấy thêm một tiềm năng của festival, đó là: có thể mang lại lợi nhuận về mặt kinh tế hay hiệu quả về mặt văn hóa xã hội.

Như vậy, festival ra đời như một công cụ, một cách để quảng bá hình ảnh của địa phương, đáp ứng yêu cầu của đời sống tinh thần, và để tạo ra lợi nhuận, nếu biết đầu tư cho nó như một sản phẩm được bán trên thị trường.

Trong khi đó, lễ hội truyền thống là một nghi thức tôn giáo – tâm linh, được ra đời do nhu cầu tinh thần của một cộng đồng nông thôn. Nó được vận hành bởi tính tự nguyện và các ‘luật lệ’ cộng đồng, đáp ứng nhu cầu tinh thần và cũng được coi là một thương hiệu tạo bản sắc.

Tổ chức festival là một bài toán kinh tế. Và vì thế, nó yêu cầu mấy yếu tố sau đây: Sự tham gia của giới làm nghệ thuật (họ sẽ là chủ nhân chính trong việc tạo nên các sự kiện nghệ thuật cho festival); Sự tham gia của giới tổ chức các sự kiện chuyên nghiệp (hình thành cả một đội ngũ tổ chức sự kiện, với các đạo diễn, các công ty – họ sẽ là những người khớp nối các sự kiện lại với nhau); và sự tham gia của chính quyền (điều này rất quan trọng, để cho chủ trương, cho phép sử dụng không gian, huy động lực lượng…).

Ở các nước châu Âu, festival được tổ chức rất nhiều. Như vậy, yêu cầu đặt ra là phải đòi hỏi sự khác biệt, tức là bản sắc. Mà điều này được hình thành bởi cái gì? – Yếu tố nghệ thuật (được thể hiện trên hai phương diện: chủ đề, và các chương trình nghệ thuật trong festival). Các yếu tố khác như danh lam thắng cảnh, làng nghề… có thể tạo nên sức hút ban đầu, nhưng về lâu dài, chính yếu tố nghệ thuật sẽ quyết định sức thu hút của festival. Trong bối cảnh châu Á và Việt Nam, có một yếu tố nữa, đó là các di sản văn hóa nghệ thuật truyền thống, có thể được khai thác và phát huy trong bối cảnh đương đại, thành các sự kiện và sản phẩm có những đặc trưng riêng, để cho festival của chúng ta có nội dung khác với các nước công nghiệp phát triển.

Tổ chức festival là một bài toán thị trường, nó phải được xây dựng trên nhu cầu, các tiêu chí của bài toán thị trường. Các yếu tố công nghệ tổ chức (công nghệ tổ chức sản phẩm) và khoa học kỹ thuật (để trình diễn) là rất quan trọng, hỗ trợ và làm nền tảng để cho tác phẩm nghệ thuật thành một sản phẩm có thể bán được.

Từ sự khác nhau về bản chất của festival và lễ hội truyền thống, cần phải có những điều chỉnh cho thích hợp trên cơ sở những đặc điểm của hai hiện tượng.

Festival nghệ thuật cần được điều chỉnh bằng một văn bản quản lý nhà nước đặc thù, thuộc cơ quan quản lý nghệ thuật. Không thể gói gọn festival  trong phạm trù lễ hội và càng không thể khoác cho nó một tên gọi: lễ hội văn hóa-du lịch. Nhà nước chỉ đầu tư có trọng điểm vào hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa tiêu biểu, trong đó lễ hội truyền thống là một loại hình di sản phi vật thể, xây dựng các văn bản pháp quy và kiểm tra việc thực hiện, cơ bản là để các cộng đồng tự quản, còn việc đầu tư cho các festival, chủ yếu là câu chuyện của thị trường. Không đầu tư tràn lan vào các festival bằng ngân sách nhà nước, để thị trường tự điều tiết theo quy luật cung – cầu. Festival pháo hoa Ðà Nẵng là một sự thành công về phương diện nghệ thuật và thị trường khi áp dụng nguyên tắc này. Không nên đòi hỏi tính nguyên gốc, tính thiêng trong một số sự kiện lấy chất liệu truyền thống, bởi đó cũng là cách, tuy chưa hoàn hảo, để phát huy giá trị văn hóa tinh thần trong đời sống đương đại.

Cũng cần có tư duy và áp dụng một số phương thức tổ chức sự kiện vào lễ hội truyền thống, nhất là vào thời điểm này, nhiều lễ hội truyền thống đã có một không gian mới, một cấu trúc bị biến đổi và được coi là một sự kiện không chỉ của từng cộng đồng, mà có sự tham dự của khách thập phương. Cần có những nghiên cứu, đánh giá khoa học về một số lễ hội có đưa yếu tố mới. Sự ảnh hưởng không phải không có cơ sở. Cái chính là phải phân tích, mổ xẻ một cách khách quan và khoa học, tìm những yếu tố thích hợp, hướng dẫn và định hướng dư luận và cộng đồng, đặc biệt không thể lấy tư duy của quản lý lễ hội truyền thống để áp đặt, đánh giá các festival.

Festival là một sản phẩm của ngành công nghiệp văn hóa, nó cần được đặt trong một chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam. Ðây cũng là cách để chúng ta có thể hội nhập văn hóa quốc tế một cách hiệu quả.