Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong môn Toán học

Từ VLOS

Trước
hết,
ta
hãy
so
sánh
hai
cách
dạy
học
thông
qua

dụ
sau:


Định

về
tổng
các
góc
trong
của
một
tứ
giác

[1]

Cách
1:
Giáo
viên
nêu
nhiệm
vụ
chứng
minh
định
lí:
“Tổng
các
góc
trong
của
một
tứ
giác
bằng
360°
hay
4v”

[2].
Sau
đó
giáo
viên
trình
bày
chứng
minh.

Cách
2:
Cách
này
thể
hiện
qua
đoạn
hội
thoại
dựa
vào
các
câu
hỏi
sau
đây
của
giáo
viên:

  • H1:
    Một
    tam
    giác
    bất
    kì,
    tổng
    các
    góc
    trong
    bằng
    2v.
    Bây
    giờ
    cho
    một
    tứ
    giác
    bất
    kì,
    chẳng
    hạn
    ABCD,
    liệu
    ta

    thể
    nói

    về
    tổng
    các
    góc
    trong
    của
    nó?
    Liệu
    tổng
    các
    góc
    trong
    của


    phải

    một
    hằng
    số
    tương
    tự
    như
    trường
    hợp
    tam
    giác
    hay
    không?
  • H2:
    Ta
    đã
    biết
    chứng
    minh
    định

    về
    tổng
    các
    góc
    trong
    của
    một
    tam
    giác.
    Liệu

    thể
    đưa
    được
    trường
    hợp
    tứ
    giác
    về
    trường
    hợp
    tam
    giác
    hay
    không?
    Làm
    thế
    nào
    để
    xuất
    hiện
    những
    tam
    giác?[3]
  • H3:
    Bây
    giờ
    hãy
    tính
    tổng
    các
    góc
    trong
    của
    tứ
    giác
    ABCD.
  • H4:
    Hãy
    phát
    biểu
    kết
    quả
    vừa
    tìm
    được.

Trong
cách
thứ
nhất,
thầy

chính,
trò

thụ
động,
thầy
nói,
trò
nghe

chỉ
làm
theo
lệnh
của
thầy.

Trong
cách
thứ
hai,
thầy
đã
tổ
chức
cho
trò
học
tập
trong
hoạt
động

bằng
hoạt
động
do
thầy
tạo
ra
một
tình
huống
hấp
dẫn
gợi
sự
tìm
hiểu
của
học
sinh,
gợi
ra
vướng
mắc

họ
chưa
giải
đáp
ngay
được,
nhưng

liên
hệ
với
tri
thức
đã
biết,
khiến
họ
thấy

triển
vọng
tự
giải
đáp
được
nếu
tích
cực
suy
nghĩ.
Đó

cách

dạy
học
phát
hiện

giải
quyết
vấn
đề
.

1.
Những
khái
niệm

bản

[

sửa

]

1.1.
Vấn
đề

[

sửa

]


  • Hệ
    thống

    được
    hiểu

    một
    tập
    hợp
    những
    phần
    tử
    cùng
    với
    những
    quan
    hệ
    giữa
    những
    phần
    tử
    của
    tập
    hợp
    đó.
  • Một

    tình
    huống
    [4]
    được
    hiểu

    một
    hệ
    thống
    phức
    tạp
    gồm
    chủ
    thể

    khách
    thể,
    trong
    đó
    chủ
    thể

    thể

    người,
    còn
    khách
    thể
    lại

    một
    hệ
    thống
    nào
    đó.
  • Nếu
    trong
    một
    tình
    huống,
    chủ
    thể
    còn
    chưa
    biết
    ít
    nhất
    một
    phần
    tử
    của
    khách
    thể
    thì
    tình
    huống
    này
    được
    gọi

    một

    tình
    huống
    bài
    toán

    đối
    với
    chủ
    thể
  • Trong
    một
    tình
    huống
    bài
    toán,
    nếu
    được
    chủ
    thể
    đặt
    ra
    mục
    tiêu
    tìm
    phần
    tử
    chưa
    biết
    nào
    đó
    dựa
    vào
    một
    số
    những
    phần
    tử
    cho
    trước

    trong
    khách
    thể
    thì
    ta

    một

    bài
    toán
    .
  • Một
    bài
    toán
    được
    gọi


    vấn
    đề

    nếu
    chủ
    thể
    chưa
    biết
    một

    thuật
    giải

    nào

    thể
    áp
    dụng
    để
    tìm
    ra
    phần
    tử
    chưa
    biết
    của
    bài
    toán.[5]

1.2.
Tình
huống

vấn
đề

tình
huống
gợi
vấn
đề

[

sửa

]


Tình
huống

vấn
đề


tình
huống
trong
đó
tồn
tại
một
vấn
đề.


Tình
huống
gợi
vấn
đề


tình
huống
thỏa
mãn
ba
điều
kiện
sau:


a)
Tồn
tại
một
vấn
đề


b)
Gợi
nhu
cầu
nhận
thức

Nếu
tình
huống

vấn
đề,
nhưng

một

do
nào
đó

học
sinh
không

hứng
thú
tìm
hiểu,
suy
nghĩ
để
tìm
cách
giải
quyết
(chẳng
hạn

họ
cảm
thấy
chẳng

ích

cho
mình,
hay

quá
mệt
mỏi,…)
thì
đó
cũng
không
phải

tình
huống
gợi
vấn
đề.
Điều
quan
trọng

tình
huống
phải
gợi
nhu
cầu
nhận
thức,
chẳng
hạn
làm
bộ
lộ
sự
khuyến
khuyết
về
kiến
thức


năng
của
học
sinh
để
họ
thấy
cần
thiết
phải
bổ
sung,
điều
chỉnh,
hoàn
thiện
tri
thức,

năng
bằng
cách
tham
gia
giải
quyết
vấn
đề
nảy
sinh.


c)
Gây
niềm
tin

khả
năng
bản
thân

Nếu
tình
huống

vấn
đề
rất
hấp
dẫn,
lôi
cuốn
học
sinh

nhu
cầu
giải
quyết,
nhưng
nếu
họ
cảm
thấy
vấn
đề
vượt
quá
so
với
khả
năng
của
mình
thì
họ
cũng
không
còn
hứng
thú,
không
sẵn
sàng
giải
quyết
vấn
đề.
Tình
huống
gợi
vấn
đề
phải
bộ
lộ
mối
quan
hệ
(có
thể
khá
mờ
nhạt)
giữa
vấn
đề
cần
giải
quyết

vốn
kiến
thức
sẵn

của
chủ
thể,

tạo
ra

họ
niềm
tin
rằng
nếu
tích
cực
suy
nghĩ
thì
sẽ
thấy

hơn
mối
quan
hệ
này


nhiều
khả
năng
tìm
ra
cách
giải
quyết.

Tóm
lại,
tình
huống
gợi
vấn
đề

tình
huống
gợi
ra
cho
học
sinh
những
khó
khăn
về

luận
hay
thực
tiễn

họ
thấy
cần
thiết


khả
năng
vượt
qua,
nhưng
không
phải
ngay
tức
thì
nhờ
vào
một
quy
tắc

tính
thuật
toán

phải
trải
qua
một
quá
trình
tích
cực
suy
nghĩ,
hoạt
động
để
đồng
hóa

hay
điều
chỉnh
hệ
thống
kiến
thức
sẵn

nhằm
thích
nghi
với
điều
kiện
hành
động
mới.

Các
điều
kiện
b

c

trên
cho
phép
phân
biệt
tình
huống
gợi
vấn
đề
với
tình
huống

vấn
đề.
Một
tình
huống

vấn
đề
chỉ
cần
thỏa
mãn
điều
kiện
a.

Việc
tạo
ra
một
tình
huống
gợi
vấn
đề
không
phải

dễ
dàng.
Quả
thực,
làm
thế
nào
để
vấn
đề
đặt
ra
đảm
bảo
đủ
hai
điều
kiện:
gợi
nhu
cầu
nhận
thức

gây
niềm
tin

khả
năng?
Đó

một
câu
hỏi
lớn
rất
cần
thiết
được
nghiên
cứu
trả
lời.
Chính

vậy,
trong
thực
tế
dạy
học

trường
phổ
thông,
giáo
viên
thường
chỉ
mới
dừng
lại

mức
độ
tạo
ra
được
tình
huống

vấn
đề,
chứ
chưa
phải

tình
huống
gợi
vấn
đề.
Tuy
nhiên,
ngay
cả
khi
chỉ
tạo
được
tình
huống

vấn
đề,
thì
việc
áp
dụng
đúng
như
các
bước
đã
nêu
của
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề
cũng
mang
lại
hiệu
quả
cao
hơn
nhiều
so
với
phương
pháp
dạy
học
truyền
thống.

1.2.1.

dụ
về
tình
huống

vấn
đề

[

sửa

]

Trong
giờ
học
về
phương
trình
lượng
giác

bản,
giáo
viên
thực
hiện
pha
hỏi
bài

bằng
cách
yêu
cầu
học
sinh
giải
bài
toán:
“Cho
x
các
giá
trị
lần
lượt

{\frac  {\pi }{6}},{\frac  {\pi }{4}},-{\frac  {\pi }{5}}
.
Tính
\sin x
“.
Một
trong
các
mục
đích
chủ
yếu

đi
thẳng
tới
khẳng
định
rằng
nếu
cho
trước
một
giá
trị
bất

của
x,
thì
luôn
tìm
được
giá
trị
(có
thể
gần
đúng)
của
\sin x
nhờ
vào
bảng
giá
trị
lượng
giác
của
các
góc
đặc
biệt,
máy
tính
bỏ
túi,
hay
đường
tròn
lượng
giác.

Từ
đó,
giáo
viên
đặt
ra
vấn
đề
cần
giải
quyết:


Ngược
lại,
nếu
cho
trước
một
giá
trị
bất

của
\sin x
,
chẳng
hạng
\sin x=a
với
a

hằng
số,
thì
liệu

tồn
tại
hay
không
giá
trị
x
thỏa
mãn
\sin x=a
?
Nếu

thì

bao
nhiêu
giá
trị
x?
Xác
định
chúng
như
thế
nào?
Nói
cách
khác,
giải
phương
trình
\sin x=a
ra
sao?

Tình
huống
trên

một
tình
huống

vấn
đề,

tồn
tại
trong
đó
một
vấn
đề

cho
đến
thời
điểm
đó
học
sinh
chưa

một
phương
pháp
tổng
quát
nào
để
giải
phương
trình
\sin x=a
.
Tuy
nhiên,


thể
chưa
phải

tình
huống
gợi
vấn
đề

tình
huống
đặt
ra
như
vậy
chưa
đảm
bảo
chắc
chắn
tạo
ra

học
sinh
sự
hứng
thú

nhu
cầu
muốn
tiến
hành
giải
quyết
vấn
đề.

1.2.2.

dụ
về
tình
huống
gợi
vấn
đề

[

sửa

]



dụ
1.

Giả
sử
đối
với
học
sinh
lớp
1
chưa
được
học
phép
trừ
nhưng
đã
làm
quen
với
một
số
bài
tập
về
phép
cộng
số
tự
nhiên,
giáo
viên
yêu
cầu
tìm
một
số
thích
hợp
điền
vào
chỗ
dấu ?
sao
cho
5+?=8
.


đây,
tồn
tại

vấn
đề


khi
chưa
học
phép
trừ
thì
học
sinh
chưa
biết
thuật
giải
để
trực
tiếp
giải
bài
toán
đó.
Vấn
đề
này
gợi

nhu
cầu
nhận
thứ
c

gây
được
cho
học
sinh

niềm
tìn

khả
năng
huy
động
tri
thức,

năng

của
mình,
bởi


sao
bài
tập
trên
cũng
liên
quan
đến
phép
cộng

một
tri
thức

học
sinh
đã
biết;
học
sinh
nghĩ
rằng

thể
tích
cực
suy
nghĩ
về
phép
cộng,
vận
dụng
phép
cộng
thì

triển
vọng
giải
được
bài
toán
này.
Như
vậy,
tình
huống
trên
thỏa
mãn
các
điều
kiện
của
một

tình
huống
gợi
vấn
đề
.

Kinh
nghiệm
thực
tế
cho
thấy
rằng,
với
những
suy
nghĩ
dựa
trên
phép
cộng,
vận
dụng
phép
cộng,
nhiều
học
sinh
đã
tìm
ra
lời
giải
bài
tập
trên
một
cách
không
khó
khăn
theo
cách
sau:

5
+
1
=
6
5
+
2
=
7
5
+
3
=
8

Đương
nhiên,

trình
độ
lớp
1,
trong
trường
hợp
này,
người
ta
không
yêu
cầu

giải
tính
duy
nhất
của
đáp
số.



dụ
2.

Bài
toán
được
đặt
ra
cho
học
sinh
của
một
lớp
8,
Cộng
hòa
Pháp
trong
tình
huống

thể

tả
như
sau:

Học
sinh
làm
việc
theo
nhóm.
Mỗi
nhóm
khoảng
4
học
sinh.

Giáo
viên
phát
cho
mỗi
nhóm
một
bản
photo
hình
vẽ
trên
giấy
A4
cảu
một
tam
giác
bị
cắt
đi
một
mảnh

chứa
một
đỉnh,

ta
gọi

tam
giác
cụt
(hình
dưới
đây),
một
số
dụng
cụ

vật
liệu
như:
2
thước
đo
độ,
2
thước
kẻ,
2
eke,
2
compa,
4
bút
bi,
1
máy
tính
chỉ
cho
phép
thực
hiện
4
phép
toán
Cộng,
trừ,
nhân,
chia

nhiều
tờ
giấy
A4
không
trong
suốt.

Giáo
viên
thông
báo
nhiệm
vụ:

Mỗi
nhóm
hãy
thảo
luận

nhất
trí
với
nhau
để
viết
cho
học
sinh
của
một
lớp
8
khác
một
bản
chỉ
dẫn
những
việc
họ
cần
làm
để
tính
được
chu
vi
của
bất

một
tam
giác
bị
cụt
nào
kiểu
như
trên.
Biết
rằng,
các
bạn
học
sinh
nhận
bản
chỉ
dẫn
này
cũng

những
dụng
cụ
giống
như
các
em
(thước,
thước
đo
độ,
eke,
compa,…),

nhưng
chỉ

1
tờ
giấy
A4

trên
đó

vẽ
1
tam
giác
cụt
như
các
nhóm
đã
có,

không

tờ
giấy
A4
nào
khác.
Các
nhóm
viết
bản
chỉ
dẫn
của
mình
trên
một
tờ
giấy
khổ
lớn
(một
áp
phích).
Các
áp
phích
này
sẽ
được
đưa
ra
thảo
luận
giữa
các
nhóm
để
chọn
ra
một
bản
hướng
dẫn
đại
diện
cho
cả
lớp

gửi
cho
học
sinh
lớp
khác.


Bình
luận:

Tình
huống
này
thỏa
mãn
ba
điều
kiện
của
tình
huống
gợi
vấn
đề

  • Tồn
    tại
    một
    vấn
    đề:
    Quả
    thực,
    cho
    đến
    thời
    điểm
    này
    học
    sinh
    chưa
    cho
    một
    phương
    pháp

    tính
    thuật
    toán
    nào
    để
    tính
    chu
    vi
    các
    tam
    giác
    cụt
    như
    vậy.
  • Bài
    toán
    tạo
    ra

    học
    sinh
    sự

    mò,
    hứng
    thú

    nhu
    cầu
    giải
    quyết
    vấn
    đề

    ba

    do
    chủ
    yếu
    sau:

    • Bài
      toán
      khá
      khác
      lạ
      so
      với
      những
      bài
      toán
      tính
      chu
      vi

      học
      sinh
      thường
      gặp
      trong
      lớp.

      thể
      hiện
      một
      sự
      độc
      đáo

      thú
      vị.

    • được
      đặt
      trong
      tình
      huống
      phải
      thi
      đua
      giữa
      các
      nhóm
      để
      tạo
      ra
      một
      bản
      hướng
      dẫn
      đại
      diện
      cho
      lớp.
    • Bản
      hướng
      dẫn
      sẽ
      được
      sử
      dụng
      bởi
      học
      sinh
      lớp
      khác.
      Điều
      này
      ảnh
      hưởng
      đến
      uy
      tín

      danh
      dự
      của
      lớp.


  • khác
    lạ,
    nhưng
    thoạt
    tiên,
    học
    sinh
    không
    cảm
    thấy
    quá
    khó
    phải

    tay,

    họ

    thể
    tính
    đến
    nhiều
    phương
    án
    giải
    quyết
    khác
    nhau
    như:
    tìm
    phần
    bị
    thiếu
    bằng
    cách
    kéo
    dài
    hai
    cạnh
    bị
    cụt
    lên
    các
    tờ
    giấy
    khác
    hay
    trên
    mặt
    bàn,
    bằng
    gấp
    giấy
    hay
    bằng
    cách
    dùng
    phép
    đối
    xứng
    trục,…
    Chỉ
    đến
    khi
    hiểu

    các
    rằng
    buộc
    của
    tình
    huống
    họ
    mới

    thể
    nhận
    ra
    tính
    không
    hiệu
    quả
    cảu
    các
    cách
    giải
    quyết
    này.
    Ta
    nói,
    tồn
    tại
    các

    chiến
    lược

    sở

    cho
    phép
    học
    sinh
    đưa
    ra
    những
    giải
    pháp
    đáp
    ban
    đầu.
    Việc
    nhận
    ra
    khiếm
    khuyết
    của
    chiến
    lược

    sở
    sẽ
    buộc
    học
    sinh
    phải
    điều
    chỉnh
    phương
    thức
    giải
    quyết.

Chính
sự
tồn
tại
chiến
lược

sở,
cùng
với
cảm
giác
quen
thuộc
về
bài
toán
tính
chu
vi
tam
giá

một
trong
các
nhân
tố
góp
phần
tạo
ra

học
sinh
niềm
tin
vào
khả
năng
giải
quyết
được
vấn
đề
đặt
ra.

2.
Dạy
học
phát
hiện

giải
quyết
vấn
đề

[

sửa

]

Một
trong
những
mục
đích
cốt
yếu
của
hình
thức
dạy
học
này

giúp
học
sinh
phát
triển
các
khả
năng:
khả
năng
phát
hiện

trình
bày
vấn
đề,
khả
năng
tìm
kiếm
cách
giải
quyết
vấn
đề,
khả
năng
tổ
chức
quá
trình
giải
quyết
vấn
đề,
khả
năng
kiểm
tra
đánh
giá
kết
quả

phương
pháp
tiến
hành
giải
quyết
vấn
đề,

Nói
cách
khác,

cũng
cung
cấp
cho
học
sinh
những

tri
thức
phương
pháp.[6]

2.1.
Các
bước
chủ
yếu

[

sửa

]


Bước
1:

Tạo
tình
huống
gợi
vấn
đề

[7]


Bước
2:

Trình
bày
vấn
đề

đặt
mục
tiêu
giải
quyết

[8]


Bước
3:

Giải
quyết
vấn
đề


a)
Tìm
giải
pháp
[9]

Tìm
cách
giải
quyết
vấn
đề,
thường
được
thực
hiện
theo

đồ
sau:

Giải
thích

đồ


  • Phân
    tích
    vấn
    đề
    :
    làm

    mối
    liên
    hệ
    giữa
    cái
    đã
    biết

    cái
    cần
    tìm
    (dựa
    vào
    những
    tri
    thức
    đã
    học,
    liên
    tưởng
    tới
    kiến
    thức
    thích
    hợp)
  • Hướng
    dẫn
    HS

    tìm
    chiến
    lược
    giải
    quyết
    vấn
    đề

    thông
    qua

    đề
    xuất

    thực
    hiện
    hướng
    giải
    quyết
    vấn
    đề
    .
    Cần
    thu
    thập,
    tổ
    chức
    dữ
    liệu,
    huy
    động
    tri
    thức;[10]
    sử
    dụng
    những
    phương
    pháp,

    thuật
    nhận
    thức,
    tìm
    đoán
    suy
    luận
    như
    hướng
    đích,
    quy
    lạ
    về
    quen,
    đặc
    biệt
    hóa,
    chuyển
    qua
    những
    trường
    hợp
    suy
    biến,
    tương
    tự
    hóa,
    khái
    quát
    hóa,
    xem
    xét
    những
    mối
    liên
    hệ
    phụ
    thuộc,
    suy
    xuôi,
    suy
    ngược
    tiến,
    suy
    ngược
    lùi,…
    Phương
    hướng
    đề
    xuất

    thể
    được
    điều
    chỉnh
    khi
    cần
    thiết.
    Kết
    quả
    của
    việc
    đề
    xuất

    thực
    hiện
    hướng
    giải
    quyết
    vấn
    đề

    hình
    thành
    được
    một
    giải
    pháp.

  • Kiểm
    tra
    tính
    đúng
    đắn
    của
    giải
    pháp
    :
    Nếu
    giải
    pháp
    đúng
    thì
    kết
    thúc
    ngay,
    nếu
    không
    đúng
    thì
    lặp
    lại
    từ
    khâu
    phân
    tích
    vấn
    đề
    cho
    đến
    khi
    tìm
    được
    giải
    pháp
    đúng.

  • Chọn
    giải
    pháp

    thích
    hợp:
    Sau
    khi
    đã
    tìm
    ra
    một
    giải
    pháp,

    thể
    tiếp
    tục
    tìm
    thêm
    những
    giải
    pháp
    khác,
    so
    sánh
    chúng
    với
    nhau
    để
    tìm
    ra
    giải
    pháp
    hợp

    nhất.[11]


b)
Trình
bày
giải
pháp
[12]

HS
trình
bày
lại
toàn
bộ
từ
việc
phát
biểu
vấn
đề
tới
giải
pháp.
Nếu
vấn
đề

một
đề
bài
cho
sẵn
thì

thể
không
cần
phát
biểu
lại
vấn
đề.


Bước
4:

Rút
ra
kết
luận[13]

  • Kiểm
    tra,
    đánh
    giá
    lời
    giải[14],
    kết
    quả[15]

    cả
    cách
    thức
    tìm
    kiếm
    lời
    giải[16]
  • Thể
    chế
    hóa
    kiến
    thức
    cần
    lĩnh
    hội[17]


Bước
5:

Vận
dụng
kiến
thức
mới
để
giải
quyết
những
nhiệm
vụ
đặt
ra
tiếp
theo[18]

  • Tìm
    hiểu
    những
    khả
    năng
    ứng
    dụng
    kết
    quả[19]
  • Đề
    xuất
    những
    vấn
    đề
    mới

    liên
    quan
    nhờ
    xét
    tương
    tự,
    khái
    quát
    hóa,
    lật
    ngược
    vấn
    đề,…

    giải
    quyết
    nếu

    thể.[20]

2.2.
Khái
niệm
thể
chế
hoá

sự
khác
biệt
giữa
kiến
thức

tri
thức

[

sửa

]

Khi
một
vấn
đề
đặt
ra
đã
được
giải
quyết,

thể

một
số
kiến
thức
mới
nảy
sinh
từ
kết
quả
đạt
được

rất

lợi
để
sử
dụng
về
sau.
Tuy
nhiên,
nếu
ta
chỉ
dừng
lại

lời
giải
đã
đạt
được,
thì
những
kiến
thức
bổ
ích
này
cũng
chỉ
tồn
tại
dưới
dạng
kiến
thức
của

nhân
mỗi
học
sinh,
như

kinh
nghiệm
của
mỗi
người
rút
ra
từ
hoạt
động
giải
quyết
vấn
đề
đã
cho.
Do
đó,
chúng
không
giống
nhau

mọi
học
sinh,


thể
việc
sử
dụng
lại
sau
này

không
hợp
pháp.

Nhiệm
vụ
của
giáo
viên

biến
các
kiến
thức

nhân
đó
thành
kiến
thức
chung
(hay
tri
thức)

thể
sử
dụng
về
sau

sử
dụng
được
một
cách
hợp
pháp
bởi
mọi
học
sinh,
bằng
cách

nêu
lên

thông
báo
kiến
thức
này
một
cách
tường
minh

dưới
dạng
một
định
lí,
một
công
thức
hay
một
quy
tắc,
phương
pháp,

Khi
đó,
ta
nói
giáo
viên
đã
thực
hiện
pha
thể
chế
hoá.
Nói
cách
khác,
thể
chế
hoá

hành
động
biến
một
kiến
thức

tính

nhân
thành
một
kiến
thức

tính

hội
(hay
một
tri
thức)



dụ:

Sau
khi
tổ
chức
cho
học
sinh
giải
quyết
xong
các
bài
toán
sau
đây,

định
hướng
khởi
đầu

hạ
bậc
các
biểu
thức
lượng
giác
bậc
cao:

  • \sin 3x+\sin ^{3}x={\frac  {3{\sqrt  {3}}}{4}}\sin 2x
  • \sin ^{2}x+\sin ^{2}2x+\sin ^{2}3x+\sin ^{2}4x=2\,
  • \sin ^{4}x+\cos ^{4}x={\frac  {3-\cos 6x}{4}}
  • {\frac  {\sin ^{4}x+\cos ^{4}x}{\sin 2x}}={\frac  {1}{2}}(\tan x+\cot x)

thì
một
tri
thức
phương
pháp
rất

ích

thể
được
rút
ra
là:

“Khi
giải
các
phương
trình
lượng
giác
phức
tạp,
nếu
phương
trình
chứa
các
biểu
thức
lượng
giác
bậc
cao

thể
tính
đến
việc
hạ
bậc
của
các
biểu
thức
này”
.

Tuy
nhiên,
nếu
tri
thức
này
không
được
nêu
lên,
không
được

nhấn
mạnh

thông
báo
công
khai
[21]
bởi
GV
(nghĩa

không
được
thể
chế
hóa),
thì

cũng
chỉ

thể
tồn
tại
dưới
dạng
kiến
thức
của
từng

nhân
học
sinh.
Nói
cách
khác,
một
số
học
sinh

thể
nhận
ra
được
kiến
thức
đó

biết
áp
dụng
về
sau.
Nhưng
cũng

học
sinh
không
rút
ra
được
lợi
ích
của
định
hướng
phương
pháp
này,


thế
sau
này

gặp
một
phương
trình
bậc
cao
tương
tự
họ
cũng
lúng
túng,
không
biết
giải
quyết
thế
nào.

Ngược
lại,
nếu

được
thể
chế
hóa

được

nhắc
lại
trong
nhiều

hội
khác
,
thì
dần
dần


một
kiến
thức
bền
vững

nhiều
học
sinh.

3.
Các
hình
thức

cấp
độ

[

sửa

]

Tuỳ
theo
vai
trò
của
giáo
viên

học
sinh
trong
các
bước
của
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề
cũng
như
đặc
trưng
của
tri
thức
đạt
được,

ta
phân
biệt
ba
hình
thức
dạy
học
chủ
yếu
sau
đây.

a)
Tự
nghiên
cứu
giải
quyết
vấn
đề

[

sửa

]

Đây

cấp
độ
cao
nhất
của
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề.

được
đặc
trưng
bởi
các
mặt
sau
đây :


Giáo
viên

(hoặc
cùng
học
sinh)
tạo
ra
tình
huống
gợi
vấn
đề,
trình
bày
vấn
đề.
Sau
khi
vấn
đề
đã
được
giải
quyết,
giáo
viên

trách
nhiệm
thực
hiện
pha
thể
chế
hoá:
đánh
giá
vai
trò

ý
nghĩa
của
kết
quả
đạt
được,
chuyển
kiến
thức

tính
chất

nhân
thành
thành
tri
thức
chung,
nhấn
mạnh
các
tri
thức
phương
pháp

thể
rút
ra
từ
quá
trình
nghiên
cứu

giải
quyết
vấn
đề.


Học
sinh:

độc
lập
tìm
cách
giải
quyết
vấn
đề,
trình
bày
lời
giải,
thực
hiện
pha
kiểm
tra

đánh
giá.
Như
vậy
họ
phải
hoạt
động
một
cách
tích
cực,
chủ
động,
tự
giác,
độc
lập

sáng
tạo.

Tuỳ
theo
tình
hình

công
việc
của
học
sinh

thể
được
tổ
chức
dưới
các
hình
thức
khác
nhau
như :

  • Làm
    việc

    nhân :
    mỗi
    học
    sinh
    làm
    việc
    một
    cách
    độc
    lập.
  • Làm
    việc
    hợp
    tác :
    học
    sinh
    làm
    việc
    theo
    nhóm
    nhỏ,
    thảo
    luận,
    trao
    đổi
    trong
    tất
    cả
    các
    pha
    của
    dạy
    học
    đặt

    giải
    quyết
    vấn
    đề.
  • Đan
    xen
    giữa
    hai
    hình
    thức
    làm
    việc
    trên.


Tri
thức:

Không
được
cho
dưới
dạng

sẵn,

xuất
hiện
trong
quá
trình
hình
thành

giải
quyết
vấn
đề,

được
khám
phá
bởi
chính
học
sinh
.



dụ:


Giáo
viên
tạo
tình
huống
gợi
vấn
đề:


Vẽ
lên
bảng
một
tam
giác
ABC
vuông
tại
A,
các
cạnh
tương
ứng

AB=c,AC=B

BC=a
.


Hỏi:
ta
đã
biết
công
thức
nào
cho
phép
tính
độ
dài
cạnh
BC
theo
hai
cạnh
kia?
Đáp
án
mong
đợi

định

Pythagore:
a^{2}=b^{2}+c^{2}


Tạo
tình
huống

vấn
đề:
Như
vậy,
nếu
biết
A

góc
vuông

độ
dài
hai
cạnh
kề

thì
ta

thể
tính
được
độ
dài
cạnh
còn
lại.
Nếu,
bây
giờ
vẫn
cho
biết
độ
lớn
góc
A

độ
dài
hai
cạnh
kề
nó,
nhưng
A

một
góc
bất
kì,
liệu

tính
được
độ
dài
cạnh
thứ
ba
hay
không?


Giáo
viên
trình
bày
vấn
đề:

Cho
tam
giác
ABC
bất
kì.

thể
tìm
được
hay
không
công
thức
tính
độ
dài
cạnh
BC
nếu
biết
độ
dài
hai
cạnh
còn
lại

AC
=
b,
AB
=
c

độ
lớn
góc
A
xen
giữa
hai
cạnh
này?


Học
sinh
tự
giải
quyết
vấn
đề

thực
hiện
việc
đánh
giá.


Giáo
viên
thực
hiện
pha
thể
chế
hoá
bằng
cách
trình
bày
định

cosin
trong
tam
giác,
như

kết
quả
của
việc
giải
quyết
vấn
đề
trên.

b)
Vấn
đáp
đặt

giải
quyết
vấn
đề

[

sửa

]


Hình
thức
này

các
đặc
trưng
sau:


Giáo
viên

xây
dựng
một
hệ
thống
câu
hỏi
để
gợi
ý,
dẫn
dắt
học
sinh
thực
hiện
tất
cả
các
pha
của
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề,
ngoại
trừ
pha
thể
chế
hoá.

mức
độ
thấp
hơn
thì
chính
giáo
viên
thực
hiện
việc
tạo
tình
huống

vấn
đề

trình
bày
vấn
đề.


Học
sinh
,
nhờ
vào
hệ
thống
câu
hỏi
gợi
ý
dẫn
dắt
của
giáo
viên

tự
giác

tích
cực
nghiên
cứu
phát
hiện,
trình
bày

giải
quyết
vấn
đề.


Tri
thức

không
được
cho
dưới
dạng

sẵn

trực
tiếp,

xuất
hiện
trong
quá
trình
hình
thành

giải
quyết
vấn
đề,

được
khám
phá
nhờ
quá
trình
tương
tác
giữa
thầy

trò,
trong
đó
trò
đóng
vai
trò
chính.

c)
Thuyết
trình
đặt

giải
quyết
vấn
đề

[

sửa

]


cấp
độ
thấp
nhất
của
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề.


Giáo
viên

thực
hiện
tất
cả
các
khâu
của
hình
thức
dạy
học
này:
Tạo
tình
huống
gợi
vấn
đề,
trình
bày
vấn
đề,
trình
bày
quá
trình
suy
nghĩ
tìm
kiếm,
dự
đoán
cách
thức
giải
quyết
vấn
đề
(chứ
không
đơn
thuần
trình
bày
lời
giải),

Giáo
viên
trình
bày
cả
quá
trình
tìm
kiếm
của
mình,

lúc
thành
công,

lúc
thất
bại,

lúc
phải
điều
chỉnh
phương
hướng
nhiều
lần
mới
đi
đến
kết
quả.

Nói
cách
khác,
giáo
viên
phải
đóng
vai
một
học
sinh
đang
tìm
cách
phát
hiện

giải
quyết
vấn
đề :
tự
đặt
ra
cho
mình
các
câu
hỏi,
các
nghi
vấn,
tự
mày

tìm
kiếm
các
phương
án
giải
quyết,
rồi
tự
trả
lời,

Điều
quan
trọng

trong
quá
trình
này,
giáo
viên
cần
để
lại
những
“khoảng
lặng”
để
cho
học
sinh
(người
học)
đủ
thời
gian
cùng
tham
gia
vào
quá
trình
suy
nghĩ,
tìm
kiếm
câu
trả
lời
như
chính
học
sinh
giả
tưởng,
chứ
không
cho
câu
trả
lời
ngay
sau
khi
vừa
đặt
ra
một
câu
hỏi,
một
nghi
vấn
nào
đó.


Học
sinh

theo
dõi
quá
trình
nghiên
cứu
đặt

giải
quyết
vấn
đề
được
trình
bày
bởi
giáo
viên.
Trong
quá
trình
này,
họ
cũng
trải
qua
những
thời
điểm,
những
cảm
xúc

thái
độ
khác
nhau
như
một
học
sinh
đang
thực
sự
tham
gia
quá
trình
nghiên
cứu,
nhưng
không
trực
tiếp
giải
quyết
vấn
đề.


Tri
thức
,
mặc

không
được
khám
phá
bởi
chính
học
sinh,
nhưng
cũng
không
được
truyền
thụ
dưới
dạng

sẵn

trực
tiếp,

nảy
sinh
trong
quá
trình
đặt

giải
quyết
vấn
đề
của
giáo
viên.

Chú
ý

[

sửa

]

a)
Cần
phân
biệt
hình
thức
vấn
đáp
đặt

giải
quyết
vấn
đề
với

phương
pháp
đàm
thoại
(hay
vấn
đáp),
hình
thức
thuyết
trình
đặt

giải
quyết
vấn
đề
với

phương
pháp
thuyết
trình.
Những
điểm
khác
biệt
nhất
cần
nhấn
mạnh
là:


Trong
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề,
điều
mấu
chốt

phải
tạo
ra
các
tình
huống
gợi
vấn
đề,
như
V.
Okon
(bản
dịch
tiếng
việt
của
Phạm
Hoàng
Gia,
1976)
đã
viết:


“Nét
bản
chất
của
dạy
học
nêu
vấn
đề
không
phải

sự
đặt
ra
những
câu
hỏi


tạo
ra
các
tình
huống
gợi
vấn
đề”
(V.
Okon,
1976).


Kiến
thức
xuất
hiện
trong
quá
trình
đặt

nghiên
cứu
giải
quyết
vấn
đề.


Học
sinh
không
chỉ
lĩnh
hội
được
kiến
thức
mới
như

kết
quả
của
quá
trình
giải
quyết
vấn
đề,

còn

thể
lĩnh
hội
được
tri
thức
phương
pháp.


Như
vậy,
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề
dưới
hình
thức
vấn
đáp
(hay
thuyết
trình)
cũng

một
kiểu
dạy
học
theo
phương
pháp
đàm
thoại
(hay
thuyết
trình),
nhưng
điều
ngược
lại
chưa
chắc
đúng.

Phát
biểu
sau
đây
của
I.
Ia.
Lecne
(1981)
về
hình
thức
Thuyết
trình
đặt

giải
quyết
vấn
đề
cho
phép
hiểu

hơn
sự
khác
biệt
này:


“Bản
chất
của
hình
thức
này
không
những
nhằm
giới
thiệu
cho
học
sinh
cách
giải
quyết
đã

đối
với
các
vấn
đề
nhận
thức
khoa
học
hay
thực
tiễn


còn
giúp
học
sinh
hiểu
logic,
những
mâu
thuẫn

cách
giải
quyết
những
mâu
thuẫn
đó”.

b)
Khả
năng
hoạt
động
một
cách
độc
lập,
tích
cực

sáng
tạo
của
học
sinh
tuỳ
thuộc
vào
hình
thức
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề.
Chẳng
hạn
trong
hình
thức
thuyết
trình,
chính
giáo
viên
thực
hiện
tất
cả
các
bước
của
quá
trình,
học
sinh
chỉ
theo
dõi,
lắng
nghe

lĩnh
hội
lại
tri
thức
(kể
cả
tri
thức
phương
pháp)
được
truyền
thụ
trực
tiếp
từ
giáo
viên.
Do
vậy,
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề
dưới
hình
thức
thuyết
trình
không
thuộc
vào
nhóm
phương
pháp
dạy
học
tích
cực.
Tuy
nhiên,

cũng
cho
phép
phát
huy
tính
tích
cực
của
học
sinh,

trong
quá
trình
đặt

giải
quyết
vấn
đề
của
giáo
viên,
học
sinh
cũng
luôn
được
đặt
trong
những
tình
huống
khó
khăn,
nghi
vấn,
tích
cực
suy
nghĩ,

Ngoại
trừ
việc
giải
quyết
các
nghi
vấn,
việc
đưa
ra
phương
án
giải
quyết
khó
khăn,


do
giáo
viên
thực
hiện.

c)
Ta

thể
áp
dụng
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề
không
chỉ
cho
đối
tượng
học
sinh
khá
giỏi,


thể
cho
cả
các
đối
tượng
học
sinh
khác.
Chính
với
học
sinh
trung
bình
hay
yếu,
việc
áp
dụng
hình
thức
này
một
cách
thích
hợp

hệ
thống
mới
hy
vọng
giúp
họ
dần
dần
thoát
khỏi
cách
học
thụ
động

lĩnh
hội
kiến
thức
một
cách
tích
cực
hơn.
Hơn
nữa,

cấp
độ
thấp
nhất,
với
học
sinh
trung
bình
hay
yếu
ta
vẫn

thể
vận
dụng
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề
dưới
hình
thức
thuyết
trình[22]

d)
Trong
một
giờ
lên
lớp,
nói
chung
người
ta
không
sử
dụng
độc
nhất
một
phương
pháp
dạy
học.
Do
đó,
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề

thể
chỉ
xuất
hiện
trong
một
số
công
đoạn
của
giờ
lên
lớp.
Hơn
nữa,
cũng
cần
tránh
quan
điểm
cực
đoan
phải
áp
dụng
hình
thức
dạy
học
này
cho
mọi
nội
dung
cần
giảng
dạy.

Mặt
khác,
ngay
cả
khi
áp
dụng
dạy
học
đặt

giải
quyết
vấn
đề
thì
đôi
khi
ta
không
thể
tuân
thủ
cứng
nhắc
một
hình
thức
nào
trong
ba
hình
thức
trên.
Tuỳ
diễn
tiến
của
tình
huống

các
hình
thức
này

thể
được
áp
dụng
đan
xen
nhau,
hỗ
trợ
cho
nhau.

4.
Một
số
cách
tạo
ra
tình
huống

vấn
đề

[

sửa

]

Để
thực
hiện
dạy
học
phát
hiện

giải
quyết
vấn
đề
cho
giờ
học
hay
cho
một
đơn
vị
kiến
thức
nào
đó
của
giờ
học,
điểm
xuất
phát

tạo
ra
tình
huống
gợi
vấn
đề,
tốt
nhất

tình
huống
gây
được

cảm
xúc


làm
cho
học
sinh

ngạc
nhiên
.

Sau
đây

một
số
cách
tạo
ra
các
tình
huống
“có
vấn
đề”,
chứ
chưa
phải

tình
huống
“gợi
vấn
đề”.
Để
chúng
trở
thành
các
tình
huống
“gợi
vấn
đề”
cần
phải
đảm
bảo
rằng
tình
huống
gợi
ra

học
sinh

nhu
cầu
nhận
thức



niềm
tin

khả
năng
.


Xem
chi
tiết:

Tạo
tình
huống

vấn
đề
trong
dạy
học
môn
Toán

5.
Dạy
học
giải
quyết
vấn
đề
các
loại
kiến
thức
đặc
thù

[

sửa

]


Mục
này
được
viết
phỏng
theo:

Dạy
học
phát
hiện

giải
quyết
vấn
đề
trong
môn
Vật
lí#2.
Dạy
học
giải
quyết
vấn
đề
các
loại
kiến
thức
đặc
thù
.
Tại
sao
lại
theo
tài
liệu
này?

cách
chia
các
bước
thể
hiện

ràng

hợp

hơn.


Các
pha/
bước
của
dạy
học
phát
hiện

giải
quyết
vấn
đề


Khái
niệm


Định


Tri
thức
phương
pháp

tính
thuật
toán


Tri
thức
phương
pháp
tìm
đoán

1.
Làm
nảy
sinh

cần
giải
quyết
từ
tình
huống
(điều
kiện)
xuất
phát:
từ
kiến
thức
cũ,
kinh
nghiệm,
TN,
bài
tập,
truyện
kể
lịch
sử…

Xây
dựng
biểu
tượng
về
hiện
tượng:
Thông
qua
tái
hiện
kinh
nghiệm,
thí
nghiệm,
clips,
ảnh…

Tùy
theo
hình
thành
đặc
điểm
định
lượng
hay
định
tính
trước


cách
đặt
vấn
đề
khác
nha:

bản
đều
phải
làm
bật
ra
nhu
cầu
cần
xây
dựng
đại
lượng
mới
để
diễn
tả
tính
chất
vật


các
đại
lượng
đã

không

tả
được
đầy
đủ

Dùng
thí
nghiệm,
kinh
nghiệm

bộ
chỉ
ra
mối
quan
hệ
giữa
các
đại
lượng.

Đưa
ra
một
nhu
cầu,
nhiệm
vụ
cần
thực
hiện

những
thiết
bị

thuật
(TBKT)
đã
biết
chưa
thể
thực
hiện
được
hoặc
thực
hiện
chưa
tốt.

2.
Phát
biểu

cần
giải
quyết
(câu
hỏi
cần
trả
lời)

Khi
nào
thì
xảy
ra
hiện
tượng
này?

Khi

thì
xảy
ra
hiện
tượng
gì?

Tại
sao
lại
xảy
ra
hiện
tượng
…?

Đặc
tính

phụ
thuộc
vào
các
đại
lượng
nào

phụ
thuộc
như
thế
nào
vào
các
đại
lượng
đó?

Biểu
thức…
đặc
trưng
cho
tính
chất
vật

nào?

Mối
quan
hệ
giữa
các
đại
lượng
A

B

gì?

A

B

mốt
quan
hệ
với
nhau
như
thế
nào?

A
phụ
thuộc
vào
B,C…
như
thế
nào?

Máy
(TBKT)
phải

nguyên
tắc
cấu
tạo

hoạt
động
như
thế
nào
để
thực
hiện
được
chức
năng ?

3.
Giải
quyết


Suy
đoán
giải
pháp
GQVĐ:
nhờ
khảo
sát

thuyết
và/hoặc
khảo
sát
thực
nghiệm


Thực
hiện
giải
pháp
đã
suy
đoán

Kiểm
tra
kết
luận:

Đưa
ra
giả
thuyết

Dùng
thí
nghiệm
kiểm
tra
(VD:
hiện
tượng
tán
sắc,
khúc
xạ..)

Hoặc
suy
luận

thuyết
để
rút
ra
hệ
quả
rồi
dùng
TN
kiểm
tra
(VD:
hiện
tượng
sóng
dừng,
hiện
tượng
giao
thoa)

Xây
dựng
thí
nghiệm
để
trả
lời
câu
hỏi
vấn
đề


Xây
dựng
giả
thuyết

thiết
kế
phương
án
thí
nghiệm
kiểm
tra
giả
thuyết.


Sử
dụng
các
kiến
thức

thuyết
đã

để
suy
luận

gic
rút
ra
câu
trả
lời
rồi
dùng
thí
nghiệm
kiểm
nghiệm
lại
kết
quả

Mở
máy
ra

xác
định
các
bộ
phận
chính,
các
quy
luật

bản
chi
phối.
Xây
dựng

hình
hình
vẽ
(MHHV)

tiến
hành
thí
nghiệm
kiểm
tra
xem
MHHV

thực
hiện
được
đúng
các
chức
năng
của
TBKT
không

Thiết
kế
một
TBKT
để
đáp
ứng
được
yêu
cầu
đặt
ra.
Lựa
chọn
thiết
kế
tối
ưu

xây
dựng

hình
vật
chất
chức
năng
(VC
–CN)
theo
thiết
kế

vận
hành
thử.

4.
Rút
ra
kết
luận
(kiến
thức
mới)

Định
nghĩa
khái
niệm
về
đối
tượng,
về
phép
toán

Phát
biểu
định

Phát
biểu
công
thức

Phát
biểu
định
luật

phạm
vi
áp
dụng
định
luật

Rút
ra
nguyên
tắc
cấu
tạo

hoạt
động
của
TBKT

5.
Vận
dụng
kiến
thức
mới
để
giải
quyết
những
nhiệm
vụ
đặt
ra
tiếp
theo

Nhận
biết
các
biểu
hiện
của
hiện
tượng
đã
học
trong
tự
nhiên.

Vận
dụng
đại
lượng
để

tả
các
đặc
tính
vật


các
hiện
tượng
khác
nhau.

Vận
dụng
định
luật
trong
các
hiện
tượng
vật

khác.

So
sánh
TBKT
đã
xây
dựng
với
các
TBKT
trong
đời
sống
để
bổ
sung
các
yếu
tố
khác.

6.

dụ
minh
họa

[

sửa

]


dụ
1:
Giải
bpt
dạng
A^2.B

0

[

sửa

]

Khi
dạy
phần
bất
phương
trình

lớp
10

thể
cho
HS
giải
bài
tập
sau:

Khi
giải
bất
phương
trình
(x-1)^{2}(x+2)\leq 0
(1),
bạn
Hòa
đã
giải
như
sau:

(1)\Leftrightarrow x+2\leq 0\Leftrightarrow x\leq -2
(2)

Vậy
tập
nghiệm
của
bất
phương
trình
đã
cho

\{x|x<-2\}

Xét
xem
lời
giải
trên
đã
đúng
chưa?
Nếu
chưa
đúng,
hãy
sửa
lại.

Khi
giải
bài
toán
này,
HS
được
đặt
vào
một
tình
huống
gợi
vấn
đề
với
nhiệm
vụ

phát
hiện
nguyên
nhân

sửa
chữa
sai
lầm.
Đó

một
tình
huống
gợi
vấn
đề

đối
chiếu
với
ba
điểu
kiện
của
tình
huống
gợi
vấn
đề,
ta
thấy:

  1. HS
    chưa

    sẵn
    câu
    trả
    lời

    cũng
    không
    biết
    một
    thuật
    giải
    nào
    để

    câu
    trả
    lời
  2. HS

    nhu
    cầu
    giải
    quyết
    vấn
    đề,
    họ
    không
    thể
    chấp
    nhận
    để
    nguyên
    nhân
    sai
    lầm

    không
    sửa
    chữa
  3. Vấn
    đề
    này
    liên
    quan
    đến
    những
    kiến
    thức
    sẵn

    của
    họ,
    không


    vượt
    quá
    yêu
    cầu,
    họ
    thấy
    nếu
    tích
    cực
    suy
    nghĩ
    vận
    dụng
    kiến
    thức
    đã
    học
    thì

    thể
    tìm
    ra
    nguyên
    nhân
    sai
    lầm

    sửa
    chữa
    sai
    lầm.

Bước

Hoạt
động


1.
Phát
hiện
hoặc
thâm
nhập
vấn
đề

Sau
khi
ra
đề,
GV
dành
thời
gian
để
HS
suy
nghĩ
xem
xét
lời
giải
đã
đúng
chưa.
Nếu
sai
thì
sai

điểm
nào?

Nếu
HS
chưa
phát
hiện
được
sai
lầm
thì
GV

thể
gợi
ý
để
HS
thấy
được
bất
phương
trình
còn

nghiệm
khác,
chẳng
hạn
x=1,x=-2
.


2.
Tìm
giải
pháp

Sau
khi
cho
HS
tìm
kiếm,
tạo
điều
kiện
để
HS
chỉ
ra
được
các
sai
lầm
trong
lời
giải:

1)
Sai
lầm

do
việc
viết:
A^{2}B\leq 0\Leftrightarrow B\leq 0

Đúng
ra:
A^{2}B\leq 0\Leftrightarrow A=0\vee B\leq 0

(Sai
lầm
này
HS
rất
khó
nhận
ra)

2)
Sai
lầm
thứ
hai

việc
viết
tập
nghiệm
chưa
đúng.


3.
Trình
bày
giải
pháp

Từ
việc
chỉ
ra
những
sai
lầm
đó,
HS

thể
đưa
ra
được
lời
giải
đúng:

(x-1)^{2}(x+2)\leq 0\Leftrightarrow x-1=0\vee x+2\leq 0\Leftrightarrow x=1\vee x\leq -2

Vậy
bất
phương
trình
đã
cho

nghiệm

x=1\vee x\leq -2


4.
Rút
ra
kết
luận

Cách
giải
bất
phương
trình
A^{2}B\leq 0\Leftrightarrow A=0\vee B\leq 0

5.
Nghiên
cứu
sâu
giải
pháp

Từ
việc
giải
bất
phương
trình
trên,

thể
suy
ra
cách
giải
tương
tự
cho
các
bất
phương
trình

dạng

  • A^{2}B\geq 0\Leftrightarrow ?
  • {\sqrt  {A}}B\leq 0\Leftrightarrow ?
  • {\sqrt  {A}}B\geq 0\Leftrightarrow ?


dụ
2.
Đặt
ẩn
phụ
biện
luận
phương
trình

tham
số

[

sửa

]

Khi
dạy
phần
Bất
phương
trình
theo
chương
trình
Đại
số
10
nâng
cao

thể
yêu
cầu
HS
giải
bài
tập
sau:

Tìm
các
giá
trị
của
tham
số
m
để
phương
trình
x^{2}-2mx+(m+1)|x-m|+1=0
(1)

a)

hai
nghiệm
phân
biệt

b)

bốn
nghiệm
phân
biệt

Đây

bài
toán

thoạt
nhìn
thì
HS
không
thấy
thuộc
loại
toán

bản
nào
đã
xét.
Khi
giải
bài
toán
này
HS
cũng
được
đặt
vào
một
tình
huống
gợi
vấn
đề.

Bước

Hoạt
động


1.
Phát
hiện
hoặc
thâm
nhập
vấn
đề

Các
em
đã
biết
cách
tìm
điều
kiện
để
một
phương
trình
bậc
hai

số
nghiệm
cho
trước:

hai
nghiệm,
một
nghiệm
hoặc

nghiệm.
Các
em
cũng
đã
biết
giải
bài
toán
về
số
nghiệm
của
một
phương
trình
trùng
phương.
Liệu

thể
giải
bài
toán
về
số
nghiệm
của
phương
trình

chứa
ẩn
trong
dấu
giá
trị
tuyệt
đối
như

phương
trình
(1)
hay
không?


2.
Tìm
giải
pháp

GV
tạo
điều
kiện
để
HS
nêu
cách
giải
quyết
của
các
em.
Nhiều
HS
thường
nêu
cách
giải:
phá
dấu
giá
trị
tuyệt
đối,
sau
đó
với
mỗi
trường
hợp
nêu
điều
kiện
để
phương
trình

hai
nghiệm
phân
biệt,…

Cho
HS
thảo
luận
xem
liệu
những
cách
HS
đưa
ra

phù
hợp
không?
Khi
giải

khó
khăn

không?

Sau
đó
GV

thể
gợi
ý
để
HS
thấy
mối
liên
hệ
giữa
|x-m|

x^{2}-2mx
.

(Có
thể
liên
hệ
với
phần
b
Bài
27,
trang
85,
SGK
Đại
số
10
nâng
cao:

“Bằng
cách
đặt
ẩn
phụ,
giải
phương
trình
x^{2}+4x-3|x+2|+4=0
“)

Từ
đó,
HS
thấy
được
phép
đặt
ẩn
phụ
là:

Đặt
t=|x-m|
,
với
t\geq 0
.
Phương
trình
đã
cho
được
chuyển
thành:
t^{2}+(m+1)t+1-m^{2}=0
(2)

Mỗi
nghiệm
dương
của
phương
trình
(2)
ứng
với
hai
nghiệm
của
phương
trình
(1),
mỗi
nghiệm
bằng
0
của
phương
trình
(2)
ứng
với
một
nghiệm
của
phương
trình
(1).

Đến
đây,
HS
thấy
được
cách
giải
quyết
bài
toán
này
gần
giống
bài
toán
về
số
nghiệm
của
phương
trình
trùng
phương


SGK.


3.
Trình
bày
giải
pháp

HS
trình
bày
quá
trình
giải
quyết
bài
toán:
từ
việc
đặt
ẩn
phụ,
lập
luận
về
mối
liên
hệ
giữa
nghiệm
của
phương
trình
trung
gian

số
nghiệm
của
phương
trình
ban
đầu
đến
việc
giải
quyết
trọn
vẹn
bài
toán.


4.
Nghiên
cứu
sâu
giải
pháp

Sau
khi
đặt
ẩn
phụ
thì
cách
lập
luận
tương
tự
như
cách
biện
luận
số
nghiệm
của
phương
trình
trùng
phương,
do
đó

thể
yêu
cầu
HS
giải
những
yêu
cầu
tương
tự:

Tìm
m
để
phương
trình
(1)

ba
nghiệm
phân
biệt;

đúng
1
nghiệm;

nghiệm.

Từ
bài
toán
trên,
bằng
cách
tương
tự

thể
giải
các
bài
toán
về
số
nghiệm
của
phương
trình:
(x^{2}-1)(x+3)(x+5)=m

(Với
bài
tập
này
HS

thể
đặt
ẩn
phụ
t=x^{2}+4x+4
rồi
giải
tương
tự
như
phương
trình
trùng
phương).


dụ
3

[

sửa

]

Chú
thích

[

sửa

]

Tài
liệu
tham
khảo

[

sửa

]

  • Phương
    pháp
    dạy
    học
    môn
    Toán,
    Nguyễn

    Kim,
    2011
  • Phương
    pháp
    dạy
    học
    các
    tình
    huống
    điển
    hình
    trong
    môn
    Toán,

    Văn
    Tiến,
    2005

Xem
thêm

[

sửa

]