Đề tài – Phân tích thực trạng, nguyên nhân, giải pháp phòng ngừa tệ nạn xã hội trong học sinh, sinh viên hiện nay – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

Vậy bài toán đặt ra ở đây là phải nâng cao nhận thức của HS-SV thì mới có thể hạn chế và tiến tới loại bỏ hẳn tệ nạn xã hội ra khỏi HS-SV. Nhưng điều này là không tưởng, bởi vì trong hệ thống giáo dục của nước ta còn rất nhiều bất cập. Đây cũng là một bài toán khó cho các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách.

doc

31 trang

|

Chia sẻ: lylyngoc

| Lượt xem: 60638

| Lượt tải: 2

download

Bạn đang xem trước

20 trang

tài liệu Đề tài – Phân tích thực trạng, nguyên nhân, giải pháp phòng ngừa tệ nạn xã hội trong học sinh, sinh viên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Mở đầu
Trí thức nói chung và sinh viên nói riêng là lực lượng hung hậu có sức khỏe, có trình độ học vấn, có tiềm năng sang tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học hiện đại. Nhất là trong giai đoạn cách mạng khoa học kĩ thuật hiện nay trong bối cảnh thế giới có rất nhiều biến động phức tạp, trước những thách thức to lớn của xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, đặc biệt là kinh tế trí thức.
Đặc biệt ở đây tôi muốn bàn về một vấn đề rất được quan tâm là lối sống của sinh viên ngày nay. Nói đến sinh viên tức là nói đến thế hệ đang nắm trong tay tri thức cùng với những hiểu biết về tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không nhỏ. Họ là lớp người đang được đào tạo toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học…
Sinh viên là những tầng lớp trí thức tuong lai của đất nước, không ai hết mà chính họ là những người đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thế kỉ XXI_thế kỉ của văn minh trí tuệ, của sự phát triển khoa học kĩ thuật nên rất cần có những con người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sang tạo cao, có khả năng tiếp nhận cái mới rất nhanh và thay đổi nó một cách nhanh nhạy và sáng tạo, thích nghi với sự thay đổi một cach nhanh chóng của xã hội hiện đại, đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới.
Tuy mang trong mình sứ mệnh to lớn như vậy nhưng một bộ phận không nhỏ trong giới sinh viên lại đang thờ ơ, không những vậy họ còn tham gia vào các tệ nạn xã hội khiến cho tình hình tệ nạn xã hội trong những năm gần đây đang có chiều hướng gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi hơn. Điều này làm hủy hoại tinh thần và thể chất của bản thân, gây thiệt hại cho gia đình và xã hội.
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và cách khắc phục chúng ra sao? Để trả lời được hai câu hỏi trên sau đây em xin đưa ra một số nguyên nhân và hướng khắc phục sau.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỆ NẠN XÃ HỘI
Khái niệm tệ nạn xã hội.
Hiện tượng xã hội có tính phổ biến, lan truyền, biểu hiện bằng những hành vi lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. TNXH bao gồm: mại dâm, nghiện ma tuý, cờ bạc, mê tín dị đoan, vv. TNXH là cơ sở xã hội của tình trạng phạm tội, là một trong những nguồn gốc phát sinh tội phạm. Phòng chống TNXH là nhiệm vụ của toàn xã hội, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, bằng những biện pháp đồng bộ, tích cực và triệt để.
Đó là các nạn “Mại dâm, nghiện ma túy, cờ bạc, mê tín dị đoan, tham nhũng, quan liêu” v.v. Tệ nạn là một trong những nguyên nhân phát sinh “Tội phạm”.
Tệ nạn xã hội ảnh hưởng xấu đến “Sức khỏe”, tinh thần và đạo đức con người, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, rối loạn “Trật tự xã hội”, suy thoái “Giống nòi, dân tộc”, văn hóa suy đồi.
Các tệ nạn xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. “Ma túy, mại dâm” là những con đường ngắn nhất làm lây truyền “HIV/AIDS”, đại dịch thế kỷ.
1.2. Hậu quả của tệ nạn xã hội
1.2.1. Đối với bản thân
– Huỷ hoại sức khoẻ của bản thân dẫn đến cái chết.
– Lười lao động, không chịu làm ăn, xa đà dẫn tới các loại tội phạm.
– Sa sút tinh thần, huỷ hoại phẩm chất đạo đức, không có ý thức.
– Vi phạm pháp luật.
1.2.2. Đối với gia đình
– Kinh tế cạn kiệt, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần
– Gia đình tan vỡ
– Để lại gánh nặng lớn cho gia đình và xã hội
1.2.3. Đối với xã hội
– Ảnh hưởng tới kinh tế, suy giảm sức lao động xã hội.
– Suy thoái giống nòi.
– Mất trật tự an toàn xã hội như: trộm cắp, cướp của, giết người…
– Ảnh hưởng đến truyền thống văn hoá dân tộc.
Tuy nhiên, những số lượng này cũng đã nói lên rằng ngày càng nhiều sinh viên, những trụ cột tương lai của đất nước, đang sống không có lý tưởng, trượt dài trong những “cuộc vui suốt tháng, trận cười thâu đêm”. Họ tưởng mình đang tận hưởng tuổi trẻ, nhưng thực ra chính họ đang tiêu phí tuổi xuân một cách liều lĩnh.
Vùi mình vào những thú chơi vô bổ, vào rượu, vào sex, họ đang đánh đổi sức khỏe, tương lai, hạnh phúc thậm chí là cả tính mạng của mình. Sự liều lĩnh trong cách sống của một bộ phận những sinh viên này khiến người ta có cảm giác họ sống mà không cần biết đến ngày mai. Không biết dừng lại, những sinh viên này sẽ sớm nhìn thấy hậu quả của những gì mình gây ra.
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỆ NẠN XÃ HỘI TRONG HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng về tệ nạn xã hội trong học sinh, sinh viên hiện nay.
Trong những năm gần đây tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội trong học sinh, sinh viên (HS-SV) ngày càng có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp.
Theo số liệu thống kê chính thức của cơ quan chức năng, số người mắc các tệ nạ xã hội, tội phạm chiếm tỷ lệ trung bình khoảng 70%. Trong đó theo thống kê của vụ công tác HS-SV (Bộ giáo dục và đào tạo) số HS-SV phạm tội, mắc tệ nạn xã hội ở hà nội chiếm khoảng 0,01% trong tổng số sinh viên cả nước mỗi năm.
Song đáng lo ngại là HS-SV ở hà nội có mặt hầu hết trong các loại tội phạm và tệ nạn xã hội. Chính vì vậy cần có công tác phòng ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh niên nói chung và HS-SV trên cả nước nói riêng.
Ông Phùng Khắc Bình, Vụ trưởng Vụ Công tác HSSV – Bộ GD-ĐT nhận xét: “Thời gian gần đây không chỉ SV mà còn có cả người đứng trên bục giảng phạm tội. Điều đó đã ảnh hưởng đến không chỉ ngành giáo dục mà còn tác động xấu đến xã hội. Câu “Kính thầy yêu bạn” dường như đang bị lãng quên.
Trước đây, ít khi xảy ra chuyện học trò xúc phạm thầy hay thầy xúc phạm học trò thì nay xuất hiện khá phổ biến. Điều đó nói lên phẩm chất và lối sống của bộ phận thầy và trò đang bị sa sút. Ở đây tôi không phải muốn đề cao giáo dục nhân cách hơn kiến thức mà phải song song, nhưng nền tảng của tri thức, kiến thức vẫn phải là nhân cách”.
Lâu nay, thiết chế văn hóa trong nhà trường còn thiếu. Cơ sở vật chất, ký túc xá, sân chơi… cho SV còn thiếu trầm trọng. Một thực tế hiện nay, nhu cầu giao lưu của học sinh, SV là cần thiết nhưng cách thức tổ chức văn hóa này lại ít được quan tâm.
Từ việc thiếu chỗ cho SV tham gia, sinh hoạt lành mạnh, SV sẽ tìm đến những điểm chơi game, bi-a… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc SV phạm tội, nhưng, nguyên nhân nào thì cũng không thể chấp nhận được. Bởi vì, SV được cho là giới tri thức tương lai, chú trọng kiến thức hơn sẽ dẫn đến nhận thức ấu trĩ của một bộ phận SV.
Những năm gần đây, số vụ SV phạm pháp hoặc bị kỷ luật mỗi năm một tăng. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ GD-ĐT, giai đoạn từ năm 2003-2007, số SV phạm tội hình sự là 27 SV, bị bắt giữ liên quan đến vụ việc khác 77 SV, 126 SV bị buộc thôi học và 2.533 SV vi phạm quy chế nhà trường.
Điều đó thể hiện ở một số điểm sau:
+ Tình trang phạm tội phạm có tổ chức, tụ tập nhóm để trộm cắp, cướp giật, đâm thuê, chém mướn, đua xe chém mướn, đua xe trái phép, tổ chức sử dụng ma tuý, cờ bạc… khá phát triển trong các trường cao đẳng, đại học ở nước ta, đặc biệt là Hà Nội.
Hơn nữa khảo sát 2006 của vụ văn hoá, ban tư tưởng của trung ương cho thấy trong 13 biểu hiện chưa tốt của HS-SV đặc biệt là ở Hà Nội nói riêng, đứng đầu là không chịu học hành, đua đòi, ma túy, lô đề, cờ bạc…tiếp đến là sống thử, mắc các tệ nạn xã hội.
+ Tội phạm, tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, lô đề….HS-SV vừa là nạn nhân vừa là tội phạm.
Ví dụ: Theo thống kê năm 2004 có 600 HS-SV nghiện ma tuý
Thống kê từ năm 2005 – 2008: vi phạm hình sự trong HS-SV lên tới 8.000 vụ, trong đó có trên 800 vụ phạm tội liên quan đến ma túy.
Theo số liệu thống kê mới đây của các cơ quan chức năng, trên địa bàn cả nước có hơn 146.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, tuy nhiên, đáng báo động là cứ 100 người nghiện thì có tới 70 người ở tuổi vị thành niên.
Thực tế trên cho thấy, đang có một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên, HS-SV thiếu kỹ năng sống, xuống cấp về đạo đức, xao nhãng việc học tập, thích thể hiện bản thân một cách thái quá, thiếu kiến thức về pháp luật nên sa đà vào tệ nạn xã hội.
Tình trạng học sinh phổ thông đã bỏ học, sống lang thang, thông qua mạng Internet để kết thành băng nhóm sử dụng ma túy, gây ra nhiều vụ đánh nhau, gây rối trật tự xã hội, cướp tài sản… có xu hướng gia tăng hiện nay lên tới khoảng 20.000 đối tượng.
Phần lớn các em đều có ý thức tu dưỡng đạo đức tốt, tích cực, chủ động trong học tập và rèn luyện, năng động, tự tin, có ý thức vươn lên mạnh mẽ, khát khao thể hiện bản thân. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ HS-SV quá đề cao giá trị vật chất, lối sống hưởng thụ, coi việc sử dụng điện thoại, xe máy đắt tiền là sự khẳng định đẳng cấp, giá trị bản thân. Từ quan niệm đó, dẫn đến một số học sinh đua đòi quá mức kinh tế cho phép, có trường hợp HS-SV chỉ vì cần tiền mua quần áo đẹp hay điện thoại di động mà phạm tội nghiêm trọng hoặc cá biệt có em đã làm việc một số việc vi phạm nhân phẩm của chính bản thân mình để lấy tiền. Một bộ phận HS-SV có biểu hiện lệch lạc về đạo đức, lối sống như thiếu tôn trọng thầy, cô giáo, coi thường kỷ luật của nhà trường, thường xuyên nói tục, chửi thề.
Qua cuộc điều tra mới đây 500 em học sinh (HS) THCS ở quận 6, TP.HCM cho thấy 32,2% HS có thái độ vô lễ với thầy, cô giáo; nhiều HS chỉ chào thầy cô khi ở trong trường còn ra trường thì coi như không quen biết, 38% HS thường xuyên nói tục.
Theo thống kê chưa đầy đủ từ năm 2005 – 2008, tổng số vi phạm pháp luật hình sự trong HS-SV khoảng hơn 8.000 trường hợp, trong đó gây rối trật tự công cộng hơn 2.000 trường hợp, tội phạm ma túy 815 trường hợp, giết người 83 vụ, cướp tài sản 1.372 vụ, xâm hại sức khỏe, tính mạng 1117 vụ…
Tình trạng HS phổ thông đã bỏ học, sống lang thang, thông qua mạng Internet để kết thành băng nhóm sử dụng ma túy, gây ra nhiều vụ đánh nhau, gây rối trật tự xã hội, cướp tài sản… có xu hướng gia tăng hiện nay lên tới 20.000 đối tượng. Theo số liệu từ Vụ Công tác HS-SV (Bộ GD&ĐT) cho biết: “Có đến 90% những vụ vi phạm pháp luật, gây mất an ninh, trật tự trong HS-SV đều từ bia rượu mà ra”. Một xu hướng không lành mạnh trong HS-SV hiện nay là mọi dịp vui buồn như liên hoan, sinh nhật, ăn mừng… đều được tổ chức dưới dạng ăn nhậu thâu đêm suốt sáng. Các quán xá, căngtin trong và ngoài trường đều luôn luôn có Rượu, bia bán cho HS-SV, thậm chí các chủ hàng còn sẵn sàng cho nợ. Uống quá say, không kiềm chế được bản thân, nói năng thiếu suy nghĩ, dẫn đến chấp nhặt lẫn nhau giữa các cá nhân, nhóm người, rồi không ít trường hợp xảy ra những va chạm, chửi bới, đâm chém nhau, gây mất an ninh, trật tự. Tội phạm trong HS-SV ngày càng có xu hướng “Trẻ hóa”, tính chất gây án hết sức manh động và hung hãn. Những vụ trọng án mà Công an thành phố Hà Nội khám phá trong thời gian qua có một điểm chung là: hung thủ gây ra hàng chục vụ giết người, cướp của đều còn rất trẻ, từ khi chưa thành niên, thậm chí có tên bị bắt khi đang học lớp 10.  Tháng 7/2004, Công an huyện Thanh Trì đã bắt giữ một nhóm 7 tội phạm chưa đến 17 tuổi, trong đó có 2 nữ, là thủ phạm của nhiều vụ giết người, cướp của. Ngày 25/8/2004, một HS lớp 8 đã bị một HS lớp 7 cùng trường đâm chết do mâu thuẫn cá nhân. Đầu tháng 10 vừa qua, Công an quận Cầu Giấy – Hà Nội bắt giữ một nhóm 6 tên tuổi từ 15 đến 19, chỉ trong một thời gian ngắn đã gây ra gần 20 vụ cướp tài sản của HS…
Nước ta hiện có tới gần 30 triệu HS-SV, Con số đó đủ nói lên ý nghĩa quan trọng của công tác phòng, chống ma tuý học đường đối với toàn xã hội.
Tuy có nhiều nỗ lực phòng chống ma tuý trong trường học, nhưng những năm qua, tệ nạn ma tuý vẫn gia tăng cả về số lượng và tính chất nguy hiểm, gây ra những tác hại khôn lường cho HS-SV. Để có tiền hút chích, nhiều đối tượng sẵn sàng trở thành tội phạm giết người, cướp của, vì đó mà tệ nạn xã hội khác cũng gia tăng. Ma tuý còn là con đường dẫn tới căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS.
Không chỉ có đối tượng HS-SV, nhiều cán bộ giáo viên cũng trở thành nô lệ của ma tuý. Gần đây nhất – ngày 8/5/2008, Phòng Giáo dục Đào tạo huyện Tuần Giáo (Điện Biên) đã ra quyết định buộc thôi việc đối với 4 giáo viên nghiện ma tuý nặng. Không chỉ sử dụng ma tuý, liều lĩnh hơn, nhiều đối tượng HS-SV, cán bộ giáo viên còn tham gia tàng trữ, vận chuyển và buôn bán trái phép các chất ma tuý như trường hợp của giáo viên Đỗ Thị Đông (trường THPT 8/4 Mộc Châu, Sơn La), một giáo viên dạy giỏi, được học trò quý mến, phụ huynh tin yêu trở thành “Bà trùm” buôn bán ma tuý và nhận mức án tử hình.
Càng ngày càng có nhiều bạn trẻ trong đó không ít là sinh viên bị ám ảnh bởi quan niệm “trẻ không chơi, già hối hận” và lao vào những cuộc chơi bạt mạng thâu đêm suốt sáng. 
  Cờ bạc, lô đề không phải là hiện tượng mới lạ gì trong giới sinh viên. Chỉ cần lượn một vòng quanh các trường có nhiều nam sinh viên như ĐHXD, ĐHTL, ĐHGTVT… là có thể thấy ngay dịch vụ lô đề trá hình dưới các quầy bán xổ số mọc lên như nấm. Tầm từ 4h -5h30, lực lượng nam sinh viên tạt ù vào các quầy này đánh mấy con lô có khi nhiều gấp mấy lần số sinh viên đang… ngồi trên thư viện nghiên cứu. Một buổi tối ngồi cùng cánh sinh viên trường đại học XD, người viết bài này đã giật mình khi được nghe kể những câu chuyện về mức độ liều lĩnh trong cách “ăn chơi” của một số “hảo thủ” trường này đã được “giang hồ” đồn thổi thành giai thoại.
Q.T là một nhân vật tiêu biểu. Đây là một thiếu gia có bố mẹ làm nghề buôn gỗ. Gia đình giàu có nên T tiêu xài không hề suy nghĩ. T có một niềm đam mê không tài nào gỡ nổi là lô đề. Chơi đều và chơi rất bạo, ngày nào cậu cũng lượn quanh các quán ghi lô gần chỗ trọ đến mức mấy bà bán xổ số ở đó nhìn thấy cậu như… bắt được vàng. Có hôm riêng tiền “đầu tư” vào quỹ của thần họ “Lô” tên “Đê Huyền” của cậu đã lên tới vài triệu. Có lẽ đây là “quỹ đầu tư” có tỉ lệ rủi ro cực cao nên tiền bạc và những đồ đạc hàng hiệu của T như chiếc xe Nouvo cáu cạnh, máy tính xách tay Vaio sành điệu cũng theo thời gian mà nói lời chia tay với khổ chủ.  Hết tiền, hết đồ để cắm, T bắt đầu vay mượn bạn bè và ghi lô chịu ở các cửa hàng. Số nợ cứ lên khoảng chục triệu là cậu lại gọi điện về nhà xin tiền và nói dối là “mất xe máy”, “mất máy tính”… Nhiều lần như thế nên sinh nghi, bố mẹ cậu lên tận nơi kiểm tra mới tá hỏa trước sự thật về “quý tử” nhà mình.  Chính sách thắt chặt tài chính được ban hành nhằm kiểm soát và tiến tới cắt đứt hẳn “cơn nghiện” lô đề của T. Nhưng mọi nỗ lực của bố mẹ đều trở thành số không khi T làm cách nào đó đã “chôm” được cả sổ đỏ ngôi nhà bố mẹ cậu đang ở và đem đi “cắm”, tiếp tục “niềm đam mê” của mình. Liều lĩnh đến mức này thì đúng là chỉ có một!
Không đam mê cờ bạc nhưng T.M.Q (ĐHM – ĐC) lại mê mẩn với thế giới ảo trong Võ Lâm Truyền Kì. Trong thế giới đó, cậu không còn là một sinh viên quèn tên Q. đến tiền ăn hàng ngày cũng phải ngửa tay xin bố mẹ nữa mà là một “anh hùng”, một cao thủ võ lâm hành tẩu giang hồ, trừ gian diệt bạo được người trong thiên hạ (ảo) kính nể. T.M.Q sống với thế giới ảo nhiều hơn thế giới thật. Số giờ cậu lên giảng đường ngày càng thưa thớt, thay vào đó là những đêm bạc mặt trước màn hình với những “chiêu thức”, những “bí kíp” võ công đọc lên đã thấy méo cả miệng. Cậu làm tất cả để thể hiện đẳng cấp của mình trong thế giới ảo. Q bỏ tiền thật để mua lấy những “vũ khí” ảo nhằm trang bị cho nhân vật của mình thật tinh nhuệ. Số tiền chi ra từ vài trăm nghìn đồng rồi lên đến vài triệu và hàng chục triệu lúc nào chẳng hay. Nợ nần chất đống, Q bị các chủ nợ săn lùng và còn bị báo lên cả ban giám hiệu nhà trường. Chỉ khổ cho bố mẹ nông dân của Q. Khi được nhà trường gọi lên giải quyết chuyện nợ nần của con, hai bác đã không thể hiểu nổi con mình nợ người ta hàng chục triệu để mua cái gì.
* Uống liều
Hiện tượng sinh viên uống rượu đã trở thành chuyện thường ngày đối với nhiều người. Bất cứ một dịp nào: sinh nhật, lễ tết, ngày cuối tuần… thậm chí là chả cần “nhân dịp“, các sinh viên cũng tụ tập chén tạc, chén thù. Người viết bài này đã từng chứng kiến ba cậu sinh viên ĐHXD uống hết 3 chai rượu Lúa Mới (loại 1 lít một chai) trong buổi liên hoan chia tay một đồng chí lên đường “về quê mẹ” (vì bị đình chỉ học một năm) mà đồ nhắm chỉ có mấy củ lạc với vài quả khế. Uống xong, cả bọn say xỉn, nôn mửa ra phòng khiến ai vô tình đi ngang qua sẽ cảm thấy kinh hãi với lối sống buông thả của một bộ phận sinh viên hiện nay.  Ai cũng biết uống nhiều như vậy sẽ cực hại đến lục phủ ngũ tạng nhưng tất cả đều phớt lờ và cho rằng “vui là chính, sức khỏe là thứ yếu”. Thậm chí những khi “viêm màng túi”, nhiều sinh viên còn đi mua những loại rượu rẻ tiền chỉ vài nghìn/lít mà theo lời X.B (K50, ĐHBK) là “rượu ít cồn nhiều”. Uống những loại này, đầu đau như búa bổ, mắt nở hoa cà hoa cải vô cùng hại người. Biết thế, nhưng tất cả đều bỏ qua, chỉ cần lúc “trăm phần trăm” thấy vui là được. Mọi chuyện sau này đến đâu thì đến, chả cần quan tâm.
* Và yêu… cũng liều
Yêu liều ở đây là yêu nhiều, yêu vô tội vạ, bạ đâu yêu đấy. Nghe có vẻ buồn cười nhưng đó là sự thật. Nhiều sinh viên hiện nay quan niệm tình yêu đơn giản như mua một cái áo, sắm một cái quần. Thấy vừa, đẹp thì “mặc” lâu lâu một chút, không thấy ưng ý thì lại thay ra ngay và chuyển sang chiếc khác.  Một nữ sinh viên tên D. (ĐH Luật Hà Nội) khi được bạn bè hỏi “đã yêu mấy người” thì hồn nhiên trả lời: “Để tao đếm đã”. Và cô nàng đếm thật. Mỗi cái tên con trai tương ứng với một ngón tay xòe ra. Một lúc cũng được chừng 6, 7 người. Tưởng hết rồi, bạn bè le lưỡi lắc đầu. Nhưng một lúc nàng lại bổ sung: “À quên, còn anh X”. Độ phút sau lại “Ý chết, anh K chưa có trong danh sách”. Ngán ngẩm, bạn bè gọi nàng là “người đẹp có trái tim vô số ngăn”.
Nếu chỉ là tình yêu trong sáng, thì yêu nhiều cũng không gây hậu quả gì nghiêm trọng. Nhưng một bộ phận sinh viên hiện nay đang đánh đồng tình yêu với tình dục. Nhiều người trong số họ quan hệ với bạn trai/bạn gái mà thậm chí còn không nắm rõ quá khứ của nhau. Tiền sử những bệnh lây truyền qua đường tình dục của đối phương lại càng mù tịt. Học thức cao nhưng không ít đôi thiếu nghiêm trọng những kiến thức sinh sản giới tính. Hậu quả là tình trạng nạo phá thai ở Việt Nam đứng hàng cao nhất thế giới và không ít “nam thanh nữ tú” phải lén lút, vội vàng đến những phòng khám hoa liễu chữa trị căn bệnh “khó nói”. Khám chữa không tới nơi tới chốn, nhiều bạn đã phải trả giá quá đắt cho những phút giây lầm lỡ khi không còn khả năng sinh con.
Nguy hiểm nhất là tình trạng “tình cho không biếu không”, những cô gái có tiểu sử tình dục không rõ ràng tự động đến sống chung với các nam sinh viên. Họ chỉ cần có chỗ ăn ở còn không cần yêu cầu gì khác. Đây thực chất là những cô gái bán hoa đã hết thời tìm cách mồi chài, chèo kéo những sinh viên vốn tò mò, thích của lạ. Đây là những đối tượng có nguy cơ bị nhiễm HIV rất cao. Mới đây, cái chết của một nam sinh trường TL vì bị nhiễm HIV từ những cô gái “cho không biếu không” này đã dấy lên dư luận lo ngại trong xã hội về thực trạng nhức nhối này. 
2.2. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng tệ nạn ma túy, cờ bạc trong học sinh, sinh viên
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau khiến cho HS-SV nói riêng, cũng như thanh niên nói chung mắc vào tệ nạn xã hội. Tuy nhiên chung ta co thể chia chung s thành hai nhom nguyên nhân chính sau:
2.2.1. Nguyên nhân khách quan.
* Nguyên nhân từ sự tác động của nền kinh tế thị trường
Qua mấy thập kỷ sống theo kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nay chuyển sang kinh tế thị trường. Sự đổi mới về cơ chế mang lại nhiều thành tựu về kinh tế nhưng cũng bộc lộ nhiều mặt trái của xã hội như: Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, sự chênh lệch quá lớn trong thu nhập, mức sống của các tầng lớp nhân dân, sự xuống cấp của đạo đức xã hội, sự hình thành lối sống thực dụng, trụy lạc, sự giáo dục của gia đình bị buông lỏng do cha mẹ bị cuốn hút vào các hoạt động của tệ nạn xã hội.
* Nguyên nhân từ gia đình
Tội phạm, tệ nạn xã hội chịu ảnh hưởng của việc giáo dục gia đình, nó ảnh hưởng đến lối sống của HS-SV.
Nếu mỗi cá nhân, mà cụ thể HS-SV được sinh ra, lớn lên, được sinh ra, lớn lên, được sự giáo dục tốt từ phía gia đình thì tỉ lệ phạm tội, mắc các tệ nạn xã hội ít hơn.
Một số gia đình sống một cách riêng rẽ, các em thiếu thốn tình cảm đã phó mặc các em cho xã hội, trong gia đình không coi mình là vợ hoặc chồng, gia đình trình độ văn hóa thấp; cũng như gia đình có nhiều thành viên vi phạm pháp luật, phạm tội ảnh hưởng tiêu cực đến tính định hướng và hoạt động sống của các cá nhân trong gia đình đó.
Cũng có một số gia đình có kinh tế khá giả đã buông lỏng quản lý con em: chiều chuộng, dung túng, bảo lãnh đã vô tình tạo điều kiện cho con em bỏ học, phạm tội ăn chơi sa đọa, mắc các tệ nạn xã hội.
Cá biệt có gia đình còn buông lỏng, nuông chiều thái quá, thậm chí để con em tự do hành động thiếu suy nghĩ. Nhiều gia đình cha mẹ ly hôn, thiếu gương mẫu về đạo đức, làm ăn bất chính đã ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống các em.
Gia đình với chức năng nuôi dưỡng, quản lý, giáo dục con em, là nơi có nhiều thời gian nhất, có nhiều thuận lợi nhất về mọi phương diện để giúp các em nhận rõ được tác hại ghê gớm của ma túy và từ đó có cách phòng chống tốt nhất.
Tuy nhiên, nhiều gia đình thiếu phương pháp giáo dục thích hợp với tâm lý lứa tuổi (quá luông chiều, thoả mãn, đáp ứng đầy đủ những yêu cầu vật chất không chính đáng), thiếu tri thức về phòng chống ma tuý, không giáo dục cho con em tránh xa tệ nạn này. Cấu trúc gia đình không hoàn hảo như bố mẹ chết, chỉ có bố hoặc chỉ có mẹ, bố mẹ ly dị, sống trong cảnh dì ghẻ, bố dượng… thiếu người chăm sóc, giáo dục dễ dàng bị bọn xấu rủ rê. Gia đình có người phạm tội (bố, mẹ phạm tội, anh, chị phạm tội…) gia đình không hoà thuận, thường xuyên cãi vã, thậm chí có hành vi đồng loã, khuyến khích các em thử, nghiện và buôn bán ma tuý.
* Nguyên nhân từ nhà trường và cộng đồng
Nhà trường là môi trường có tác dụng to lớn đến sự hình thành nhân cách của các em. Đây là một tổ chức có tính chất chiến lược nhất trong việc phòng ngừa các em vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nhiều nơi nhà trường cũng có những yếu kém, sai lầm góp phần làm gia tăng tệ nạn ma tuý trong HS-SV, ở nhiều trường các tổ chức đoàn, đội chưa thực sự là nơi để các thành viên trao đổi với nhau các quan điểm về cuộc sống, về hoài bão, về tâm tư, nguyện vọng để hoàn thiện bản thân. Tổ chức và kỷ luật của Đoàn, của Đội còn lỏng lẻo, không có chiều sâu về cả mặt nội dung và hình thức, nặng về thành tích mà lẩn tránh các vấn đề gai góc trong HS-SV hiện nay như hỗ trợ HS-SV nghèo vượt khó, HS-SV với các tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm, cờ bạc…) Điều này sẽ dẫn các em đến hoạt động tiêu cực, tụ tập chơi bời từ đó dễ bị tệ nạn ma tuý lôi kéo, quyến rũ.
Sự quan tâm chỉ đạo của nhà trường, các cấp các ngành chức năng chưa hết trách nhiệm, chưa tạo phong trào rộng khắp chưa quản lý chặt chẽ HS-SV, để họ nâng cao cảnh giác, tích cực phòng ngừa tham gia phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn xã hội.
Bên cạnh tính ưu việt của nền kinh tế thị trường thì mặt trái của nó tác động ảnh hưởng không nhỏ đến bộ phận SV ở nước ta đặc biệt là Hà Nội hàng năm có hàng triệu SV ra trường không xin được việc làm, để đảm bảo cuộc sống các em đã tự phải bươn trải và không ít trong số đó bị lôi kéo vào con đường phạm tội và tệ nạn xã hội.
Trong khi trình độ khoa học công nghệ phát triển nhanh, đặc biệt là tin học thì chưa có cơ chế quản lý phù hợp, vì vậy những văn hóa đồi trụy, phản động, kích động tình dục, kiếm hiệp bạo lực thông qua internet… được một bộ phận HS-SV không được định hướng.
Cơ quan chức năng buông lỏng quản lý các tụ điểm vui chơi, quán bar, karaoke, dịch vụ Internet. Phía gia đình thì thiếu sự quan tâm, chăm sóc, chưa kịp thời nắm bắt đặc điểm tâm lý của các em.
Giáo dục toàn diện có chiều sâu không chỉ ở các môn học, giờ học trong trường mà gồm cả cách ứng xử của thầy, trò. Nhân cách của học trò phát triển theo hướng tích cực hay không tích cực có sự đóng góp của cả gia đình, nhà trường và xã hội.
Sự xuất hiện hình ảnh SV vi phạm, thầy cô vi phạm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý học sinh, SV. Nhiều người cho rằng, những hoạt động phong trào của SV chỉ rầm rộ ở thời điểm nhất định, rồi lại lắng xuống.
Việc tham gia hoạt động xã hội của SV tình nguyện được duy trì chủ yếu vẫn do phái nữ hăng hái hơn. Sự thiếu đóng góp hoạt động phong trào lành mạnh như vậy chủ yếu diễn ra ở những SV ham chơi, học hành chểnh mảng.
Từ năm 2002, Bộ GD-ĐT ban hành quy định đánh giá học sinh, SV qua rèn luyện phẩm chất, đạo đức, đương nhiên có cả rèn luyện học tập. Trong đó quy định nếu kém về ý thức pháp luật, trách nhiệm công dân sẽ bị “đúp” một năm và sẽ bị buộc thôi học nếu trong hai năm liên tiếp vi phạm điều này.
* Nguyên nhân từ các cơ quan quản lý, tuyên truyền
Công tác quản lý, xuất nhập khẩu các chất ma tuý, các chất độc dược có tính gây nghiện còn nhiều sơ hở, thiếu sót.
Công tác tuyên truyền, giáo dục để người dân, gia đình, tổ chức, đoàn thể nâng cao nhận thức và chủ động phòng chống ma tuý chưa đủ mạnh, còn dàn trải, mạnh ai nấy làm, thiên về hậu quả, ít chú ý nhân rộng, phổ biến các kinh nghiệm, tấm gương tốt trong phòng ngừa và đấu tranh chống ma túy, cờ bạc.
2.2.2. Nguyên nhân chủ quan.
* Nguyên nhân từ trình độ nhận thức
Hầu hết HS-SV thuộc diện học kém, ý thức kỷ luật kém, coi thường việc học. Trong quá trình đi học nhiều HS-SV đã bị nhà trường kỷ luật dẫn tới chán học, bỏ học và dần dần tiêm nhiễm thói hư tật xấu, đua đòi ăn chơi. Sau khi thôi học hầu như các em không làm gì cả, chỉ có một số ít em đang học nghề và đi làm thêm công việc gì đó, nhưng cũng không ổn định. Những em không có nghề nghiệp, việc làm hay chơi bời, đàn đúm bạn bè để rồi cuối cùng sa vào con đường nghiện ngập, phạm tội như: trộm cắp, cướp giật, trấn lột…
Từ những nhận định trên chúng ta có thể thấy rằng ranh giới giữa sự nghèo nàn, sự hạn chế về nhận thức là nguy cơ dẫn đến tình trạng nghiện ma tuý.
* Nguyên nhân từ chính cá nhân
Một số HS-SV xuống cấp về lối sống đạo đức, sa sút về phẩm chất chính trị, không xác định được động cơ mục dích, lý tưởng phấn đấu, sống buông thả, sống gấp, sống thực dụng, sống không lao động và chạy theo cám dỗ đời thường.
Ví dụ: tình trạng sống thử trước hôn nhân của SV theo khảo sát tiến hành trên 300 SV nội thành Hà Nội, hơn 165 nam SV và 15 nữ SV từng có quan hệ tình dục.
Do nhận thức pháp luật còn hạn chế theo ý kiến của cán bộ cảnh sát điều tra và nhiều nhà nghiên cứu thì HS-SV không ý thức được mối nguy hiểm và hậu quả hành động vi phạm phạm tội của mình mà chỉ hành động theo bản năng cảm tính có một số HS-SV khi bị bắt mới biết mình phạm tội nghiêm trọng.
Một số HS-SV do thiếu ý thức rèn luyện không chủ động phòng tránh những nguy cơ tấn công của các tệ nạn xã hội.
* Nguyên nhân do tâm lý lứa tuổi
Về mặt tâm lý HS-SV là lứa tuổi hình thành và phát triển mạnh mẽ những phẩm chất, nhân cách bậc cao có ý nghĩa rất lớn đối với sự tự giáo dục và hoàn thiên bản thân theo hướng tích cực như khả năng tự đánh giá lòng tự trọng, tự tin, tự ý thức..
Tuy nhiên theo kết quả điều tra của viện nghiên cứu thanh niên về các nguyên nhân chủ yếu các thanh niên phạm tội và mắc tệ nạn xã hội thì nguyên nhân còn nông nổi đua đòi được số người được hỏi xếp vào thứ hạng cao nhất chiếm 75,6%.
Trong đó lứa tuổi từ 16 đến 18 có nguy cơ phạm tội, mắc tệ nạn xã hội cao nhất chiếm 61,1% trong tổng số người được hỏi, ngoài ra còn do sự nông nổi, ưa mạo hiểm, thích phiêu lưu…
2.3. Giải pháp phòng ngừa tệ nạn tệ nạn xã hội trong học sinh, sinh viên
Trong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóng mặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập vào. Vì thế mà xã hội ngày càng phát triển nhưng bên cạnh đó nó cũng làm thay đổi về tư tưởng về lối sống của nhiều người. Nhất là trong tầng lớp sinh viên-chủ nhân tương lai của đất nước, của thời đại.
Đứng trước tình hình trên, chúng ta cần phải có những giải pháp ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tội phạm, tệ nạn xã hội ở HS-SV nói chung, cũng như trong SV ở các trường cao đẳng, đại học nói riêng.
Cũng nhằm thực hiện nhiệm vụ ngăn ngừa và phòng chống tệ nạn nói chung và phòng chống tệ nạn trong giới học sinh, sinh viên noi riêng, vừa qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có kế hoạch số 124/KH-BGDĐT ngày 25/03/2010 nhằm thực hiện công tác bảo đảm an ninh trật tư, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội tronh các nhà trường năm học 2010 với nội dung như sau:
Thực hiện Kế hoạch số 14/KH-BCĐ138/CP ngày 24/02/2010 của Ban Chỉ đạo Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ về thực hiện Nghị quyết số 09/CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm năm 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kế hoạch thực hiện công tác bảo đảm an ninh, trật tự, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội trong các nhà trường năm 2010 với những nội dung cụ thể như sau:
I. MỤC TIÊU, YÊU CẦU
1. Mục tiêu
a. Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trong các nhà trường, đặc biệt là vào thời điểm nước ta tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và kỷ niệm các ngày lễ lớn khác trong năm 2010.
b. Kiềm chế, làm giảm dần việc vi phạm pháp luật, đẩy lùi cơ bản tệ nạn ma túy trong cán bộ, giáo viên và học sinh, sinh viên. Phòng, chống hiệu quả hành vi bạo lực trong các nhà trường và các hành động tự phát của học sinh, sinh viên làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
2. Yêu cầu
a. Phát huy sức mạnh của các tổ chức đoàn thể, huy động toàn thể lực lượng trong các nhà trường tích cực tham gia phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với địa phương và gia đình học sinh, sinh viên.
b. Chủ động phòng ngừa, phối hợp đấu tranh, trấn áp tội phạm trong học sinh, sinh viên và tội phạm bên ngoài xâm nhập vào trường học.
c. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức trách nhiệm của cán bộ, giáo viên và học sinh, sinh viên, tự giác, tích cực tham gia vào phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc.
II. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM
1. Tổ chức thực hiện hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của liên Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Công an về công tác bảo đảm an ninh, trật tự nhà trường:
a. Thông tư số 31/2009/TT-BGDĐT ngày 23/10/2009 ban hành Quy định về công tác phòng, chống ma túy trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân;
b. Thông tư liên tịch số 34/2009/TTLT/BGDĐT-BCA ngày 20/11/2009 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Công an hướng dẫn phối hợp thực hiện công tác đảm bảo an ninh, trật tự tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
2. Tiếp tục đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức cảnh giác với âm mưu của các thế lực thù địch hoạt động chống phá Nhà nước. Quản lý, giáo dục để học sinh, sinh viên không tham gia tụ tập đông người trái với quy định của pháp luật.
3. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, giáo viên và học sinh, sinh viên, đặc biệt chú trọng các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, trật tự an toàn giao thông, phòng chống tệ nạn ma túy, các quy định về thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên; Chú trọng đổi mới hình thức giáo dục, tuyên truyền, phù hợp với từng đối tượng cán bộ, nhà giáo và học sinh, sinh viên.
4. Tăng cường công tác quản lý học sinh, sinh viên. Các nhà trường cần có biện pháp kiểm tra, kiên quyết ngăn chặn tình trạng học sinh, sinh viên đến trường nhưng bỏ học, bỏ tiết đi chơi, tham gia đánh nhau và vi phạm tệ nạn xã hội. Phòng ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm các biểu hiện vi phạm đạo đức nhà giáo, các hành vi bạo lực trong trường học.
5. Chủ động phối hợp với địa phương, các tổ chức đoàn thể, gia đình học sinh, sinh viên, đặc biệt là lực lượng công an trong việc quản lý học sinh, sinh viên trong thời gian không học tập tại trường, ngăn chặn, đấu tranh trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội xâm nhập vào trường học.
6. Phối hợp chỉ đạo đổi mới hoạt động của các tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong trường học. Đẩy mạnh việc giáo dục kỹ năng sống, xây dựng nếp sống văn minh, ứng xử văn hóa trong trường học; tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao lành mạnh, bổ ích nhằm thu hút đông đảo học sinh, sinh viên tham gia để tránh xa tệ nạn xã hội.
7. Tăng cường tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục trong học sinh, sinh viên nhằm hưởng ứng các đợt cao điểm về tấn công, trấn áp tội phạm nhân dịp tổ chức các sự kiện chính trị và kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, đợt cao điểm về phòng chống ma túy nhân kỷ niệm ngày Thế giới phòng chống ma túy (26/6/2010) do Thủ tướng Chính phủ phát động.
8. Tổ chức tổng kết thực hiện Nghị quyết 09/CP, Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 1998 – 2010; tổng kết công tác phòng chống tệ nạn ma túy trong trường học giai đoạn 2006 – 2010:
a. Các sở giáo dục và đào tạo, các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp tổ chức tổng kết và gửi báo cáo về Bộ Giáo dục và Đào tạo trước ngày 30/9/2010.
b. Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện Nghị quyết 09/CP, Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 1998 – 2010 và tổng kết công tác phòng chống tệ nạn ma túy trong trường học giai đoạn 2006 – 2010 vào tháng 11/2010.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Căn cứ vào nội dung tại Kế hoạch này, yêu cầu Giám đốc các sở giáo dục và đào tạo, Hiệu trưởng (Giám đốc) các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện.
2. Thường trực Ban Chỉ đạo 138 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Vụ Công tác học sinh, sinh viên) phối hợp với Bộ Công an tổ chức các đoàn kiểm tra, đánh giá việc thực hiện công tác đảm bảo an ninh, trật tự trường học và triển khai thực hiện Kế hoạch này tại một số sở giáo dục và đào tạo, nhà trường (thời gian tiến hành từ tháng 4/2010 đến tháng 9/2010). Các cơ quan quản lý giáo dục ở địa phương cần tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn thực hiện, kịp thời phát hiện, khen thưởng những cách làm hay, hiệu quả và xử lý, chấn chỉnh các vi phạm.
3. Các sở giáo dục và đào tạo, các đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ theo học kỳ, năm học và báo cáo đột xuất khi có yêu cầu việc thực hiện Kế hoạch này tại cơ quan, trường học của mình.
Việc phòng ngừa tội phạm, tệ nạn xã hội là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính nhà nước và xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội. Trên cơ sở những nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội và tệ nạn xã hội, chúng ta đề ra một số biện pháp phòng ngừa.
Xác định công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội trong HS-SV là công tác mang tính xã hội sâu sắc và phải lấy việc phòng ngừa làm cơ bản.
* Từ các gia đình:
Thường xuyên quan tâm đến việc giáo dục cho HS-SV, bồi đắp tình cảm của các cá nhân trong gia đình, định hướng các giá trị cơ bản. Phối hợp với nhà trường thường xuyên theo dõi quá trình học tập và sinh hoạt của con cái để kịp thời có những điều chỉnh hợp lý trước những thiếu sót của con cái.
* Từ phía nhà trường
+ Tăng cường tuyên truyền giáo dục cho thanh niên về học tập để mở đường vào tương lai.
+ Khơi dậy trong HS-SV tinh thần và thái độ học tập thường xuyên.
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật và đạo đức lối sống cho HS-SV. Giúp HS-SV nhận thức được mức độ nguy hại của tội phạm và tệ nạn xã hội, đồng thời ý thức được vai trò của mình trong công tác phòng chống và bài trừ các tệ nạn xã hội.
– Tổ chức các hoạt động văn nghệ, mít tinh, tuyên truyền, buổi sinh hoạt trong nhà trường tổ chức các đọi tuyên truyền phòng chống tệ nạn xã hội.
Ví dụ: Đội tuyên truyền phòng chống ma túy.
– Vận động SV tham gia các hoạt động tình nguyện, để phát huy, huy động SV tham gia phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội tham gia phát triển kinh tế – xã hội.
– Nhà trường cần phải xây dựng lối sống văn hóa trong HS-SV xây dựng đạo đức, lối sống cách mạng theo Bác Hồ, vận động thanh niên nói chung, HS-SV nói riêng sống và làm việc theo pháp luật.
– Chăm lo đời sống văn hóa tinh thần rèn luyện thân thể cho HS-SV là điều kiện hình thành nhân cách.
Ví dụ: Tạo điều kiện cho HS-SV có thể tự lựa chọn những hình thức vui chơi giải trí lành mạnh và phù hợp với điều kiện sức khỏe của mỗi người. Đẩy mạnh tuyên truyền trong HS-SV phòng tránh không bị cám dỗ bởi các sản phẩm văn hóa đồi trụy, tạo môi trường văn hóa lành mạnh trong quá trình học tập và sinh sống.
* Từ xã hội:
– Tăng cường công tác thông tin, giáo dục truyền thông và bằng các phương tiện thông tin đại chúng và truyền thông trực tiếp như sách báo, ti vi, đài..
– Xây dựng và triển khai có hiệu quả những chương trình hành động phòng chống tệ nạn và xã hội trong HS-SV.
Cần phải phối hợp giữa các tổ chức Đoàn, hội Thanh niên với các cơ quan có chức năng quản lý, giáo dục HS-SV, cam kết đăng ký không vi phạm tệ nạn xã hội. Mặt khác cũng vận động HS-SV cam kết không vi phạm tệ nạn xã hội, có công tác giúp đỡ các HS-SV phạm tội, mắc tệ nạn xã hội tái hòa nhập cộng đồng.
– Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và phóng chống tệ nạn xã hội trong HS-SV. – Các nhà trường và các cơ sở giáo dục khác phải tổ chức thực hiện chương trình giáo dục về phòng, chống ma tuý trong nhà trường, bằng việc lồng ghép vào chương trình học để cho HS-SV, học viên hiểu rõ về tác hại và hiểm hoạ của ma tuý. – Tổ chức việc giáo dục pháp luật về phòng chống ma tuý để họ hiểu rõ chính sách pháp luật của Nhà nước về việc xử lí những hành vi vi phạm pháp luật về ma tuý và hậu quả pháp lí của những hành vi vi phạm đó. – Phối hợp với gia đình,cơ quan, tổ chức và chính quyền địa phương để quản lí giáo dục HS-SV, học viên về phòng , chống ma tuý.
– Tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển, lưu thông các chất ma túy trong phạm vi cả nước, tăng cường hợp tác quốc tế trong việc kiểm soát ma túy. – Thường xuyên phối hợp với cơ quan y tế, chính quyền địa phương tổ chức xét nghiệm để phát hiện học sinh, sinh viên, học viên nghiện ma tuý, từ đó có biện pháp quản lí giáo dục đối với những đối tượng bị nghiện ma tuý, đồng thời ngăn chặn tình trạng nghiện ma tuý trong môi trường giáo dục. Hàng đầu là giáo dục lối sống lành mạnh cho thanh niên.
Ngoài ra còn có nhiều biện pháp phòng ngừa song điều quan trọng cần phải có sự phối hợp giữa gia đình và xã hội để đẩy lùi tệ nạn xã hội, tội phạm ra khỏi HS-SV.
Nhưng muốn làm được điều này thì đội ngũ các thầy cô giao phải là những người đi đầu làm gương, phải là những tấm gương sang cho học sinh, sinh viên noi theo.
2.4. Những tồn tại và hạn chế trong việc phòng, chống tệ nạn xã hội trong học đường hiện nay.
Các phong trào phòng chống tội phạm trong trường học vẫn mang nặng tính hình thức và tính phong trào. Nó chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường, khi ra khỏi trường thì rất khó kiểm soát mọi hoạt động của HS-SV. Ban lãnh đạo nhiều trường chưa nhận thức hết nguy cơ và tác động của loại tội phạm này, còn coi đây là công việc của cơ quan công an, của gia đình, chứ chưa thực sự coi đây là trách nhiệm của mình.
Mặc dù các cấp các ngành đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, tập trung đấu tranh ngăn chặn, phòng chống các loại tội phạm có tổ chức hoạt động thành băng, nhóm, bọn tội phạm chuyên nghiệp, giết người cướp tài sản, cướp giật, hiếp dâm… tuy nhiên, tình hình tội phạm nói chung và trong HS-SV nói riêng, vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.
Nhiều năm qua, tệ nạn ma tuý ở nước ta diễn ra rất phức tạp và có chiều hướng gia tăng, nguy hiểm hơn, tệ nạn này đã phát triển nhanh chóng trong tầng lớp thanh niên, len lỏi vào học đường và gây ra những hiểm hoạ khôn lường cho đối tượng HS-SV.
Vậy bài toán đặt ra ở đây là phải nâng cao nhận thức của HS-SV thì mới có thể hạn chế và tiến tới loại bỏ hẳn tệ nạn xã hội ra khỏi HS-SV. Nhưng điều này là không tưởng, bởi vì trong hệ thống giáo dục của nước ta còn rất nhiều bất cập. Đây cũng là một bài toán khó cho các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách.
* Những kiến nghị và đề xuất của sinh viên
Thứ nhất là: Tăng cường hơn nữa trong công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến pháp luật bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sinh động, đến từng đối tượng, từng gia đình, làm cho HS-SV nhận thức và chủ động tránh xa các tệ nạn. Mỗi cán bộ, giáo viên phải luôn trở thành tấm gương sáng cho HS-SV noi theo.
Ví du: Nhà trường thường xuyên tổ chức các cuộc thi về tìm hiểu tác hại của các tệ nạn xã hội (ma túy), để giúp cho HS-SV thấy rõ được những tác hại của ma túy và từ đó chủ động phòng tránh chúng.
Thứ hai là: Tăng cường giáo dục và thực hiện nề nếp kỷ cương, nếp sống văn hoá trong nhà trường. Xử lý nghiêm khắc tội phạm sử dụng, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý.
Thứ ba là: Làm tốt công tác chỉ đạo, tổ chức cho HS-SV ký cam kết “Nói không với ma tuý”. Để tránh “Cam kết hình thức”, các trường nên quan tâm thành lập các tổ, đội, nhóm, CLB phòng chống tệ nạn xã hội, các tổ, đội nắm bắt thông tin, tình hình diễn biến tư tưởng của HS-SV, giám sát HS cá biệt.
Thứ tư là: Thắt chặt mối quan hệ nhà trường, gia đình và chính quyền đoàn thể địa phương để quản lý chặt chẽ các đối tượng nghiện hút, buôn bán ma tuý không để chúng lôi kéo, dụ dỗ HS-SV.
Thứ nắm là: Thường xuyên tổ chức tổng kết sơ kết, đánh giá, làm tốt công tác thi đua khen thưởng, động viên những tập thể và cá nhân có thành tích đấu tranh phòng chống ma tuý. Từ đó rút ra những bài học thực tiễn trong quá trình làm công tác đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội.
KẾT LUẬN
Cùng với sụ phát triển không ngừng của kinh tế cũng như mọi mặt đời sống xã hội thì kéo theo đó là sự gia tăng không ngừng của các tệ nạn xã hội trong giới HS_SV và nó đang ngày càng trở nên diễn biến phức tạp và tinh vi hơn. Tình trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là từ gia đình, nhà trường, xã hội (chiếm 70%) và do cá nhân (chiếm 30%).
Thực trạng trên đã đặt ra câu hỏi lớn cho xã hội, nhà trường và gia đình, cũng như cộng đồng làm sao cứu vãn được con người (học sinh, sinh viên) tầng lớp trí thức-những “Chủ nhân tương lai” thoát khỏi những hố sâu tiêu cực của mặt trái xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đức Châm (2006), Tập bài giảng phòng, chống tệ nạn xã hội.
2. Nguyễn Thành Công, Vấn đề phòng chống ma túy trong học đường.
3. Đăng Đình Chính, Nguyên nhân và giải pháp phòng chống ma túy.
4. Vũ Minh Hoài, Thực trạng và giải pháp của nhà trường về phòng chống ma túy trong HS-SV và CB, GV.
5. Quang tấn, Tệ nạn ma túy trong học sinh, sinh viên (P2) không thể xem nhẹ.
6. Nhịp Sống Sài Gòn, Nhức nhối tệ nạn học đường.
7. Báo Giáo Dục, Ngày càng đông HS-SV bỏ học bỏ nhà đi lang thang.
8. Reportshop. Nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội trong sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài – PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỆ NẠN XÃ HỘI TRONG HỌC SINH, SINH VIÊN HIỆN NAY.doc