Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030
Sau hơn 35 năm đổi mới, CNH, HĐH đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Trên cơ sở những kết quả đạt được, ngày 17/11/2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tiếp tục ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bài viết đánh giá sơ bộ kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế trong thực hiện CNH, HĐH đất nước, đồng thời đưa ra một số giải pháp trên cơ sở bám sát các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm tại Nghị quyết số 29-NQ/TW.
Đóng góp của CNH, HĐH vào phát triển đất nước
CNH, HĐH là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Ðảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau hơn 35 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm (2011-2020), CNH, HĐH đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực với tỷ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt 72,7% vào năm 2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Công nghiệp được cơ cấu lại theo hướng giảm tỷ trọng ngành khai khoáng, tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; đã hình thành được một số ngành công nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh và vị trí vững chắc trên thị trường quốc tế. Đặc biệt, trong giai đoạn 2011-2020, với việc đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và của thế giới, thuộc nhóm ASEAN-4 và nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao.
Theo Bộ Công Thương, quy mô sản xuất công nghiệp của Việt Nam ngày càng mở rộng với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng cao (bình quân 7,7%/năm), tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân tăng khá cao (7,4%/năm). Đáng chú ý, đến nay, công nghiệp vẫn là ngành thu hút đầu tư FDI lớn nhất với tốc độ tăng trưởng cao (tăng gần 2 lần cả về quy mô và tỷ trọng trong 10 năm qua), đặc biệt là trong công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm hơn 60% vốn đầu tư vào các ngành và khoảng 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) với một số dự án đầu tư lớn của các tập đoàn công nghệ toàn cầu, từ đó tạo động lực tăng trưởng mới cho Ngành và góp phần hình thành nên các trung tâm công nghiệp mới của Đất nước.
Ngành Nông nghiệp tăng trưởng ổn định và bền vững, từng bước được cơ cấu lại theo hướng hiện đại. Nông nghiệp đã phát huy vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. Sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến góp phần đẩy nhanh tăng trưởng ngành Công nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Năm 2022, ngành Nông nghiệp phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP đạt từ 2,8-3%, cao hơn so với Chính phủ giao 2,5-2,8%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2022 khoảng 55 tỷ USD, cao hơn Chính phủ giao 5 tỷ USD… Bên cạnh đó, đóng góp của ngành Dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng; đã hình thành được một số ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học và công nghệ (KH&CN) cao…
Một số tồn tại, hạn chế
Tuy nhiên, Nghị quyết số 29-NQ/TW nêu rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình CNH, HĐH gặp không ít tồn tại, hạn chế. Theo đó, mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 không hoàn thành; tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có xu hướng giảm dần theo chu kỳ 10 năm; có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Nội lực của nền kinh tế còn yếu, năng suất lao động thấp, chậm được cải thiện; năng lực độc lập, tự chủ thấp, phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy CNH, HĐH…
Bên cạnh đó, công nghiệp phát triển thiếu bền vững, giá trị gia tăng thấp, chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp thông minh phát triển chậm. Tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ của các DN Việt Nam là dưới 0,5% doanh thu (trong khi Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc 10%); Tỷ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo/GDP chỉ đạt xấp xỉ 16% (mặc dù cao hơn mức trung bình thế giới nhưng thấp thua Trung Quốc (khoảng 27,1%); Hàn Quốc (khoảng 25,3%); Thái Lan (25,3%); Nhật Bản (20,7%)… Các ngành dịch vụ quan trọng chiếm tỷ trọng nhỏ, liên kết với các ngành sản xuất yếu. Ðô thị hóa chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với CNH, HĐH. Phát triển văn hóa, xã hội, con người, môi trường còn nhiều hạn chế, bất cập…
Giải pháp đề xuất
Để tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 29-NQ/TW đã đề ra một số chỉ tiêu cụ thể. Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm; Ðóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 50%; Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN về năng lực cạnh tranh công nghiệp; tỷ trọng công nghiệp đạt trên 40% GDP; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP; trọng của khu vực dịch vụ đạt trên 50% GDP, trong đó du lịch đạt 14 – 15% GDP… Về tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á.
Để đạt được mục tiêu đề ra, triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết số 29-NQ/TW, trong đó cần tập trung một số giải pháp trọng tâm sau:
Một là, đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước giai đoạn 2021-2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ KH&CN, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy tốt thị trường trong nước. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, DN và người dân; cụ thể hóa các quan điểm, gắn kết các mục tiêu, nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước với xây dựng và thực hiện luật pháp, chính sách, hệ thống quy hoạch quốc gia và các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan…
Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy CNH, HĐH đất nước.
Đẩy nhanh thể chế hóa các nghị quyết, kết luận của Ðảng có liên quan đến CNH, HĐH. Ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành về phát triển công nghiệp quốc gia và các lĩnh vực công nghiệp đặc thù như công nghiệp công nghệ số, công nghiệp quốc phòng, an ninh, năng lượng…; tạo lập khung pháp luật cho phát triển sản xuất thông minh, mô hình nhà máy thông minh, xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn quốc gia về sản xuất thông minh; đẩy nhanh hoàn thiện các tiêu chuẩn, định mức kinh tế-kỹ thuật của các ngành, lĩnh vực sát với thực tiễn, tiệm cận với chuẩn mực quốc tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách cho phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo phù hợp với thực tế Việt Nam và thông lệ.
Rà soát, hoàn thiện chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn theo hướng không ưu đãi theo diện rộng, dàn trải đến các phân ngành công nghiệp, tập trung vào các lĩnh vực được xác định theo tiêu chí phù hợp cho từng giai đoạn…
Ba là, đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng KH&CN, đổi mới sáng tạo.
Hình thành các khu, cụm công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp tại một số vùng sản xuất nông nghiệp tập trung. Khuyến khích phát triển công nghiệp cơ khí, hóa chất và công nghệ sinh học phục vụ sản xuất nông nghiệp và chế biến nông, lâm, thủy sản. Tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thúc đẩy cơ giới hóa đồng bộ, hiện đại hóa trong toàn bộ chuỗi cung ứng. Thúc đẩy dịch vụ hóa các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; tiếp tục cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển dịch vụ công nghệ cao, các loại dịch vụ mới của nền kinh tế số…
Bốn là, phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.
Ðẩy nhanh thể chế hóa và cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Ðảng về phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo. Ưu tiên đầu tư cho KH&CN, đổi mới sáng tạo đi trước một bước; có lộ trình tăng tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước tính trên GDP cho nghiên cứu và phát triển. Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ gắn với các chuỗi giá trị nội địa, khu vực và toàn cầu các cụm liên kết ngành với vai trò dẫn dắt của các DN lớn, tập trung vào các ngành có giá trị xuất khẩu và doanh thu lớn như dệt may, da giày, điện tử, thiết bị, máy móc, chế biến gỗ, chế biến nông sản, khai thác khoáng sản, dược phẩm…
Năm là, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hóa nhanh và bền vững, gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho CNH, HĐH đất nước.
Theo đó, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình hạ tầng trọng điểm quốc gia và vùng về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu, năng lượng, hạ tầng số, các công trình hạ tầng xã hội về y tế, giáo dục của vùng. Xây dựng đề án tổng thể thống nhất về cơ chế giao quản lý, khai thác các tài sản kết cấu hạ tầng giao thông hàng hải, hàng không, đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa theo hướng tăng cường xã hội hóa, tách biệt rõ vai trò quản lý nhà nước với vai trò quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng giao thông vận tải; nghiên cứu áp dụng thí điểm mô hình đầu tư công – quản trị tư, đầu tư tư – sử dụng công; đa dạng hóa nguồn lực, huy động tối đa nguồn lực từ quỹ đất trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển hạ tầng thông tin, hạ tầng số, quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông cho giai đoạn tới, ưu tiên đầu tư phát triển nhanh, đi trước một bước…
Sáu là, đổi mới chính sách tài chính, tín dụng thúc đẩy CNH, HĐH đất nước nhanh, bền vững.
Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực tài chính theo nguyên tắc thị trường; tiếp tục đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng nguồn lực; thúc đẩy xã hội hóa, thu hút mạnh mẽ nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước cho CNH, HĐH theo hướng lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân; ưu tiên nguồn lực tài chính nhà nước đầu tư cho phát triển hạ tầng liên kết vùng, hạ tầng năng lượng, chuyển đổi số, KH&CN, đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp về đầu tư, tài chính, ngân sách đối với một số địa phương; rà soát, xác định tỷ lệ nguồn thu giữ lại hợp lý đối với các đô thị đặc biệt và các đô thị lớn để bảo đảm phát huy vai trò của các cực tăng trưởng kinh tế trong thực hiện CNH, HĐH. Thực hiện các chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng đủ mạnh để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; phát triển mạnh tài chính xanh, tín dụng xanh.
Tài liệu tham khảo:
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (2022), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
- Quang Lộc (2022), Nghị quyết số 29-NQ/TW: Đến năm 2030 Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, Báo Công Thương;
- Trần Thị Mây, Nguyễn Thị Thơm, Vũ Thị Phượng (2022), Thực trạng và giải pháp tái cơ cấu ngành Công nghiệp đến năm 2030. Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 – tháng 5/2022.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 12/2022