Đổi mới chính trị không làm thay đổi chế độ chính trị
Đổi mới chính trị không làm thay đổi chế độ chính trị
1. Quan điểm đổi mới chính trị không làm thay đổi chế độ chính trị
Từ trước đến nay, các thế lực thù địch luôn xuyên tạc việc đổi mới chính trị của Đảng vì bản chất và mục tiêu của chúng là nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ không đi theo quỹ đạo của chúng, mà trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.
Không chỉ lập lờ giữa các khái niệm, các thế lực thù địch còn chống phá, nhằm vào mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước, đặc biệt là vào những thời điểm khó khăn.
Mục tiêu sâu xa của chúng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xóa bỏ Đảng và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ thành quả cách mạng của đất nước ta, của Nhân dân ta dày công xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua các hoạt động chống phá, các thế lực thù địch muốn gây mất ổn định chính trị, mất lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho kinh tế không phát triển, xã hội tất yếu dẫn tới rối loạn, khủng hoảng và sụp đổ; làm cho chính trị rối loạn, đất nước không ổn định, tất yếu cũng dẫn tới xoá bỏ chế độ chính trị.
Đổi mới chính trị ở Việt Nam những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chẳng những không làm thay đổi chế độ chính trị, trái lại, làm cho chế độ chính trị ngày càng thể hiện rõ hơn sự tiến bộ và phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đất nước Việt Nam. Mặc dù thế giới có nhiều biến động, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Những chủ trương và giải pháp của Đảng theo ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, qua lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn của con đường mà Đảng ta và Nhân dân ta đã chọn.
Quan điểm đổi mới đúng đắn này đã được khẳng định và thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Chương I của Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp 1992, bên cạnh đó, đã làm rõ hơn một số vấn đề như sau[1]:
Thứ nhất, Hiến pháp bổ sung thêm một điểm quan trọng là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” cùng với việc tiếp tục thể hiện nhất quán, xuyên suốt quan điểm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Khoản 2, Điều 2)[2].
Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận trong Hiến pháp bằng quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2)[3]. Nguyên tắc này được thể hiện xuyên suốt trong các chương quy định về tổ chức bộ máy nhà nước tại Hiến pháp năm 2013. Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền, việc ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân Nhân dân, vì Nhân dân.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 làm sâu sắc hơn tính tiên phong, bản chất giai cấp công nhân và Nhân dân của Đảng, đồng thời bổ sung vào Điều 4 quy định về trách nhiệm chính trị – pháp lý của Đảng đối với Nhân dân, theo đó, “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình” (Khoản 2, Điều 4)[4].
Thứ tư, Hiến pháp bổ sung thêm quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6)[5] được ghi nhận thành nguyên tắc trong Hiến pháp, đây là điểm mới quan trọng của Hiến pháp năm 2013 so với các bản Hiến pháp trước đây. Theo đó, từ nay Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân mà còn thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
Sự nghiệp đổi mới chính trị không những không làm thay đổi chế độ chính trị mà trái lại còn củng cố chế độ chính trị, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Giữ vững vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Kết quả đổi mới chính trị và củng cố chế độ chính trị
Cũng giống chế độ chính trị của bất kỳ quốc gia nào, chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay là sản phẩm của quá trình phát triển, hoàn thiện và đang tiếp tục được phát triển, hoàn thiện. Phát triển, hoàn thiện chế độ chính trị ở Việt Nam không cản trở quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế của đất nước, mà càng làm cho đất nước độc lập, tự chủ, giàu mạnh, phồn vinh, người dân được tự do, hạnh phúc. Những thành tựu của đổi mới chính trị mà Việt Nam đã đạt được sau hơn 35 năm đổi mới đã khẳng định điều đó.
Đúng như đánh giá đánh giá của Đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “Năm 2020 được xem là năm thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm qua với những kết quả, thành tích đặc biệt. Những kết quả, thành tích đó đã góp phần làm nên những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, với nhiều dấu ấn nổi bật của nhiệm kỳ khóa XII và thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay”[6], với những dấu ấn nổi bật trên tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Uy tín, niềm tin và vai trò là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam được tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, do Nhân dân làm chủ ngày càng đi vào thực chất. Quyền làm chủ của Nhân dân được phát huy và đi vào thực chất. Quyền con người, quyền công dân được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
Nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được củng cố vững chắc. Quyền lực nhà nước được thực thi thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội được nâng cao. Biên chế được tin giản gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đến năm 2021 đã giảm tối thiểu 10% biên chế so với năm 2015.
Cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn một số tổ chức và các đầu mối bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm đầu mối, giảm tối đa cấp trung gian, giảm cấp phó. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để kịp thời khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý. Thực hiện thí điểm thành công một số mô hình mới về tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Sắp xếp thu gọn hợp lý các đơn vị hành chính cấp xã chưa đạt 50% tiêu chuẩn theo quy định về quy mô dân số, diện tích tự nhiên và giảm số lượng thôn, tổ dân phố. Chi thường xuyên giảm, chính sách tiền lương được cải cách[7].
Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác phát huy vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại Nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đổi mới chính trị đã góp phần đưa nước ta trở thành nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
3. Giải pháp đổi mới chính trị và củng cố chế độ chính trị
Năm 2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp và là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025 và các kế hoạch 5 năm trên các lĩnh vực theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia, đối tác trên thế giới và trong khu vực tiếp tục diễn ra gay gắt. Đại dịch Covid-19 chưa thể sớm kết thúc, tác động tiêu cực có thể kéo dài, ảnh hưởng đến nhiều ngành, lĩnh vực, nhất là đối với đầu tư, thương mại, dịch vụ, du lịch, vận tải hàng không.
Ở trong nước, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi và được kế thừa những thành tựu quan trọng của 35 năm đổi mới, tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức tạp; yêu cầu cho đầu tư phát triển, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, ứng phó với biển đổi khí hậu, bảo đảm an sinh xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh rất lớn trong khi nguồn lực còn hạn chế. Các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng, giao tiếp xã hội, khoa học công nghệ… vừa là thời cơ, vừa là thách thức, đòi hỏi chúng ta tuyệt đối không chủ quan, tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn, biến thách thức thành cơ hội, nỗ lực phấn đấu với quyết tâm cao thực hiện thành công toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2021, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp, tạo nền tảng vững chắc để đất nước phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
Để đổi mới chính trị, giữ vững và phát huy tính ưu việt của chế độ chính trị cả hệ thống chính trị cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội và quyền làm chủ của Nhân dân; bám sát Cương lĩnh, Hiến pháp, Điều lệ và các văn kiện của Đảng trong việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thực hiện đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Giữ vững các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và đề cao kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nghiêm túc thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị.
Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu. Bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; gắn đổi mới tổ chức bộ máy với đổi mới phương thức lãnh đạo, tinh giản biên chế và cải cách chế độ tiền lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút người có đức, có tài; bố trí đủ nguồn lực cần thiết và có cơ chế, chính sách phù hợp đối với những người chịu tác động trực tiếp trong quá trình sắp xếp. Có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống nhất; thực hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì thực hiện ngay; những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc đã có quy định nhưng không còn phù hợp thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội; những việc chưa rõ, phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Mô hình và quy mô tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy, tinh giản biên chế; tăng cường tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, không để các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá, chia rẽ nội bộ[8].
Tiếp tục bồi dưỡng, phát huy hơn nữa lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đoàn kết, niềm tự hào và ý chí tự cường của dân tộc; củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo không khí phấn khởi, sự đồng thuận trong xã hội, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII. Nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Tiếp tục khẳng định những thành tựu vĩ đại của dân tộc ta đã đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong đổi mới chính trị, đổi mới đất nước. Tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc, lý tưởng và đạo đức cách mạng, giới thiệu chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, về đất nước, con người Việt Nam kiên cường, dũng cảm, cần cù lao động và yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế và đồng bào ta ở nước ngoài[9].
Chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng để phục vụ tổ chức thành công bầu cử Quốc hội khóa XV và bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Quyết liệt hành động, có chương trình, kế hoạch cụ thể thực hiện hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030 ngay trong năm đầu của nhiệm kỳ. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập; giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Huy động, sử dụng các nguồn lực theo cơ chế thị trường. Nâng cao kỷ cương, hiệu quả trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với thực thi nghiêm pháp luật. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại. Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, trí tuệ con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự cường, niềm tự hào dân tộc. Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; chú trọng phát triển nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh thu hút, trọng dụng nhân tài. Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ; làm chủ một số công nghệ mới, công nghệ có tính chiến lược.
Chú trọng bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện đời sống Nhân dân. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Củng cố quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển nhanh, bền vững; nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Làm tốt công tác thông tin, truyền thông, kịp thời phản ảnh, lan tỏa các nhân tố tích cực, góp phần củng cố niềm tin, tạo đồng thuận trong toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội đề ra[10].
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh dạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã họi, bảo về môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia the hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả[11].
ThS. Bùi Thị Minh Tâm
Trường Cao đẳng Cảnh sát Nhân dân II
[1] Trần Mai Anh (2014), Một số điểm mới cơ bản của Hiến pháp năm 2013,
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd, cập nhật ngày 25/01/2014.
[2] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
[3] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
[4] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
[5] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
[6] Chính phủ (2020), Nghị quyết số 195/NQ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ tại Hội nghị Chính phủ với địa phương và phiên học Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2020.
[7] Chính phủ (2021), Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ về nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021.
[8] Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa VII số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
[9] Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 1063/QĐ-TTg ngày 02 tháng 7 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn trong hai năm 2014-2015.
[10] Chính phủ (2021), Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ về nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021.
[11] Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất ban chính trị quốc gia sự thật, Tập II.