Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII của Đảng

Thứ hai, 13 Tháng 2 2023 15:28

1102 Lượt xem

(LLCT) – Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới”(1). Cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội XIII, Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16-6-2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(2). Bài viết làm rõ vị trí, vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; thực trạng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời gian vừa qua, từ đó, đề xuất các biện pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII của Đảng.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được Đảng xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước – Ảnh: tapchicongsan.org.vn

1. Vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn, nông dân đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Trong tác phẩm Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Từ Airơlen đến Xixin, từ Anđaludia đến Nga và Bungari, ng­ười nông dân đều là một nhân tố rất cơ bản của dân cư­, của nền sản xuất và lực lư­ợng chính trị”(3). Điều đó có nghĩa là người nông dân gắn bó rất chặt chẽ với nền sản xuất nông nghiệp; nông nghiệp, nông thôn là địa bàn quan trọng của người nông dân, là không gian sinh tồn gắn bó lâu đời của người nông dân, không thể thiếu được đối với quá trình hình thành, phát triển của nền sản xuất nông nghiệp hiện đại. Kế thừa quan điểm, tư tưởng của Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã đưa ra luận điểm nổi tiếng sâu sắc “Phải bắt đầu từ nông dân. Người nào không hiểu điều đó, người nào có ý coi đưa vấn đề nông dân lên hàng đầu như thế là một sự “từ bỏ” hoặc tương tự như sự từ bỏ chuyên chính vô sản, thì chẳng qua chỉ là vì người đó không chịu suy nghĩ kỹ càng vấn đề đó và bị lời nói trống rỗng chi phối”(4). Luận điểm của V.I.Lênin cho ta thấy một số vấn đề sau: 1) Để  phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, xã hội phải bắt đầu từ khôi phục nền nông nghiệp, cải thiện đời sống của người nông dân ở nông thôn; 2) Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn; 3) Có cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp, hiệu quả, động viên, khuyến khích người nông dân vào hợp tác xã.

Trung thành và vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng các nhà kinh điển Mác – Lênin vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nông dân ta giàu thì nước ta mạnh. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”(5), đó là quan điểm rất toàn diện, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nông dân, nông nghiệp đối với sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.

Trong suốt tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, nông nghiệp, nông thôn đã có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Là quốc gia nông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn nước ta phát triển là nơi sản xuất ra nhiềusản phẩm thiết yếu cho đời sống, với nhiều ngành sản xuất. Việt Nam là một nước nông nghiệp có đến 70% dân số đang sinh sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.

Năm 2021, ngành nông nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.Cụ thể, về sản xuất lúa, diện tích lúa cả năm ước đạt 7,24 triệu ha, giảm 38,3 nghìn ha so với năm trước do chuyển đổi cơ cấu sản xuất và mục đích sử dụng đất; năng suất lúa ước đạt 60,6 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 43,88 triệu tấn, tăng 1,1 triệu tấn. Về cây lâu năm, trong năm 2021, diện tích trồng cây lâu năm ước tính đạt 3.688,6 nghìn ha, tăng 2% so với năm 2020; về lâm nghiệp, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước tính đạt 277,8 nghìn ha, tăng 2,8% so với năm trước; về thủy sản, trong năm 2021 sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 3.920,8 nghìn tấn, tăng 0,9% so với năm trước…

Trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, nông thôn là nguồn cung cấp lao động cho các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là công nghiệp và dịch vụ. Với hơn 70% lao động sinh sống ở nông thôn, hằng năm nguồn lao động ở nông thôn bổ sung cho thị trường lao động ở thành thị, các thành phố rất lớn. Đặc biệt hiện nay, với sự phân bố của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên cả nước, các cơ sở công nghiệp tại các địa phương hằng năm thu hút lực lượng lớn lao động tại địa bàn nông thôn, “ly nông bất ly hương”. Lao động nông thôn được nâng cao trình độ, được trang bị kiến thức, kỹ năng góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý trong phân công lao động xã hội. 

Nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn của nền kinh tế quốc dân. Với dân số nông thôn lớn, nhu cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống nhu yếu phẩm hằng ngày rất lớn.

Nông thôn là nơi lưu giữ giá trị bản sắc văn hóa dân tộc của 54 dân tộc giàu bản sắc văn hóa, tạo nên dấu ấn, đặc trưng của từng dân tộc. Ở hầu khắp các địa phương, văn hóa lễ hội đều gắn liền với nông nghiệp, đời sống nông thôn. Vì vậy, nông nghiệp, nông thôn không chỉ là nơi lưu giữ giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc mà còn là nơi lan tỏa, kết nối tinh thần đoàn kết, nâng tầm các giá trị văn hóa lên tầm cao mới, là nguồn động lực trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

 

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến mạnh mẽ, tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nông nghiệp có bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm hơn gần hai năm so với kế hoạch đề ra, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân”.

Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16-6-2022 Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: bảo vệ các giá trị của nền văn minh lúa nước, bản sắc văn hóa dân tộc cao đẹp.

Từ vị trí, vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông thôn đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế hàng hóa lớn, hiện đại, nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không chỉ có ý nghĩa đối với việc chuyển biến về chất các mặt đời sống xã hội của cư dân nông thôn mà còn có ý nghĩa chung đối với sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.

Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bao gồm hai vấn đề. Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Đây là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường lao động, ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào các khâu của sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trên thị trường. Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn,chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trong giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp sản xuất thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội gắn với quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở nông thôn.

2. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Trong những năm qua, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được Đảng xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X ngày 05-8-2008 chỉ rõ: Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến mạnh mẽ, tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nông nghiệp có bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm hơn gần hai năm so với kế hoạch đề ra, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân”(6).

Năm 2021: ngành nông nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm. Các thành tựu khoa học – công nghệ được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất nông nghiệp như: sản xuất rau, trồng hoa, quả trong nhà lưới, nhà kính, tưới tự động, chăn nuôi theo công nghệ chuồng kín với hệ thống làm mát, điều khiển chuồng nuôi, máng ăn và nước uống tự động, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung ứng dụng công nghệ cao; tăng tỷ trọng chăn nuôi và thủy sản theo hướng chuyển từ coi trọng tăng số lượng sang tập trung vào nâng cao chất lượng, giá trị…

Cùng với kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp, nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, nông thôn thay đổi diện mạo, nâng tầm vị thế Việt Nam trong cộng đồng thế giới.

Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đánh giá “Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn dân, về đích sớm hơn so với mục tiêu Nghị quyết đề ra; góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng kinh tế công nghiệp và dịch vụ; thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu tăng”(7).

Báo cáo của Chính phủ về kết quả thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 và một số điểm mới cho việc thực hiện Chương trình giai đoạn 2021 – 2025 đến tháng 7-2021, cả nước đã có 64,6% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 194 đơn vị cấp huyện (chiếm 29%) thuộc 51 tỉnh, thành phố đạt chuẩn nông thôn mới; có 12 tỉnh, thành phố đã có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 04 tỉnh đã được công nhận tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2020 đạt 41,7 triệu đồng/người/năm, gấp 1,7 lần so với năm 2015 và gấp 3,25 lần so với năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều khu vực nông thôn năm 2020 còn khoảng 7,1%, giảm 4,7% so với năm 2016…

Bên cạnh kết quả đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn một số hạn chế, bất cập: ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chậm, chưa thích ứng được với đòi hỏi của thị trường, sản phẩm làm ra chất lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh ở thị trường trong và ngoài nước thấp; chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn còn thấp, lao động còn manh mún, tự do, tùy tiện, chưa có tính kỷ luật trong lao động; kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, thống nhất. Đặc biệt, ở vùng sâu, vùng xa có nhiều tiềm năng, lợi thế, hệ thống giao thông còn nhiều khó khăn; môi trường nông nghiệp, nông thôn ngày càng bị ô nhiễm…

Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đánh giá: nông nghiệp phát triển còn thiếu bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết… Xây dựng nông thôn mới chưa đồng đều, nhiều nơi chưa chú trọng đúng mức đến phát triển sản xuất, tạo sinh kế, xây dựng đời sống văn hóa; ô nhiễm môi trường nông thôn gia tăng.

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, thời cơ, vận hội đan xen với nguy cơ, thách thức, ảnh hưởng của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, xung đột tranh chấp chủ quyền giữa các nước tác động mạnh đến thị trường thế giới, tới sức mua, giá các mặt hàng của sản xuất nông nghiệp lên cao; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển đặt ra cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn phải đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả… Tình hình trong nước có nhiều thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn bởi những ảnh hưởng đa chiều từ nhiều nhân tố. Thực hiện mục tiêu nhiệm vụ phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”(8). Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp phấn đấu đạt bình quân khoảng 3%/năm; tăng năng suất lao động nông nghiệp bình quân từ 5,5 – 6%/năm. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ nông thôn phấn đấu đạt bình quân trên 10%/năm.

3. Một số giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Một là, thống nhất nhận thức trong cán bộ, đảng viên, nhân dân về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong phát triển kinh tế – xã hội, ổn định chính trị

Nhận thức đúng sẽ có hành động đúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”(9).

Các cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương quán triệt sâu sắc nghị quyết, chỉ thị của Đảng về vị trí, vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trọng tâm là Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 16-6-2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 17-11-2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới…

Trên cơ sở đó, các cơ quan, ban ngành các địa phương đẩy mạnh thông tin tuyên truyền đến người dân quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nướcvề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tạo sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức, hành động; thay đổi tư duy, nếp sống, thói quen của người dân về sản xuất nông nghiệp, nông thôn truyền thống sang làm kinh tế nông nghiệp, gắn sản xuất với thị trường, gắn với nhu cầu của thị trường.

Cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, chính sách vào từng lĩnh vực, hoạt động, khơi dậy tính sáng tạo của người dân trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tích cực hưởng ứng tham gia vào các chương trình, cuộc vận động xây dựng nông thôn mới.

Nghị quyết số 19-NQ/TW chỉ rõ: Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, góp phần nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ, học vấn cho nông dân và cư dân nông thôn để đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ nông sản, làm giàu từ nông nghiệp, nông thôn.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao khoa học – công nghệ nhằm nâng cao năng suất và chất lượng hàng nông sản

Nghị quyết số 19-NQ/TW nhấn mạnh: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cáccơ quan, đơn vị, địa phương căn cứ vào đặc điểm tình hình, điều kiện mỗi khu vực, địa bàn, xác định phương án phát triển phù hợp, hiệu quả. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân vay vốn, đầu tư mua sắm trang thiết bị kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các cơ quan, ban ngành có liên quan phải thường xuyên đồng hành cùng người dân trong quá trình sản xuất, kinh doanh, đặc biệt trong khâu tiêu thụ sản phẩm ra thị trường; gắn kết chặt chẽ giữa nhà nông – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học, ổn định, bền vững ở tất cả các khâu sản xuất, kinh doanh và chế biến các sản phẩm nông nghiệp. Phân công, giao nhiệm vụ cho bộ phận, lực lượng chuyên trách theo dõi, giúp đỡ người nông dân kinh doanh, sản xuất hàng nông sản xuất khẩu ra thị trường thế giới. Ứng dụng công nghệ cao vào từng lĩnh vực, hoạt động cụ thể, thực hiện chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp.

Thực tế những năm qua, hàng nông sản của nông dân được mùa nhưng lại khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, vì vậy, trong quá trình thu hoạch sản phẩm rất cần sự vào cuộc của cơ quan, ban, ngành có liên quan, nhất là sở nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh trong liên doanh, liên kết với doanh nghiệp, với thị trường thế giới, bảo đảm sự lưu thông sản phẩm hàng hóa của người nông dân được thuận lợi.

Cùng với đó, cán bộ phòng nông nghiệp ở các huyện tăng cường hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ người dân về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng thủy hải sản, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm làm ra, tạo sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Phối hợp chặt chẽ với người dân làm kinh tế trang trại, phát triển những mô hình sản xuất, kinh doanh, khảo sát, đánh giá thị trường, xây dựng phương án giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề phát sinh. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về mặt thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp, tuyệt đối không gây khó khăn, cản trở người dân và doanh nghiệp. Doanh nghiệp và người dân phát huy đạo đức kinh doanh theo đúng quy định pháp luật, không ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân ở nông thôn.

Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn gắn với phát triển đô thị hóa

Nghị quyết số 19-NQ/TW nhấn mạnh: Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững gắn với đô thị hóa, bảo đảm thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, vì lợi ích của người dân. Theo đó, cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu theo hướng xây dựng nông thôn kiểu mẫu, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội gắn với khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống, giải quyết việc làm cho lao động, nhất là thanh niên ngay tại địa phương.

Từng bước nâng cao trình độ tay nghề kỹ thuật của lao động nông thôn trong sản xuất những mặt hàng thủ công, đáp ứng với đòi hỏi ngày càng cao của thị trường hiện nay.

Gắn phát triển kinh tế – xã hội nông thôn với bảo vệ môi trường sinh thái, các khu du lịch, nghỉ dưỡng thu hút khách tham quan. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông theo hướng văn minh, hiện đại, bảo đảm an toàn, thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn luôn bảo đảm sinh kế của người nông dân, giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân.

Đẩy mạnh liên doanh, liên kết giữa các vùng nông thôn về các lĩnh vực, hoạt động sản xuất, kinh doanh để tăng cường sự tin cậy, hiểu biết nhau, hỗ trợ, giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Phát huy vai trò của Hội Nông dân Việt Nam trong xây dựng nông thôn mới, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là một nước nông nghiệp…, muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy nông nghiệp làm gốc. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra”(10). Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng ta nhấn mạnh: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố có quan hệ mật thiết, gắn bó, không thể tách rời; có vai trò, vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”(11).

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là bước đi quan trọng, đúng đắn, phù hợp với tình hình hiện nay để từng bước hiện thực hóamục tiêu, nhiệm vụ đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta đạt được cả “ba cao” về năng suất, chất lượng, giá trị theo chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại.

_________________

Ngày nhận: 02-02-2023; Ngày bình duyệt: 8-02-2023; Ngày duyệt đăng: 10-02-2023.

 

(1), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II,Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.107, 61- 62.

(2), (7), (11) Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16-6-2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

(3) C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.715.

(4) V.I. Lênin: Toàn tập, t.43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.263.

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.246.

(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.124.

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr.283.

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Sđd, tr.635. 

TS BÙI XUÂN DŨNG

Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh