Đảng lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài Nhà nước
Loạt bài “ Đảng lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài Nhà nước ” của tác giả Đàm Văn Lợi đăng trên Tạp chí Nội chính đã đoạt giải B – Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng (mang tên Búa liềm vàng) lần thứ VII – năm 2022. Tạp chí Xây dựng Đảng trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Tác giả đoạt giải B – Giải Búa liềm vàng 2022.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng có ghi: “Từng bước mở rộng hoạt động phòng, chống tham nhũng, lãng phí ngoài khu vực nhà nước”. Trước đó, lần đầu tiên, nội dung phòng, chống tham nhũng (PCTN) khu vực ngoài nhà nước được quy định trong Luật PCTN năm 2018 (Quốc hội Khóa XIV thông qua ngày 20/11/2018, có hiệu lực từ ngày 01/7/2019). Tuy nhiên, đây là vấn đề mới và khó. Không ít cấp ủy, tổ chức đảng còn lúng túng về nội dung và phương thức lãnh đạo công tác PCTN tại các doanh nghiệp nói chung; đặc biệt là các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước nói riêng. Câu hỏi đặt ra hiện nay là làm thế nào để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PCTN tại khu vực ngoài nhà nước với vị trí, vai trò của đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo xã hội và đất nước? Để làm rõ những nội dung trên, Tạp chí Nội chính trân trọng giới thiệu một số bài viết làm rõ nội dung “Sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước”.
BÀI 1: NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG KHU VỰC NGOÀI NHÀ NƯỚC
1. Khu vực ngoài nhà nước
Năm 1986, Đảng, Nhà nước ta thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Theo đó, để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, hàng loạt các tổ chức, đơn vị kinh tế ngoài nhà nước được ra đời. Cùng với đó, khái niệm “khu vực kinh tế tư nhân” cũng bắt đầu ra đời. Khái niệm “kinh tế tư nhân” được Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) xác định bao gồm các thành phần: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và loại hình doanh nghiệp tư nhân”([1]). Ngoài ra, có quan niệm khác nhau về khu vực tư: (1) Khu vực kinh tế tư nhân, hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các hoạt động kinh tế tư nhân trong nước; (2) Khu vực kinh tế tư nhân theo nghĩa rộng thường được đề cập đến như một tổng thể bao gồm các doanh nghiệp FDI và khu vực kinh tế tư nhân trong nước([2]).
Theo Luật Doanh nghiệp (năm 1999; sửa đổi, bổ sung năm 2020), các doanh nghiệp trong “khu vực tư”, gồm: Công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Định nghĩa này không bao gồm: (1) Các doanh nghiệp không đăng ký, (2) Các hộ gia đình, (3) Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, và (4) Các doanh nghiệp nhà nước([3]).
Nói đến “khu vực tư” là nói đến những hoạt động trong các ngành kinh tế vì mục đích kinh doanh. Quan niệm này phù hợp với một số ít nghiên cứu về tham nhũng trong khu vực tư; mặc dù không đưa ra một khái niệm rõ ràng về “khu vực tư” nhưng nội dung nghiên cứu cũng đã khuôn lại là hoạt động kinh doanh của các “tổ chức tư nhân”, hoặc là hoạt động kinh doanh, thương mại của khu vực “không mang tính quyền lực nhà nước”.
Như vậy, việc xác định “khu vực tư” theo tiêu chí kinh tế (như đã nêu trên) là hoàn toàn chính xác, vì nó phù hợp với mục tiêu xác định ranh giới công – tư vốn được thừa nhận để xác định ranh giới của sở hữu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, “khu vực tư” chỉ là một phần của “khu vực ngoài nhà nước”, bởi:
Thứ nhất, theo khái niệm quyền lực: Quyền lực là quyền chi phối các chính sách tài chính và hoạt động đối với một tổ chức. Việc xác định ranh giới công – tư sẽ được thực hiện trên cơ sở ranh giới, phạm vi thực hiện quyền lực công. Theo đó, nơi nào thực hiện quyền lực nhà nước thì nơi đó thuộc về “khu vực công”. Xét về bản chất, quyền lực nhà nước bao gồm ba quyền cơ bản là: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước tổ chức thực hiện quyền lực của mình thông qua hệ thống bộ máy cơ quan nhà nước. Do vậy, trong phạm vi các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền do pháp luật trao thực hiện chức năng, nhiệm vụ lập pháp, hành pháp, tư pháp nhân danh quyền lực nhà nước thì đó là khu vực thực hiện quyền lực nhà nước và đó là “khu vực công”. Tuy nhiên, do thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay, ngoài hệ thống bộ máy nhà nước được tổ chức từ Trung ương đến địa phương; tổ chức chính trị, chính trị – xã hội (hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam…), một số tổ chức xã hội…, mặc dù không thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng mỗi tổ chức lại có quyền lực chính trị nhất định; tác động tới tổ chức bộ máy của nhà nước cũng như toàn thể xã hội ở những mức độ khác nhau. Trên thực tế, các tổ chức này có vị trí chính trị quan trọng trong đời sống xã hội (nói chung) và quyền lực trong hệ thống của mỗi tổ chức (nói riêng), mà chúng ta không thể phân định được đó là quyền lực nhà nước hay quyền lực ngoài nhà nước. Như vậy, phạm vi thực hiện quyền lực công ở Việt Nam rộng hơn các nước trên thế giới. Khu vực công ở Việt Nam không chỉ là hệ thống các cơ quan nhà nước (thực thi quyền lực công) mà còn bao gồm cả: Tổ chức chính trị; một số tổ chức chính trị – xã hội và một số tổ chức xã hội (như đã đề cập).
Thứ hai, theo khía cạnh kiểm soát tài chính: Kiểm soát tài chính là khả năng kiểm soát của chủ thể đối với lợi nhuận có được từ các hoạt động của tổ chức khác. Theo đó, khu vực chịu tác động của tài chính công được xác định theo hai tiêu chí bao gồm quản lý tài chính công và sử dụng tài chính công. Như vậy, khu vực quản lý tài chính công đương nhiên là khu vực công. Nhưng khu vực sử dụng tài chính công thì có thể là khu vực công, có thể là khu vực tư. Bởi vì, ngoài hệ thống bộ máy nhà nước hay các doanh nghiệp nhà nước sử dụng tài chính công vốn thuộc khu vực công thì một đặc thù ở Việt Nam là ngân sách nhà nước cấp cho cả những tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp (ví dụ như: Hội Luật sư; Hội Luật gia; Hội Khuyến học; Hội chữ thập đỏ; Hội nhà báo…. ). Các tổ chức này hoạt động vì mục đích phi lợi nhuận. Nguồn tài chính của họ chủ yếu do tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội, do hội viên đóng góp; nhưng hàng năm ngân sách Nhà nước vẫn cấp một phần kinh phí cho các tổ chức này hoạt động. Do ngân sách Nhà nước không phải là nguồn chủ yếu của các tổ chức đó và việc thành lập cũng như mục tiêu hoạt động của họ là do tự nguyện, do các thành viên quyết định, không bị ràng buộc bởi quyền lực chính trị nên các tổ chức đó không thể được xác định là khu vực công.
Như vậy, có thể thấy khu vực công ở Việt Nam được xác định bao gồm: (1) Khu vực thực hiện quyền lực công (quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước – khu vực bộ máy nhà nước) và (2) Khu vực quản lý và sử dụng tài chính công (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước). Khu vực ngoài nhà nước ở Việt Nam được xác định gồm hai bộ phận đó là: (1) Các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức nhân đạo, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập… hoạt động phi lợi nhuận được thành lập bởi các cá nhân, tổ chức xã hội; (2) Các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân.
Lần đầu tiên, pháp luật Việt Nam ghi nhận và đưa khái niệm “khu vực ngoài nhà nước” vào Luật PCTN năm 2018. Mặc dù trong Luật này không giải thích khái niệm Khu vực ngoài nhà nước là gì?. Tuy nhiên, căn cứ vào Khoản 10, Điều 3 và Chương VI (PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước), Chương VII (các biện pháp PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước) của Luật PCTN năm 2018 và Nghị định (số 59/2019/NĐ-CP, ngày 01/7/2019) quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PCTN, chúng ta có thể xác định “khu vực ngoài nhà nước” gồm: (1) Công ty đại chúng, tổ chức tín dụng, và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt…; (2) Doanh nghiệp ngoài nhà nước([4]).
2. Phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Khái niệm tham nhũng gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với sự tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước ”mọi người có quyền lực đều có xu hướng lạm dụng quyền lực đó”([5]). Tuy vậy, hình thức, tính chất, mức độ và phương thức tham nhũng không phải lúc nào và chế độ nào cũng giống nhau. Nó thay đổi, tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội từng thời kỳ và phục thuộc vào mối quan hệ giữa sự quan tâm của xã hội với với vấn đề tham nhũng, đặc biệt trong mối quan hệ với dân chủ. Vì vậy, khi nhìn nhận, đánh giá để đưa ra khái niệm về tham nhũng thì lại khó có điểm chung giữa các nhà nghiên cứu, học giả([6]).
Từ điển bách khoa Việt Nam đưa ra khái niệm: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế – tài chính vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, xã hội… Khái niệm tham nhũng được xem là chính thống tại thời điểm hiện tại của Việt Nam được quy định trong Luật PCTN năm 2018. Tại Khoản 1, Điều 3 Luật PCTN năm 2018 quy định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Như vậy, mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về tham nhũng, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở 03 đặc điểm và cũng là 03 dấu hiệu, đặc trưng để nhận diện tham nhũng đó là: (1) Được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn; (2) Có sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó khi thực thi nhiệm vụ, công vụ được giao; (3) Thực hiện với mục đích vì vụ lợi.
Những năm qua, công tác đấu tranh PCTN luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã được điều tra, xử lý nghiêm minh, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, nhà nước ta trong PCTN, với mục tiêu “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng”. Tuy nhiên, tham nhũng vẫn là một trong những vấn đề bức xúc trong xã hội, diễn biến phức tạp, xảy ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành. Đặc biệt, các vụ việc, vụ án tham nhũng không chỉ dừng lại trong khu công, giờ đây đã và đang lan sang cả khu vực ngoài nhà nước. Có thể kể đến một số vụ án lớn, như: Vụ án Hà Văn Thắm cùng 7 đồng phạm về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”; Vụ án Phạm Công Danh và đồng phạm gây thất thoát hơn 15.000 tỷ đồng của Ngân hàng Xây dựng (VNCB); Vụ án Hứa Thị Phấn và đồng phạm; Vụ án Huỳnh Minh Hiếu tại Đà Nẵng (cựu quản lý Siêu thị 24h) về tội Tham ô tài sản.… Bên cạnh các vụ án liên quan đến tham nhũng trong khu vực tư trong nước, cũng đã phát sinh một số vụ án liên quan đến các công ty có vốn đầu nước ngoài tại Việt Nam, điển hình như: Vụ án tham ô tài sản xảy ra tại Công ty THHH Glonics Việt Nam; Công ty TNHH Hansol Electronics; Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam – Thái Nguyên… với các hành vi vi phạm pháp luật như: Mua hóa đơn GTGT, làm giả việc có mua, nhập hàng vào kho nguyên liệu của công ty và lập khống chứng từ thanh toán,…để từ đó chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra, đã xuất hiện tội phạm mới, đó là “doanh nghiệp sân sau” hay lừa đảo qua mạng và tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán, điển hình như: Vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua Facebook của gần 500 nạn nhân trên cả nước với tổng số tiền chiếm đoạt lên đến 117 tỷ đồng… tại Thừa Thiên Huế; vụ án hình sự liên quan đến Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Dược Viễn Đông cùng đồng bọn bị cơ quan chức năng khởi tố và đưa ra xét xử về tội thao túng giá chứng khoán([7])…. Từ thực tiễn tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước cho thấy, tham nhũng khu vực ngoài nhà nước là những hành vi do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện bao gồm hành vi tham ô tài sản, hành vi nhận hối lộ và hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi.
Trong điều kiện hiện nay, sự kết nối các mối quan hệ công – tư diễn ra trong nhiều lĩnh vực, chặt chẽ, đan xen lẫn nhau. Bởi vậy, việc PCTN sẽ không có ý nghĩa nếu bỏ qua khu vực ngoài nhà nước và PCTN trong khu vực ngoài nhà nước cũng chính là để PCTN trong khu vực công hiệu quả hơn. Chính vì vậy, Luật PCTN năm 2018 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh ra khu vực ngoài nhà nước nhằm đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác PCTN, nâng cao mức độ tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng, phù hợp với một số văn bản luật có liên quan là một yêu cầu tất yếu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Tóm lại, PCTN trong khu vực ngoài nhà nước là tổng thể các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nhằm ngăn ngừa, loại bỏ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng; quá trình phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử những vụ án tham nhũng tại các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước theo quy định của pháp luật.
3. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước
Ở nước ta, sự lãnh đạo của Đảng được pháp luật quy định. Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013) khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”([8]). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”([9]). Là đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam có những đặc điểm chung như tất cả các đảng cầm quyền trên thế giới, nhưng có những đặc điểm riêng: Một là, Đảng lãnh đạo, cầm quyền trong thể chế chính trị nhất nguyên, từ cuối năm 1988 đến nay là Đảng chính trị duy nhất ở Việt Nam; Hai là, Đảng lãnh đạo, cầm quyền không qua tranh cử mà như một tất yếu khách quan sau khi Đảng lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền nhà nước và cầm quyền liên tục từ năm 1945 đến nay; Ba là, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp mọi mặt toàn xã hội; Bốn là, Đảng có cơ sở chính trị là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, có thể huy động các tổ chức này tham gia xây dựng Đảng; giám sát, phản biện xã hội; phối hợp với các cơ quan nhà nước và giám sát cán bộ, công chức nhà nước.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng hợp các phương pháp, cách thức và biện pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình với tư cách là Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do Đại hội VII của Đảng thông qua và được bổ sung, phát triển năm 2011 (tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI) đã chỉ rõ các phương thức lãnh đạo của Đảng: (1) Bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; (2) Công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; (3) Công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu nhũng đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị; (4) Thông qua tổ chức Đảng và đảng viên trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu([10]).
Nội dung lãnh đạo của Đảng bao gồm những việc thuộc quyền và trách nhiệm của Đảng phải thực hiện để thực hiện sứ mệnh của mình, như: (1) Đảng đề ra đường lối, chủ trương trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để định hướng cho mọi hoạt động của Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân để thực hiện mục tiêu lý tưởng của Đảng là xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. (2) Đảng lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng thành pháp luật và tổ chức thực hiện đúng pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. (3) Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước; tham gia xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. (4) Đảng tiến hành tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận, làm luận cứ khoa học để hoàn thiện đường lối, chủ trương, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong thời kỳ mới.
Trên cơ sở khái niệm về phương thức, nội dung lãnh đạo của Đảng nói chung, chúng ta có thể rút ra: Phương thức lãnh đạo của Đảng trong PCTN khu vực ngoài nhà nước là tổng hợp các phương pháp, cách thức mà Đảng sử dụng để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình với tư cách là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội nhằm ngăn ngừa, loại bỏ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng; quá trình phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử những vụ án tham nhũng tại các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước theo quy định của pháp luật. Thể hiện bằng các phương pháp sau đây: Một là, đề ra những chủ trương, định hướng về chính sách, pháp luật về PCTN khu vực ngoài nhà nước; Hai là, thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân về PCTN khu vực ngoài nhà nước; Ba là, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về PCTN khu vực ngoài nhà nước; Thứ tư, tăng cường vai trò của chi bộ, tổ chức đảng trong khu vực ngoài nhà nước; giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý của hệ thống tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước; phát huy tính tiền phong, gương mẫu của tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Nội dung Đảng lãnh đạo công tác PCTN khu vực ngoài nhà nước bao gồm:
Thứ nhất, Đảng đề ra đường lối, chủ trương, nghị quyết về PCTN khu vực ngoài nhà nước;
Thứ hai, lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng về PCTN (nói chung); PCTN khu vực ngoài nhà nước (nói riêng) thành chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện đúng pháp luật;
Thứ ba, lãnh đạo Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đấu tranh PCTN khu vực ngoài nhà nước;
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; tiến hành tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận, làm luận khoa học để hoàn thiện đường lối, chủ trương về PCTN nói chung và PCTN khu vực ngoài nhà nước nói riêng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong thời kỳ mới.
Tóm lại, lãnh đạo vừa là chức năng vừa là thuộc tính của Đảng. Chức năng lãnh đạo nà đã và đang xuyên suốt toàn bộ quá trình tồn tại, chiến đấu, thực hiện mục đích, lý tưởng của Đảng ta từ khi thành lập cho đến nay. Nhưng, để làm tốt chức năng đó, Đảng phải nhân lên sức mạnh của mình; truyền sức sống, tư tưởng và ý chí của Đảng vào phong trào quần chúng; đặc biệt, đảng phải nắm lấy trụ cột xã hội, sức mạnh chính trị – đó là Nhà nước.
Bài 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG KHU VỰC NGOÀI NHÀ NƯỚC
Vấn đề phòng, chống tham nhũng (PCTN) khu vực ngoài nhà nước đã được đặt ra từ năm 2009, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng. Tuy nhiên, năm 2016, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãnh phí”, chủ trương mở rộng hoạt động PCTN ra khu vực ngoài nhà nước mới chính thức được đưa vào Văn kiện Đảng và tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai công tác PCTN trong khu vực ngoài nhà nước và thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Những kết quả này, cần được nhìn nhận một cách trung thực, khách quan từ thực tiễn.
1. Chủ trương, chính sách của Đảng về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, tham nhũng là “giặc nội xâm”, là “kẻ thù của Nhân dân”. Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta nhấn mạnh tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó, ở mỗi thời kỳ, trong từng giai đoạn lịch sử, Đảng ta luôn giành sự quan tâm đặc biệt đến công tác PCTN.
Xuất phát từ yêu cầu và tầm quan trọng của công tác đấu tranh PCTN trong tình hình mới, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã ban hành Nghị quyết (số 04-NQ/TW, ngày 21/8/2006) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí”, với mục tiêu: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”. Điều đó thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta; kiên quyết đấu tranh làm trong sạch bộ máy, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng đội ngũ công chức thật sự trong sạch, vững mạnh, tạo bước chuyển mới trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống tệ nạn tham nhũng, lãng phí mà Đảng nắm giữ ngọn cờ lãnh đạo.
Đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương ba (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí” (2006-2016), Đảng ta nhấn mạnh: Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp đã nghiêm túc tổ chức quán triệt Nghị quyết và Kết luận số 21 Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI); một số nơi tiến hành bài bản, sáng tạo. Các chủ trương, giải pháp PCTN, lãng phí cơ bản được triển khai thực hiện khá đồng bộ, tạo chuyển biến tích cực, rõ nét. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về PCTN, lãng phí được quan tâm; thể chế về quản lý kinh tế – xã hội và PCTN, lãng phí tiếp tục được hoàn thiện; công tác cải cách hành chính, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đạt được những kết quả tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc tham nhũng được tăng cường. Nhiều vụ án kinh tế tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và nhân dân trong PCTN, lãng phí từng bước được phát huy. Hợp tác quốc tế về PCTN tiếp tục được mở rộng, củng cố. Tham nhũng, lãng phí bước đầu được kiềm chế, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Bên cạnh những kết quả, Đảng cũng chỉ ra những hạn chế và yếu kém, đó là: Chưa tạo được sự chuyển biến căn bản về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và người dân về PCTN, lãng phí; cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế – xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn; công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tự phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị; công tác giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp về PCTN, lãng phí chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa được quan tâm đúng mức; lãng phí trong cơ quan nhà nước và trong xã hội còn rất nghiêm trọng; chưa đạt được mục tiêu “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”. Tham nhũng, lãng phí với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên diện rộng, cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, đang là vấn đề thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước… Đặc biệt, tham nhũng giờ đây, không chỉ trong khu vực nhà nước (khu vực công), mà nó đã lan sang cả khu vực ngoài nhà nước (khu vực tư).
Trên cơ sở kết quả tổng kết 10 năm hiện Nghị quyết Trung ương ba (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí”, ngày 26/12/2016, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận (số 10-KL/TW) “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương ba (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí” và đề ra chủ trương mở rộng hoạt động PCTN ra khu vực ngoài nhà nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Từng bước mở rộng hoạt động PCTN, lãng phí ngoài khu vực nhà nước”([11]).
Như vậy, việc mở rộng PCTN ra khu vực ngoài nhà nước là bước phát triển quan trọng trong tư duy, thể hiện Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ hơn những tác động tiêu cực của tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước đến mục tiêu, giải pháp PCTN nói chung ở nước ta. Đây là những định hướng, chủ trương mới, quan trọng cho việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về PCTN khu vực ngoài nhà nước.
2. Thực trạng quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước
Lần đầu tiên Luật PCTN năm 2018, chính thức ghi nhận và quy định PCTN trong khu vực ngoài nhà nước. Khoản 2, Điều 2 quy định: “Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện bao gồm: (a) Tham ô tài sản; (b) Nhận hối lộ; (c) Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi”.
Điều 4 quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: (a) Thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng; kịp thời phát hiện, phản ánh và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý tham nhũng xảy ra trong doanh nghiệp, tổ chức mình theo quy định của pháp luật và điều lệ, quy chế, quy định của doanh nghiệp, tổ chức; (b) Kịp thời cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng của người có chức vụ, quyền hạn và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý tham nhũng.
Điều 76 quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề: (1) Tuyên truyền, động viên người lao động, thành viên, hội viên của mình thực hiện quy định của pháp luật về PCTN; tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; kịp thời thông báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi tham nhũng; (2) Kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về PCTN; (3) Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phối hợp với hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề tổ chức diễn đàn để trao đổi, cung cấp thông tin, phục vụ công tác PCTN.
Đặc biệt, tại Chương VII, Luật PCTN năm 2018 quy định về PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Tại Mục 1. Xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng, quy định: “Điều 78. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh: (1) Quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh là chuẩn mực ứng xử phù hợp với đặc thù chuyên môn, nghề nghiệp của người hành nghề, người hoạt động kinh doanh nhằm bảo đảm liêm chính trong hành nghề, kinh doanh. (2) Khuyến khích doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, căn cứ vào quy định của Luật này và luật khác có liên quan, ban hành quy tắc đạo đức kinh doanh, quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với người lao động, thành viên, hội viên của mình. Điều 79. Xây dựng quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa tham nhũng: (1) Doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác ban hành, thực hiện quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa xung đột lợi ích, ngăn chặn hành vi tham nhũng và xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng. (2) Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức, động viên, khuyến khích thành viên, hội viên xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng; giám sát việc chấp hành pháp luật về PCTN của thành viên, hội viên, tích cực tham gia vào việc hoàn thiện chính sách, pháp luật”.
Tại Mục 2. Áp dụng Luật PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, có 03 điều: “Điều 80. Áp dụng các biện pháp PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: Các quy định sau đây được áp dụng đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và đối với tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện: (a) Nguyên tắc công khai, minh bạch, nội dung công khai, minh bạch, hình thức công khai, trách nhiệm thực hiện việc công khai, minh bạch quy định tại Điều 9, các điểm a, c và d, Khoản 1, Điều 10, Điều 11 và Điều 12 của Luật này; (b) Kiểm soát xung đột lợi ích quy định tại Điều 23 của Luật này; (c) Trách nhiệm, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu quy định tại Điều 72, các điểm a, b và d, Khoản 3, Điều 73 của Luật này (…). Điều 81. Thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: (1) Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng, đối với tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện khi có dấu hiệu rõ ràng về việc vi phạm quy định tại Điều 80 của Luật này. (2) Trình tự, thủ tục thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN quy định tại Khoản 1 Điều này được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra. (3) Tổng Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm xử lý chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra quy định tại Khoản 1 Điều này. (4) Chính phủ quy định chi tiết Điều này. Điều 82. Phát hiện tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: (1) Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có trách nhiệm tự kiểm tra để kịp thời phát hiện, xử lý và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức mình. (2) Cơ quan thanh tra khi tiến hành hoạt động thanh tra nếu phát hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có trách nhiệm xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. (3) Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khi phát hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có trách nhiệm phản ánh, tố cáo, báo cáo theo quy định tại Mục 3 Chương III của Luật này”.
Ngoài Luật PCTN năm 2018, một số văn bản luật khác cũng đã quy định về PCTN khu vực ngoài nhà nước. Bộ luật hình sự năm 2015, quy định các tội phạm tham nhũng, gồm: Tội tham ô tài sản; Tội nhận hối lộ; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Tội lạm dụng quyền trong khi thi hành công vụ; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; Tội giả mạo trong công tác([12]). Khoản 2 và 3, Điều 8, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc thực hiện PCTN([13]). Khoản 6, Điều 41, Luật Chứng khoán năm 2019, nêu một số quy định có liên quan đến phòng ngừa tham nhũng ở công ty đại chúng([14]). Luật các tổ chức tín dụng năm 2017 quy định nhằm kiểm soát xung đột lợi ích trong các tổ chức tín dụng. Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định các loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó có những loại thỏa thuận bị cấm và các loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm([15]). Bên cạnh đó, để nhận diện những hành vi có tính chất tham nhũng trong khu vực tư, ở một số văn bản, Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán([16]) và kiểm toán([17]).
Như vậy, mặc dù Luật PCTN năm 2018, Bộ luật hình sự năm 2015 và một số Luật chuyên ngành đã quy định trách nhiệm PCTN của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp, các tổ chức khu vực ngoài nhà nước nói riêng, nhưng nhìn chung là chưa thống nhất, chưa đồng bộ. Việc quy định xử phạt hành chính đối với những hành vi tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước hầu như rất hiếm và chưa cụ thể, hoặc nếu có thì lại không phải là chế tài trực tiếp đối với những hành vi mang bản chất tham nhũng.
3. Quá trình tổ chức triển khai thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước
– Vai trò của tổ chức chức đảng và đảng viên trong khu vực ngoài nhà nước
Để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo của Đảng, một trong nhiệm vụ quan trọng đó là xây dựng và củng cố tổ chức đảng, đảng viên trong khu vực ngoài nhà nước. Những năm qua, để triển khai, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở, các tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân đã để cụ thể hóa nhiệm vụ chính trị và xây dựng quy chế làm việc phù hợp với tình hình thực tiễn. Các đảng bộ, chi bộ đã xây dựng quy chế phối hợp giữa cấp ủy đảng với Ban lãnh đạo hoặc chủ doanh nghiệp nhằm xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bên trong phát triển doanh nghiệp cũng như nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng.
Nhiều tổ chức đảng đã giữ được vai trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo xây dựng cơ quan, đơn vị; tham gia ý kiến về chiến lược, kế hoạch kinh doanh; có hình thức, biện pháp phù hợp để tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong đó có pháp luật về PCTN nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, đảng viên và người lao động; cấp ủy kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những kiến nghị, đề xuất của đảng viên, quần chủng để phản ánh với chủ doanh nghiệp xem xét, giải quyết.
Một số cấp ủy đã chủ động xây dựng quy hoạch, lựa chọn cán bộ có đủ năng lực, bản lĩnh, uy tín, am hiểu công tác đảng tham gia cấp ủy; lựa chọn bầu bí thư cấp ủy là lãnh đạo, chủ doanh nghiệp; giới thiệu cán bộ, đảng viên có uy tín để chủ doanh nghiệp xem xét, bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý… Những tổ chức đảng có cấp ủy viên, nhất là bí thư cấp ủy là lãnh đạo, chủ doanh nghiệp đã thể hiện rõ vị trí, vai trò, có đóng góp thiết thực vào sự phát triển của doanh nghiệp, chất lượng hoạt động của tổ chức đảng được nâng lên. Qua đó, tạo niềm tin, nâng cao uy tín của tổ chức đảng đối với chủ doanh nghiệp, người lao động.
Nhiều tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân đã duy trì và từng bước nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh. Có nơi đã mời chủ doanh nghiệp dự sinh hoạt chi bộ, chủ động trao đổi nội dung sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ với chủ doanh nghiệp. Việc đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng hằng năm dần đi vào nền nếp, kết quả ngày càng thực chất hơn.
– Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước
– Xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử: Hiện tại, nhiều tổ chức, doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước đã xây dựng, ban hành và thực hiện quy định về chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử nghề nghiệp, cụ thể là: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã ban hành “Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng”([18]); Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã ban hành Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam([19]); Hội Nhà báo Việt Nam đã ban hành Quy định đạo đức, nghề nghiệp người làm báo Việt Nam([20])… Đối với các tổ chức xã hội khác và các doanh nghiệp, hầu hết đã và đang thực hiện quy chế văn hóa ứng xử, hoặc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
– Thực hiện các biện pháp công khai, minh bạch: Theo quy định của Luật PCTN năm 2018, việc công khai, minh bạch các nội dung: Quy chế huy động, quản lý, sử dụng các khoản đóng góp để hoạt động từ thiện; quyền lợi và nghĩa vụ của người đóng góp, người được hưởng lợi; mục đích huy động các khoản đóng góp để hoạt động từ thiện; đối tượng, hình thức và mức huy động các khoản đóng góp; kết quả huy động, bao gồm: Danh sách các đối tượng đóng góp, tài trợ, hình thức và mức đóng góp, tài trợ của từng đối tượng; kết quả quản lý, sử dụng các khoản huy động vào mục đích từ thiện… đã được thực hiện tương đối đầy đủ. Một số cơ quan, tổ chức, như: Hội chữ thập đỏ, Quỹ vì người nghèo… đều đã thực hiện việc công khai thông tin về các khoản đóng góp trên các phương tiện thông tin đại chúng; có tổ chức còn thuê đơn vị kiểm toán để kiểm toán các khoản thu, chi của tổ chức. Hình thức công khai, chủ yếu là hình thức thông báo tại cuộc họp, niêm yết tại trụ sở hoặc thông báo bằng văn bản.
Đối với các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường chứng khoán, việc thực hiện công khai (công bố thông tin) được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và chặt chẽ hơn. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan có thẩm quyền theo dõi, giám sát và xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp niêm yết không công khai thông tin theo quy định. Đối với các tổ chức có sự huy động việc đóng góp của nhân dân, việc thực hiện công khai thông tin thực hiện theo quy chế, điều lệ của tổ chức.
– Kiểm soát xung đột lợi ích: Luật PCTN năm 2018 quy định các tổ chức tín dụng là một trong những nhóm chủ thể bắt buộc phải áp dụng một số quy định về kiểm soát xung đột lợi ích. Những năm qua, các đơn vị trong ngân hàng, đặc biệt là các tổ chức tín dụng đã triển khai, quán triệt đến từng cán bộ, nhân viên nhằm nâng cao nhận thức việc phải áp dụng quy định về kiểm soát xung đột lợi ích([21]). Đối với các công ty cổ phần, nhất là các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán, việc kiểm soát xung đột lợi ích được thực hiện chặt chẽ, minh bạch và có cơ chế rõ ràng.
– Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu: Để kiểm soát xung đột lợi ích và quy định chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, các doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp có quy mô lớn) đều đã ban hành và thực hiện cơ chế kiểm soát nội bộ. Việc bảo đảm liêm chính và xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng để tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng không chỉ là yêu cầu của Luật PCTN mà còn là nhu cầu tự thân của chính các doanh nghiệp, tổ chức để hướng tới sự phát triển bền vững. Vì thế, một số doanh nghiệp có quy mô lớn đã ban hành Hệ thống quản lý chất lượng (ISO 9001) nhằm cụ thể hóa từng công đoạn, quy trình thực hiện nhiệm vụ của mỗi cấp quản lý (gắn với các biểu mẫu), cụ thể hóa được thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp quản lý trong hoạt động quản lý, điều hành doanh nghiệp. Có thể nói rằng, việc kiểm soát nội bộ là một phương thức hữu hiệu để bảo đảm sự liêm chính trong hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức([22]).
– Công tác phát hiện và xử lý tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức xã hội khu vực ngoài nhà nước
+ Phát hiện tham nhũng qua công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của các cơ quan có thẩm quyền. Năm 2019, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã triển khai 49 Đoàn thanh tra, kiểm tra tại các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đại chúng; đã xử phạt vi phạm hành chính số tiền 25.560 triệu đồng, số tiền đã thu nộp ngân sách nhà nước 4.679 triệu đồng; đã ban hành 469 quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, với tổng số tiền xử phạt gần 29 tỷ đồng (năm 2018 ra 364 quyết định xử phạt vi phạm hành chính; tổng số tiền phạt gần 20 tỷ đồng)([23]). Từ tháng 9/2019 đến tháng 10/2020, Ngân hàng Nhà nước lồng ghép nội dung thanh tra việc thực hiện pháp luật PCTN trong các cuộc thanh tra pháp nhân([24]). Qua công tác thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố phát hiện 03 vụ việc có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật; tổng số tiền sai phạm 35.427 triệu đồng; 03 vụ việc đang được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh tiến hành điều tra([25]). Tại Kiên Giang, qua thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN đã phát hiện 02 vụ việc có dấu hiệu tham nhũng tại các doanh nghiệp ngoài nhà nước([26]). Năm 2020, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị xử lý tài chính 54.770,44 tỷ đồng; chuyển hồ sơ 04 vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện thông qua kiểm toán sang Cơ quan Cảnh sát điều tra để điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật; 02 vụ việc báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công an điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật; cung cấp 101 báo cáo kiểm toán và các tài liệu có liên quan cho các cơ quan chức năng([27]).
+ Phát hiện tham nhũng qua việc kiểm tra, giám sát nội bộ của các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Năm 2019, qua công tác tự kiểm tra nội bộ phát hiện 26 vụ, 30 đối tượng; qua hoạt động thanh tra đã phát hiện 69 vụ, 45 đối tượng tham nhũng và liên quan đến tham nhũng; qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phát hiện 17 vụ, 37 đối tượng có hành vi liên quan đến tham nhũng([28]).
Trong ngành Ngân hàng, kết quả phát hiện, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật qua hoạt động kiểm tra và tự kiểm tra nội bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị cho thấy: Phát hiện 05 vụ việc vi phạm pháp luật, tổng số tiền vi phạm 22.209 triệu đồng; số cán bộ vi phạm 05 người ([29]).
Kết quả phát hiện tham nhũng qua thanh tra, kiểm tra của các ngành vẫn là khâu yếu đã được các cơ quan có thẩm quyền chỉ ra: “Việc phát hiện tham nhũng thông qua công tác tự kiểm tra nội bộ, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới là khâu yếu, nhưng vẫn chưa được khắc phục”([30]).
4. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là một bộ phận cấu thành công tác lãnh đạo của Đảng. Từ năm 2013 đến nay, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN (nay là Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực) do Tổng Bí thư trực tiếp làm Trưởng ban rất quan tâm đến việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực PCTN. Trong Chương trình công tác thường xuyên hằng năm của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực đều có chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện nội dung PCTN tại cấp ủy đảng các cấp. Ngoài kế hoạch thường xuyên, Ban Chỉ đạo Trung ương còn ban hành kế hoạch kiểm tra, giám sát theo chuyên đề.
– Năm 2013, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN thành lập 07 Đoàn công tác kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng nghiệm trọng, phức tạp([31]), tại: 04 ban cán sự đảng và Đảng ủy; 11 Ban Thường vụ tỉnh, thành ủy; 70 cơ quan, đơn vị trực thuộc. Trên cơ sở kết quả các Đoàn kiểm tra, giám sát này, ngày 07/12/2015, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng.
– Từ năm 2013 đến năm 2018, trên cơ sở các Đoàn kiểm tra, giám sát công tác PCTN của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã nêu ra 62 kiến nghị, trong đó có 42 kiến nghị về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thu hồi tài sản tham nhũng; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát việc thu hồi tài sản; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản; chỉ đạo kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân sai phạm trong công tác thu hồi tài sản…; 20 kiến nghị khắc phục sơ hở, bất cập về cơ chế, chính sách, pháp luật; chỉ đạo xử lý 02 vụ án, 20 vụ việc về thu hồi tài sản nghiêm trọng, phức tạp hoặc có khó khăn, vướng mắc, kéo dài([32]). Từ kết quả này, ngày 02/6/2021, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị (số 04-CT/TW) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
– Năm 2019, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN tổ chức 03 Đoàn công tác kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đối với công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; làm việc với 06 Ban Thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; 76 cơ quan, đơn vị trực thuộc. Kết quả đã đưa ra nhiều nhóm kiến nghị đối với các địa phương để khắc phục các hạn chế, thiếu sót; kiến nghị chỉ đạo xử lý 61 vụ việc, 07 vụ án([33])…
Như vậy, có thể nói, công tác kiểm tra, giám sát của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã góp phần: (1) Bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với lĩnh vực PCTN; (2) Tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm kỷ cương xã hội; (3) Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng.
Bài 3: HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG KHU VỰC NGOÀI NHÀ NƯỚC DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Với quyết tâm chính trị, sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, tập trung, thống nhất của Đảng, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, các ngành, các địa phương, công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) ở nước ta “từng bước được kiềm chế, ngăn chặn và có chiều hướng giảm”. Trong thành tích chung về PCTN, có sự đóng góp rất lớn và hiệu quả của công tác PCTN khu vực ngoài nhà nước. Bên cạnh những kết quả cụ thể đã được nêu trong bài đăng tại Tạp chí số 93 (tháng 10/2021), công tác PCTN trong khu vực ngoài nhà nước vẫn còn nhiều khuyết điểm, hạn chế. Bài viết này sẽ nêu hạn chế, khó khăn và những vấn đề rút ra từ thực tiễn quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về PCTN trong khu vực ngoài nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1. Những khó khăn, hạn chế
Thứ nhất: Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng và đảng viên; vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước
– Xác định rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác Đảng, công tác chính trị trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, từ năm 1996 đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để tăng cường công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước([34]), tuy nhiên, đến nay, theo báo cáo, “tính đến ngày 31/12/2020, cả nước thành lập được 6.846 tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, chiếm 0,8% tổng số doanh nghiệp tư nhân. Trong tổng số tổ chức đảng, doanh nghiệp tư nhân có 4.569 tổ chức cơ sở đảng, chiếm 8,4% tổ chức cơ sở đảng của toàn Đảng với 113.042 đảng viên, chiếm 2,2% tổng số đảng viên toàn Đảng”([35]). Nhiều “cấp ủy, tổ chức đảng chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc quan điểm, chủ trương về phát triển Đảng trong doanh nghiệp tư nhân. Chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nên chưa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên, tỷ lệ số tổ chức đảng trên tổng số đơn vị cũng như số đảng viên trên tổng số lao động trong khu vực kinh tế tư nhân còn rất thấp”([36]).
– Trong số đảng viên làm kinh tế tư nhân, hoạt động kinh doanh, “vẫn còn hiện tượng một bộ phận đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, buôn gian, bán lận. Gian dối khi làm các nghĩa vụ của người kinh doanh đối với Nhà nước, người lao động và xã hội. Vì lợi nhuận mà vô trách nhiệm đối với môi trường và sinh kế của người lao động. Ngoài ra, có những doanh nghiệp, có sự hậu thuẫn của một số đảng viên là cán bộ, công chức, lợi dụng uy tín cá nhân, danh nghĩa tổ chức tác động, tạo điều kiện thuận lợi cho người thân (vợ, chồng, con…) trục lợi theo dạng quan hệ “lợi ích nhóm”, thao túng chính sách, tạo ra hiện tượng “sân sau” gây nên bất bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài nhà nước nói riêng”([37])
– Vai trò của tổ chức đảng, đảng viên khu vực ngoài nhà nước còn mờ nhạt; “nội dung và phương thức hoạt động chưa rõ ràng, lúng túng; chất lượng sinh hoạt Đảng còn nhiều hạn chế. Việc kết nạp công nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng có chuyển biến, nhưng kết quả chưa cao”([38]). Nhiều tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân khó khăn về kinh phí hoạt động, phụ thuộc vào doanh nghiệp; chưa có chế độ khuyến khích, động viên cán bộ làm công tác Đảng; một số tổ chức đảng chưa có nơi sinh hoạt ổn định.
– Công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tính tiền phong, gương mẫu và sự đóng góp của đảng viên đối với sự phát triển của doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước còn mờ nhạt, hạn chế.
Thứ hai: Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về PCTN khu vực ngoài nhà nước
– Quy định pháp luật về PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chưa hoàn thiện.
+ Chưa quy định về việc xử lý hành chính đối với hành vi tham nhũng trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: Mặc dù pháp luật chuyên ngành đã có những quy định về xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trong hoạt động sản xuất, kinh doanh (ví dụ: Nghị định số 108/2013/NĐ-CP, ngày 23/9/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, trong đó quy định các hình thức xử lý đối với doanh nghiệp khi vi phạm về công bố thông tin; vi phạm về xung đột lợi ích. Nghị định số 41/2018/NĐ-CP, ngày 12/3/2018 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập, trong đó có quy định về hành vi vi phạm về chứng từ, sổ kế toán; vi phạm quy định về công khai báo cáo tài chính… Ngoài ra, trong khu vực công, đã điều chỉnh về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức khi có vi phạm pháp luật PCTN), tuy nhiên, Luật PCTN năm 2018 chưa quy định, điều chỉnh các hành vi vi phạm pháp luật về PCTN. Việc thiếu vắng quy định điều chỉnh trực tiếp đối với các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật PCTN sẽ hạn chế đến hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện các quy định này trong thực tiễn.
+ Chưa có quy định về trình tự, thủ tục thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: Hiện nay, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư số 02/2012/TT-TTCP, ngày 13/7/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thẩm quyền, nội dung thanh tra trách nhiệm thực hiện các quy định pháp luật về PCTN. Tuy nhiên, Thông tư này đã lâu, trách nhiệm thực hiện pháp luật về PCTN của doanh nghiệp ở đây là doanh nghiệp nhà nước. Trách nhiệm thực hiện pháp luật về PCTN; trình tự, thủ tục, xử lý vi phạm khi thanh tra phát hiện doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có hành vi vi phạm thì chưa được quy định cụ thể. Chưa có quy định về phối hợp giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực trong cung cấp, chia sẻ thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp; phối hợp trong áp dụng các biện pháp xử lý trong kinh doanh. Chưa có quy định về thẩm quyền của các cơ quan thanh tra đối với từng loại hình doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, nhất là thẩm quyền của các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và theo ngành, lĩnh vực.
– Quy định pháp luật về PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước còn chồng chéo, trùng lắp.
Tại Điểm d, Khoản 2, Điều 20 của Luật PCTN năm 2018 quy định người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã thuộc lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý trong thời hạn nhất định theo quy định. Nghị định số 59/2019/NĐ-CP đã quy định thời hạn người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã thuộc lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý. Tuy nhiên, trong Luật Hợp tác xã (Điều 12), Luật Doanh nghiệp (Điều 16) chưa có quy định cấm người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã sau khi thôi chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước.
– Các cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản hướng dẫn chi tiết để thực hiện pháp luật PCTN tại doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
Mặc dù Luật PCTN năm 2018 đã có hiệu lực hơn ba năm, đến nay, hầu hết các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, Hiệp hội ngành nghề… chưa ban hành các quy định hướng dẫn về xây dựng Bộ quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức kinh doanh; xây dựng và áp dụng các chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là các chuẩn mực về công bố và minh bạch thông tin, quản lý rủi ro; hướng dẫn về tổ chức, hoạt động của bộ phận kiểm soát nội bộ tại doanh nghiệp, việc xử lý tình huống xung đột lợi ích trong doanh nghiệp; hướng dẫn, tập huấn, tư vấn đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước; phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức diễn đàn để trao đổi, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, tổ chức phục vụ công tác PCTN.
Thứ ba: Về tổ chức thực hiện pháp luật PCTN trong khu vực ngoài nhà nước
– Công tác truyền thông về thực hiện pháp Luật PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chưa được chú trọng, tăng cường.
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về PCTN, nhưng Thanh tra Chính phủ chưa quan tâm nhiều đến các nội dung, như: (1) Thông tin, tuyên truyền, quán triệt nội dung, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước trong PCTN; (2) Phương pháp thông tin, tuyên truyền, quán triệt triển khai tổ chức thực hiện Luật PCTN nói chung và PCTN khu vực ngoài nhà nước nói riêng chưa có sự đổi mới, cải tiến (cách thức truyền thông chủ yếu theo hướng một chiều, thực hiện trên các phương tiện truyền thông sẵn có, với nguồn lực hạn chế, chưa quan tâm đến hiệu quả của công tác thông tin, tuyên truyền); (3) Công tác phối hợp giữa Thanh tra Chính phủ với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các tổ chức quốc tế, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, còn nhiều hạn chế…
– Vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước, Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội ngành nghề trong việc xây dựng, hướng dẫn, vận động các thành viên của hiệp hội thực hiện pháp luật PCTN còn mờ nhạt.
Thực tiễn cho thấy, vai trò quản lý của các cơ quan chủ quản; tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội ngành nghề… chưa thể hiện rõ nét, ở các việc: Chưa chủ động ban hành các văn bản dưới luật để doanh nghiệp, tổ chức áp dụng; chưa đưa ra các hình thức khuyến khích doanh nghiệp cam kết mạnh mẽ với kinh doanh liêm chính; chưa tổ chức nhiều diễn đàn đối thoại thường xuyên giữa Chính phủ và doanh nghiệp; chưa đẩy mạnh việc truyền thông, hướng dẫn, tập huấn, tư vấn đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước; sự hỗ trợ của Hiệp hội doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu trong kiểm soát nội bộ, xây dựng và thực hiện chính sách phòng, chống tiêu cực, gian lận trong kinh doanh hiện nay là chưa hiệu quả.
– Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chưa quan tâm quán triệt và tổ chức thực hiện các biện pháp PCTN theo quy định của pháp luật.
Thực tế cho thấy (cả những nơi có cấp ủy, tổ chức đảng), chưa quan tâm đến công tác thông tin, tuyên truyền, quán triệt các nội dung về PCTN trong đơn vị mình. Ban Giám đốc hoặc Hội đồng quản trị các doanh nghiệp trong doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị mình, chưa xây dựng Bộ quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh, cơ chế kiểm soát nội bộ. Nhiều doanh nghiệp chưa có quan điểm nhất quán trong việc xây dựng văn hóa, đạo đức kinh doanh lành mạnh. Vẫn còn tình trạng hối lộ, bôi trơn, gửi giá, cảm ơn… các quan chức khu vực công để tạo lợi thế trong kinh doanh cho doanh nghiệp mình.
– Công tác thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về PCTN tại các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chưa được các cơ quan thanh tra thực hiện.
Đến nay, các cơ quan thanh tra (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các tỉnh, thành phố) chưa thành lập các đoàn công tác thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về PCTN trong khu vực ngoài nhà nước. Năm 2020, trong hướng dẫn xây dựng Kế hoạch thanh tra công tác PCTN, Thanh tra Chính phủ chỉ thanh tra, kiểm tra công tác kê khai tài sản, xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; thực hiện quy định về công khai, minh bạch trên các lĩnh vực, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư và dự án đầu tư, tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức… Đây là nội dung thanh tra trong khu vực nhà nước, còn việc thanh tra thực hiện pháp luật về PCTN khu vực ngoài nhà nước thì chưa có bất kỳ một hướng dẫn nào([39]).
Thứ tư: Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong việc tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về PCTN
Những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về PCTN đã được Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất quan tâm([40]) và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên, việc kiểm tra, giám sát công tác PCTN mới chủ yếu ở khu vực công. Thực tế cho thấy, kết quả khảo sát của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN về công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế giai đoạn 2013-2018 cho thấy, 92,47% tiền, tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát này liên quan trực tiếp đến các tổ chức tín dụng; 42 vụ án xảy ra tại ngân hàng trong tổng số 160 vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN theo dõi, chỉ đạo (trong hơn 08 năm qua) chiếm tỷ lệ gần 30%; số gián tiếp liện quan đến vụ án tới 80%([41]). Như vậy, lĩnh vực tài chính, ngân hàng và các tổ chức tín dụng là một trong những tổ chức khu vực ngoài nhà nước chịu sự điều chỉnh của Luật PCTN năm 2018. Thời gian vừa qua, công tác này chưa được triển khai thực hiện.
Ngay trong báo cáo về công tác PCTN, thì những số liệu về kết quả công tác PCTN; kết quả của thanh tra nhà nước khu vực ngoài nhà nước còn rất ít và rất mờ nhạt. Điều này cho thấy sự quan tâm của cấp ủy, tổ chức đảng; các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp còn ở mức độ hạn chế; do vậy, công tác kiểm tra, đôn đốc PCTN trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước mờ nhạt là điều dễ hiểu.
2. Nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất: Nhận thức về vị trí, vai trò của cấp ủy đảng, đảng viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước chưa rõ ràng. Việc quán triệt, tổ chức và thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước còn nhiều hạn chế. Vai trò, của cấp ủy, tổ chức chức đảng; tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên trong việc thực hiện pháp luật về PCTN trong khu vực ngoài nhà nước còn hạn chế, hiệu quả thấp.
Thứ hai: Thể chế về quản lý kinh tế – xã hội và PCTN còn chậm được sửa đổi, bổ sung; còn nhiều chồng chéo, chưa đồng bộ. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện pháp luật về PCTN khu vực ngoài nhà nước của các bộ, ngành, địa phương, đơn vị chưa nghiêm túc.
Thứ ba: Nhận thức của một số chủ doanh nghiệp về vai trò, sự cần thiết phải có tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân chưa đầy đủ, sâu sắc; có lúc, có nơi thiếu thống nhất; thậm chí có một số chủ đơn vị kinh tế tư nhân không ủng hộ việc thành lập và chưa tạo điều kiện để tổ chức đảng hoạt động. Việc tổ chức quán triệt, thông tin, tuyên truyền và triển khai thực hiện quy định pháp luật tại doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chưa được quan tâm đúng mức và thực hiện chưa nghiêm.
Thứ tư: Ý thức pháp luật, đạo đức, tập quán kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nhân ở Việt Nam có nhiều hạn chế. Với văn hóa của người Việt là “miếng trầu là đầu câu chuyện”; “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” hoặc văn hóa “phong bì”, “quà biếu” để “bôi trơn”, “lại quả”, “cảm ơn”… gần như là thông lệ chung, mặc định trong các quan hệ giao dịch của người Việt. Do vậy, có sự nhầm lẫn giữa phận sự, trách nhiệm thực thi nhiệm vụ với đạo đức, ý thức pháp luật kinh doanh trong cơ quan, doanh nghiệp ngoài nhà nước. Những nhầm lẫn này vô tình biến một thông lệ xấu trở thành “luật bất thành văn” trong đạo đức, tập quán kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó, có thể dẫn tới sai lệch trong hình thành các chuẩn mực đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật và tập quán kinh doanh trong doanh nghiệp.
3. Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Một là: Kiên quyết, kiên trì mục tiêu “ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng” dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những năm qua, “từ sau khi thành lập Ban Chỉ đạo (năm 2013), nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác đấu tranh PCTN đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự “đã trở thành phong trào, xu thế”, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Theo kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành mới đây, tuyệt đại đa số ý kiến người dân (93%) bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh PCTN; “khiến cho mọi sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch đều trở nên trơ trẽn, nực cười. Đó là thành công lớn trong công tác PCTN của chúng ta”([42]). Tuy vậy, tham nhũng luôn “thay hình, đổi dạng” với những biểu hiện, thủ đoạn tinh vi, phức tạp. Xuất hiện những nhóm lợi ích đứng đầu là những người có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước, không từ một thủ đoạn, mưu mô nào để đục khoét tài sản quốc gia. Tham nhũng xảy ra ở nhiều lĩnh vực, từ tài nguyên đất đai, khoáng sản, tài sản công, đầu tư công, cổ phần hóa, quản lý vốn nhà nước…, đến thành lập công ty “sân sau”, liên kết, thông đồng “lợi ích nhóm” giữa khu vực công với khu vực tư, khu vực ngoài nhà nước. Tham nhũng vẫn là một trong bốn nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của chế độ, là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng ta. Vì thế, PCTN là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và hệ thống chính trị cả ở hiện tại và trong thời gian tới. Để làm tròn sứ mệnh lãnh đạo của mình, trước hết cấp ủy và tổ chức đảng các cấp tiếp tục nâng cao nhận thức (cả lý luận và thực tiễn) về vị trí, vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung trong PCTN và PCTN trong khu vực ngoài nhà nước nói riêng; tiếp tục xây dựng và củng cố, phát triển tổ chức đảng và đảng viên trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong PCTN khu vực ngoài nhà nước.
Hai là: Hoàn thiện thể chế về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị; quản lý kinh tế – xã hội và PCTN để “không thể tham nhũng”.
Từ năm 2013 đến năm 2020, “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành hơn 200 văn bản về xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị và PCTN”([43]); các quy định về phát triển đảng và đảng viên trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước; các quy định về chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kiểm tra, giám sát, phòng, chống tiêu cực đối với cán bộ và công tác cán bộ; xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng; bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực… “Từ năm 2013 đến nay, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới 259 luật, pháp lệnh, nghị quyết; nhất là đã tập trung sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều văn bản pháp luật về phòng ngừa và xử lý tham nhũng. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hàng ngàn nghị định, nghị quyết, quy định; các bộ, ngành, địa phương đã ban hành gần 88 ngàn văn bản để triển khai thực hiện chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về PCTN”([44]); trong đó có các quy định pháp luật khu vực ngoài nhà nước. Tuy nhiên, cần tập trung xây dựng các quy chế nội bộ của Đảng, các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, liêm chính, gương mẫu đi đầu trong PCTN; hoàn thiện các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ; về kiểm soát tài sản, thu nhập và xử lý tài sản bất minh của cán bộ, công chức, viên chức; cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Bên cạnh đó, cần chú trọng kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật để hạn chế sự tác động tiêu cực của “nhóm lợi ích”, “sân sau”, “tư duy nhiệm kỳ”, ngăn chặn nguy cơ nảy sinh tham nhũng ngay từ khi xây dựng chính sách. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật; khắc phục tình trạng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước không thiếu, nhưng thực hiện không nghiêm, không hiệu quả.
Ba là: Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng; tập trung thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng theo quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”.
Trong giai đoạn năm 2013 đến năm 2020, “cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 131 ngàn đảng viên, trong đó, có hơn 6.000 đảng viên sai phạm về tham nhũng, cố ý làm trái. Riêng trong nhiệm kỳ Đại hội XII đã thi hành kỷ luật 87 ngàn đảng viên, trong đó, có 3.263 đảng viên có liên quan đến tham nhũng; Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã quyết định kỷ luật 10 tổ chức đảng trực thuộc Trung ương và hơn 110 cán bộ diện Trung ương quản lý (trong đó, có 27 đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 04 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị), cả cán bộ trong lực lượng vũ trang, lãnh đạo chủ chốt các địa phương, đơn vị, cả đương chức và nghỉ hưu([45])… Nhiều đồng chí bị kỷ luật liên quan đến những sai phạm, tham nhũng trong các tổ chức tín dụng, ngân hàng, doanh nghiệp ngoài nhà nước. “Các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và địa phương đã khởi tố, điều tra 14.300 vụ/24.410 bị can; xét xử sơ thẩm hơn 11.700 vụ/22.600 bị cáo về tham nhũng, kinh tế, chức vụ…”([46]). Riêng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực đã chỉ đạo đưa hơn 800 vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm vào diện theo dõi, chỉ đạo ở 03 cấp độ; trong đó, Ban Chỉ đạo trực tiếp theo dõi, chỉ đạo 133 vụ án, 94 vụ việc; đã xét xử xơ thẩm 86 vụ án/814 bị cáo, với mức án rất nghiêm khắc, nhưng cũng rất nhân văn([47]). Trong các vụ án đưa ra xét xử, có nhiều vụ án liên quan đến các ngân hàng, tổ chức tín dụng thuộc doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Việc xử lý nghiêm các vụ án “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” có tác dụng cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả, tạo bước đột phá trong phát hiện, xử lý tham nhũng cả trong khu vực công và khu vực ngoài nhà nước. Tuy vậy, cần phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ, đảng viên có biểu hiện tham nhũng, nhiều đơn thư phản ánh, tố cáo tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; về chấp hành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với với chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Kịp thời xử lý điều chuyển thậm chí cho miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ quản lý khi có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, uy tín thấp.
Bốn là: Xử lý tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam với công cuộc đấu tranh PCTN trong khu vực ngoài nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã có bước phát triển nhanh cả về quy mô và chất lượng. Các đơn vị kinh tế tư nhân có đóng góp quan trọng vào giải quyết việc làm, thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. “Cơ cấu tỷ trọng kinh tế tư nhân trong nền kinh tế khá cao, chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 39-40% GDP; thu hút 85% lực lượng lao động, góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội”([48]). Tuy nhiên, cạnh những kết quả đó, cũng đã và đang nảy sinh nhiều hành vi tiêu cực, như: Hối lộ quan chức để giành dự án, lợi thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp “sân sau”; “hối lộ”, “lót tay” hoặc “bôi trơn” cán bộ công quyền; tham ô, tham nhũng trong các tổ chức tín dụng, ngân hàng và doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân, v.v… Hiện tượng tham nhũng, tiêu cực nói trên làm méo mó môi trường kinh doanh; làm suy yếu sức cạnh tranh của doanh nghiệp ngoài nhà nước; đe dọa sự tín nhiệm, trung thực và trung thành – những yếu tố quan trọng để duy trì và phát triển các quan hệ xã hội và kinh tế. Trong điều kiện các mối quan hệ công – tư diễn ra trong nhiều lĩnh vực, chặt chẽ, đan xen như hiện nay, việc PCTN khu vực ngoài nhà nước, chính là góp phần để PCTN trong khu vực công có hiệu quả hơn. Đây là yêu cầu tất yếu, khách quan đặt ra cho công tác PCTN trong giai đoạn hiện nay.
Bài cuối: NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG KHU VỰC NGOÀI NHÀ NƯỚC
Những năm qua, nhất là từ nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đến nay, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội và thực sự “đã trở thành phong trào, xu thế”, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận. Tuy nhiên, kết quả đó chủ yếu ở khu vực công (khu vực nhà nước). Đối với khu vực ngoài nhà nước, công tác PCTN vẫn là công việc mới, còn nhiều khó khăn, hạn chế (Tạp chí Nội chính số 93, 94, 95, (tháng 10, 11 và 12/2021) đã đề cập đến vấn đề này). Với vai trò cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng ta phải làm gì để công tác PCTN khu vực ngoài nhà nước đạt kết quả cao trong thời gian tới.
Một là: Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước.
– Quán triệt, tuyên truyền, giáo dục sâu, rộng những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Đảng, Nhà nước về PCTN, trong đó có PCTN khu vực ngoài nhà nước; thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về PCTN, lãng phí, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo các cấp, các nhành, cơ quan tổ chức, địa phương. Kiến quyết đấu tranh loại bỏ tư tưởng lo ngại việc đẩy mạnh PCTN sẽ là “chậm sự phát triển”, làm “hạn chế sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm”, “nhụt chí”, “cầm chừng”, trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
– Việc “từng bước mở rộng PCTN khu vực ngoài nhà nước” không chỉ là yêu cầu khách quan vừa cấp bách, vừa lâu dài đáp ứng được yêu cầu PCTN “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, mà còn tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh. Không được hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế, khiến tâm lý nhà đầu tư, doanh nghiệp bất an; kiên quyết không thực hiện việc thanh tra, kiểm tra quá nhiều đối với mọi doanh nghiệp, tạo thành “gánh nặng” làm doanh nghiệp đình trệ, không phát triển được. Công tác PCTN khu vực ngoài nhà nước cần tập trung vào các biện pháp phòng ngừa, khuyến khích các doanh nghiệp, khu vực ngoài nhà nước thực hiện các biện pháp PCTN trong nội bộ một cách cần thiết, hiệu quả. Không nóng vội, “đốt cháy giai đoạn” trong PCTN khu vực ngoài nhà nước.
– Đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài nhà nước: Cần ý thức rõ về tác động tiêu cực của tham nhũng, nhất là “tham nhũng vặt”. Kiên quyết loại bỏ tư tưởng dùng chi phí không chính thức hay “lại quả” theo giá trị hợp đồng cho cán bộ, công chức hoặc cơ quan nhà nước để được việc trong các doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tăng cường và thực hiện nghiêm chuẩn mực đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp, quản trị tốt; thực thi hiệu quả kiểm soát nội bộ, phòng ngừa tham nhũng, đào tạo hướng dẫn và hỗ trợ nhân viên.
– Đối với chủ doanh nghiệp tư nhân: Tuyên truyền, vận động để chủ đơn vị kinh tế tư nhân nhận thức đầy đủ và thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân; sự cần thiết khách quan và tác dụng của việc thành lập tổ chức đảng, phát triển đảng viên trong đơn vị kinh tế tư nhân.
– Đối với người lao động: Giáo dục, động viên người lao động phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, chấp hành đúng pháp luật, phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là: Thành lập, xây dựng, phát triển tổ chức đảng trong khu vực ngoài nhà nước.
– Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý trong việc thành lập tổ chức đảng trong các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị ngoài nhà nước. Ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với hoạt động của tổ chức đảng trong đơn vị kinh tế tư nhân. Quy định mức kinh phí chi cho việc thành lập; chi hoạt động thường xuyên; chi đào tạo, bồi dưỡng; chi kết nạp, bồi dưỡng đảng viên mới… từ ngân sách của Đảng. Bổ sung, sửa đổi chế độ phụ cấp đối với cấp ủy viên, mức đóng đảng phí, tỷ lệ trích nộp đảng phí lên cấp trên phù hợp với khu vực kinh tế tư nhân. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức đảng; ban hành khung quy chế làm việc của cấp ủy, xác định mối quan hệ phối hợp giữa cấp ủy với ban lãnh đạo, chủ đơn vị kinh tế tư nhân trên cơ sở tôn trọng và bảo đảm hài hòa lợi ích của đơn vị với sự phát triển của tổ chức đảng và quyền của đảng viên.
– Các tỉnh ủy, thành ủy củng cố, kiện toàn ban chỉ đạo xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể nhân dân trong các đơn vị kinh tế tư nhân cấp tỉnh, cấp huyện; ban hành nghị quyết chuyên đề về xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân với lộ trình cụ thể. Cấp ủy các cấp quan tâm đầu tư, bố trí nơi sinh hoạt Đảng, đoàn thể ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, cụm công nghiệp hoặc các thiết chế của công đoàn; tăng cường phối hợp với chủ các đơn vị kinh tể tư nhân tạo điều kiện về thời gian để sinh hoạt đảng, sinh hoạt chi bộ.
– Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng phù hợp với sự phát triển kinh tế tư nhân của địa phương. Tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động những tổ chức đảng ở các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập mà nhà nước chỉ còn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ.
– Khảo sát, đánh giá để xác định những đơn vị kinh tế tư nhân tuân thủ pháp luật, sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả, có điều kiện để chỉ đạo thành lập tổ chức đảng. Chú trọng thành lập tổ chức đảng ở các hợp tác xã, tập đoàn kinh tế tư nhân, các đơn vị kinh tế tư nhân vừa và lớn, sử dụng nhiều lao động, có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương để tạo sự lan tỏa mạnh mẽ đến các đơn vị kinh tế tư nhân khác.
– Tiếp tục rà soát, chuyển đảng viên đã làm việc ổn định tại đơn vị kinh tế tư nhân trên 12 tháng về tổ chức đảng phù hợp hoặc để thành lập tổ chức đảng. Xác định những người lao động có đủ tiêu chuẩn để xem xét kết nạp vào Đảng; chú trọng kết nạp vào Đảng đối với chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ đơn vị sự nghiệp ngoài công lập và những người trong bộ máy quản lý, ban chấp hành các đoàn thể của các đơn vị kinh tế tư nhân.
– Đẩy mạnh công tác kết nạp đảng viên là học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng, trường dạy nghề, thanh niên trong thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự để bổ sung nguồn đảng viên có chất lượng, được đào tạo bài bản cho khu vực kinh tế tư nhân.
– Cấp ủy cấp trên trực tiếp tăng cường chỉ đạo kiện toàn, nâng cao chất lượng cấp ủy viên, nhất là bí thư cấp ủy. Tăng cường phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ cấp ủy viên là chủ đơn vị kinh tế tư nhân hoặc thành viên trong ban lãnh đạo của đơn vị. Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, bố trí thời gian hợp lý để bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công tác Đảng. Hướng dẫn sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ phù hợp với đặc thù của đơn vị kinh tế tư nhân. Phân công cấp ủy cấp trên phụ trách, dự sinh hoạt chi bộ nhằm hướng dẫn, giúp đỡ, tháo gỡ khó khăn để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xem xét chuyển một số đảng viên của đảng bộ cấp trên có khả năng, kinh nghiệm công tác Đảng đến sinh hoạt Đảng ở những chi bộ ít đảng viên, mới thành lập.
– Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với đảng viên; phân công nhiệm vụ cụ thể, quản lý chặt chẽ đảng viên; xây dựng đội ngũ đảng viên thực sự tiên phong, gương mẫu về đạo đức, lối sống, chấp hành nghiêm kỷ luật lao động, nội quy của đơn vị; lao động tích cực, sáng tạo, có năng suất, hiệu quả cao được giới chủ và người lao động tin tưởng, tôn trọng; rà soát, sàng lọc đưa ngay những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Ba là: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước.
– Nghiên cứu để mở rộng chủ thể “người có chức vụ, quyền hạn” chịu điều chỉnh của Luật PCTN năm 2018, theo hướng điều chỉnh cả “chức vụ, quyền hạn” khu vực ngoài nhà nước, kể cả người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài đang sống và làm việc tại Việt Nam.
– Hoàn thiện các quy định chống cạnh tranh không lành mạnh trong doanh nghiệp. Cần sửa đổi pháp luật PCTN, pháp luật hình sự theo hướng quy định các hành vi phạm tội trong một chuỗi có liên quan, thể hiện đầy đủ cả khía cạnh phòng ngừa và chống tham nhũng: Từ cung cấp báo cáo kế toán hoặc sổ sách kế toán gian dối đến giấu giếm tài sản hoặc phân chia tài sản sai trái trong quá trình thanh lý (có bản chất như tham ô tài sản), từ nhận và đưa hối lộ đến hành vi có tính chất lợi dụng chức vụ, quyền hạn khác trục lợi cho cá nhân([49]).
– Hoàn thiện pháp luật khuyến khích thúc đẩy văn hóa liêm chính trong kinh doanh, tạo ra sân chơi bình đẳng nhưng đồng thời không nên tạo thêm những gánh nặng không cần thiết đối với doanh nghiệp trong tổ chức, hoạt động. Đặc biệt là tăng cường nhận thức, xóa bỏ bôi trơn, xây dựng hệ thống luật pháp minh bạch, đồng thời đề nghị Chính phủ xem xét sửa đổi, xóa bỏ các điểm chồng chéo trong Luật Đầu tư([50]); xóa bỏ các điểm chồng lấn, không minh bạch.
– Các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước cần đặc biệt chú trọng xây dựng quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh và cơ chế kiểm soát nội bộ. Cụ thể là: (1) Cần quy định xử lý mâu thuẫn lợi ích, quy định cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức do mình quản lý; (2) Hình thức xử lý trách nhiệm; (3) Các trường hợp được xem xét loại trừ, miễn, giảm hoặc bị tăng nặng trách nhiệm đối với người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức do mình quản lý; (4) Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu; (5) Quy định xử lý người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức mình khi vi phạm quy định bắt buộc phải thực hiện theo Luật PCTN.
– Hoàn thiện quy định xử lý hành vi làm giàu không chính đáng trong khu vực ngoài nhà nước([51]). Tại Việt Nam, hiện nay trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa có quy định nào trực tiếp về tội làm giàu bất chính. Thời gian tới, cần tập trung nghiên cứu các quy định về tội làm giàu bất chính được quy định trong Bộ luật hình sự và các văn bản có liên quan nhằm tránh hiện tượng bỏ lọt tội phạm có liên quan đến tham nhũng.
– Ban hành văn bản pháp luật về xử lý hành chính đối với hành vi tham nhũng trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Hiện tại, trong một số văn bản pháp luật chuyên ngành (Luật Chứng khoán, Luật Kế toán…) và pháp luật về cán bộ, công chức đã có những quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực chuyên ngành và trong hoạt động công vụ đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về PCTN. Tuy nhiên, quy định này cũng chỉ áp dụng đối với một số dạng hành vi (không công bố thông tin hoặc chậm công bố thông tin; không công khai báo cáo tài chính…) hoặc xử lý vi phạm kỷ luật công vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức. Qua rà soát, vẫn có một số dạng hành vi vi phạm của các chủ thể trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chưa được pháp luật điều chỉnh, như: Không ban hành và tổ chức thực hiện quy định về quy tắc ứng xử; lựa chọn các hình thức công khai, minh bạch; không thực hiện công khai, kiểm toán các khoản đóng góp của nhân dân; không xây dựng và thực hiện các biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích… Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất, toàn diện, phù hợp với đặc thù của pháp luật PCTN thì cần có quy định về xử phạt hành chính đối với hành vi tham nhũng của người giữ chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Trong đó, cần chú trọng đến hình thức phạt tiền hoặc cấm tham gia vào các hoạt động kinh doanh (cấm tham gia đấu thầu trong một khoảng thời gian nhất định); thực hiện đăng tải công khai các doanh nghiệp, tổ chức có hành vi vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng.
– Cần đưa ra định nghĩa hoặc hướng dẫn chung, thống nhất về kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chuyên ngành và văn bản pháp luật của Nhà nước nói chung vẫn chưa có quy định thống nhất chung về vấn đề này([52]). Do đó, cần phải đưa ra định nghĩa, hướng dẫn chung, thống nhất giữa văn bản pháp luật chuyên ngành và văn bản của Nhà nước về PCTN.
– Cần giải thích rõ hơn về hành vi “hối lộ”, “tham ô tài sản” trong khu vực ngoài nhà nước là như thế nào?. Theo Bộ luật hình sự hiện hành, những người có chức vụ, quyền hạn như giám đốc, phó giám đốc, kế toán, thủ quỹ, thủ kho… làm việc trong các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước không phải là chủ thể của các tội tham nhũng. Nhưng trên thực tế, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều trường hợp một số cá nhân, vì lợi ích của doanh nghiệp, tổ chức mình, đã thực hiện hành vi đưa hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn làm việc ở các doanh nghiệp, tổ chức khác, hoặc tại cơ quan nhà nước để giành những ưu thế nhất định. Do không có cơ sở pháp lý để xử lý hình sự đối với các đối tượng này về hành vi nhận hay đưa hối lộ, nên đã dẫn tới một số trường hợp xử lý chưa triệt để. Do đó, vấn đề hối lộ và tham ô tài sản trong khu vực ngoài nhà nước cần được xác định rõ có là chủ thể của tội phạm hay không nhằm bảo đảm tính nhất quán giữa các văn bản pháp luật hiện hành.
– Sửa đổi, bổ sung quy định về các hành vi bị cấm trong pháp luật chuyên ngành bảo đảm thống nhất với Luật PCTN năm 2018. Tại Điểm d, Khoản 2, Điều 20, Luật PCTN năm 2018 quy định người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã thuộc lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý trong thời hạn nhất định theo quy định. Nghị định số 59/2019/NĐ-CP đã quy định thời hạn người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã thuộc lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý. Tuy nhiên, trong Luật Doanh nghiệp; Luật Hợp tác xã không có quy định cấm người chức vụ, quyền hạn không được thành lập, giữ chức danh, chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã sau khi thôi chức vụ. Vì vậy, cần bổ sung các quy định này khi sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã trong thời gian tới.
– Ban hành Thông tư về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Hiện tại, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư điều chỉnh về thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về PCTN áp dụng trong khu vực công. Qua rà soát các quy định pháp luật cho thấy, chủ thể, nội dung, hình thức, trình tự thủ tục… thực hiện quy định pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực công có sự khác biệt với các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Bên cạnh đó, hình thức thanh tra, kiểm tra; việc ban hành kết luận và tổ chức thực hiện kết luận thanh tra cũng có sự khác biệt khi so sánh với khu vực công. Vì vậy, việc ban hành Thông tư điều chỉnh về thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là cần thiết.
Bốn là: Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước cần quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm quy định về phòng, chống tham nhũng.
Các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước cần phải quán triệt, giáo dục và rèn luyện đức tính liêm khiết, không phô trương, hình thức; xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng trong nội bộ doanh nghiệp, tổ chức mình. Xây dựng ý thức tự giác chấp hành, thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp về PCTN; chủ động xử lý khi có xung đột lợi ích; xây dựng, ban hành bộ quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh và tuân thủ thực hiện trên thực tế. Để xây dựng bộ quy tắc ứng xử, đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp thì cần thống nhất cách tiếp cận khi xây dựng, bảo đảm cụ thể hóa các dạng hành vi theo các tiêu chuẩn cụ thể; đưa ra hướng dẫn xử lý, giải quyết khi gặp phải hành vi đó; quy định rõ phương thức báo cáo, cảnh báo rõ ràng; giả định những tình huống xung đột lợi ích và phòng ngừa những tình huống đó; cách thức hướng dẫn thực hiện cho nhân viên, các cấp quản lý khi áp dụng.
Bộ quy tắc ứng xử, đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp của doanh nghiệp, cần đưa ra các tình huống mà doanh nghiệp có thể phải đối mặt và được áp dụng với từng đối tượng, như: Giám đốc, cán bộ, nhân viên, người lao động cũng như nhà cung cấp, các nhà thầu, các đại lý và các đối tác kinh doanh. Bộ quy tắc trong doanh nghiệp cũng cần đưa ra được những nguyên tắc kinh doanh không tham nhũng, không hối lộ, phòng ngừa xung đột lợi ích; những yêu cầu đảm bảo tính tuân thủ của những đối tượng như giám đốc, cán bộ, nhân viên và nhà cung cấp, nhà thầu, đại lý, các đối tác.
Đối với cơ chế kiểm soát nội bộ: Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chủ động xây dựng một cơ chế kiểm soát nội bộ phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp về ngành nghề kinh doanh, quy mô về tổ chức, nguồn lực thực hiện. Việc xây dựng cơ chế kiểm soát nội bộ cần đưa ra yêu cầu tuân thủ trong quá trình kiểm soát nội bộ và đạt được các yêu cầu như: Duy trì kiểm tra việc tuân thủ chính sách có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp; ngăn chặn và phát hiện kịp thời, xử lý các sai sót, gian lận, vi phạm trong hoạt động của doanh nghiệp; lưu trữ đầy đủ, chính xác các thông tin trong quy trình làm việc nhằm xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng chủ thể tham gia vào quy trình.
Đặc biệt, doanh nghiệp cần xây dựng và áp dụng các biện pháp PCTN đã được chuẩn hóa như Bộ tiêu chuẩn ISO-37001([53]) hoặc Bộ nguyên tắc phòng, chống hối lộ trong kinh doanh([54]); đánh giá sự liêm chính của người lao động thông qua việc kiểm tra tham chiếu với nơi làm việc trước đó của người lao động; áp dụng và thực thi hiệu quả chính sách kê khai nguy cơ xung đột lợi ích và phòng, chống xung đột lợi ích([55]). Thiết lập và bảo đảm việc vận hành hiệu quả kênh báo cáo tố cáo hành vi sai phạm, tham nhũng của doanh nghiệp (do doanh nghiệp tự vận hành hoặc thuê công ty dịch vụ độc lập) để tiếp nhận khiếu nại, tố cáo (kể cả ẩn danh) với chính sách, quy trình rõ ràng, dễ hiểu và tin cậy – làm cơ sở cho việc tăng cường giám sát thực thi các chính sách liêm chính của doanh nghiệp. Tùy theo điều kiện, doanh nghiệp có thể lựa chọn một đơn vị thứ ba thực hiện điều này để đảm bảo tính khách quan và bảo mật thông tin.
Năm là: Phát huy vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, các tổ chức chính trị xã hội trong các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước vào công tác phòng, chống tham nhũng.
Các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề cần tổ chức xây dựng quy tắc đạo đức chung cho các doanh nghiệp thành viên và các doanh nghiệp trong ngành; huy động doanh nghiệp ký cam kết kinh doanh minh bạch, lành mạnh, không tham nhũng. Các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có thể xây dựng bộ quy tắc đạo đức mẫu có thể áp dụng chung cho các doanh nghiệp trong hiệp hội của mình, các doanh nghiệp thành viên có thể dựa vào đó để xây dựng quy tắc đạo đức kinh doanh cho riêng doanh nghiệp.
Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, tiêu cực thì doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội ngành nghề, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản hoặc trực tiếp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi tham nhũng đó; phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với các doanh nghiệp, tổ chức có hành vi vi phạm. Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, cần tăng cường tôn vinh những doanh nghiệp tiêu biểu, tuân thủ nghiêm túc các quy định về PCTN, mặt khác cũng cần công khai các doanh nghiệp có hành vi vi phạm và công khai các hình thức xử lý. Ngoài ra, Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội ngành nghề cần có tiếng nói, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm hành vi nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp từ phía các cơ quan nhà nước. Có như vậy mới phát huy được sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức khu vực ngoài nhà nước vào công cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Đẩy mạnh việc thành lập, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Công đoàn và Đoàn thanh niên trong doanh nghiệp tư nhân; phát huy vai trò xung kích của đoàn viên Công đoàn và Đoàn thanh niên trong các phong trào thi đua, xây dựng, phát triển doanh nghiệp, qua đó, lựa chọn những người ưu tú để bồi dưỡng kết nạp vào Đảng.
Sáu là: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước.
Thanh tra Chính phủ cần sớm ban hành Thông tư quy định về thẩm quyền, nội dung thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về PCTN khu vực ngoài nhà nước. Bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thanh tra trách nhiệm, các cơ quan thanh tra cần tăng cường một cách phù hợp các cuộc thanh tra việc thực hiện pháp luật PCTN đối với các doanh nghiệp, tổ chức có dấu hiệu vi phạm pháp luật chuyên ngành trong hoạt động sản xuất, kinh doanh (như vi phạm pháp luật về thuế, bảo vệ môi trường, nợ đọng BHXH…). Nội dung thanh tra có thể lồng ghép với các nội dung khác nhằm bảo đảm không chồng chéo, trùng lắp và thuận tiện cho hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, cần có hướng dẫn kịp thời về chuyên môn, nghiệp vụ; thực hiện tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm qua một thời gian thực hiện hoạt động thanh tra trách nhiệm việc thực hiện pháp luật về PCTN để rút kinh nghiệm và giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động thanh tra.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát trong phát hiện tham nhũng. Tạo cơ chế linh hoạt, tăng thẩm quyền cũng như trách nhiệm của các cơ quan thanh tra trong phát hiện tham nhũng khu vực ngoài nhà nước. Nâng cao hoạt động, phối kết hợp giữa các cơ quan thanh tra, kiểm toán, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát với Ủy ban Kiểm tra Đảng trong công tác PCTN khu vực ngoài nhà nước đi vào thực chất và hiệu quả hơn trong thực tiễn.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, người đứng đầu cần phải tăng cường quản lý, giám sát thường xuyên đối với cán bộ, đảng viên bằng nhiều hình thức để kịp thời phát hiện, giải quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu sai phạm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Mọi cán bộ, đảng viên vi phạm, phải có hình thức xử lý kịp thời, đồng bộ, nghiêm minh. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cần phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện và công khai, có trọng tâm, trọng điểm. Cần phải đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng (nói chung) và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng trong PCTN khu vực ngoài nhà nước (nói riêng).
Lãnh đạo vừa là chức năng vừa là phương thức, là sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. PCTN nói chung và PCTN khu vực ngoài nhà nước nói riêng trong giai đoạn tới, còn rất nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi Đảng ta cần phải linh hoạt, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức, nội dung lãnh đạo và năng lực cầm quyền để tiếp tục đưa đất nước ta phát triển, phồn vinh.
() Tùy thuộc vào cách tiếp cận, góc độ đánh giá; tùy thuộc vào hình thức tham nhũng và biểu hiện của tham nhũng ở từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau mà có nhiều khái niệm khác nhau về tham nhũng. Ví dụ: Người Áo quan niệm: Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột. Từ điển bách khoa Đức lại nêu: Tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành. Theo từ điển bách khoa của Thụy Sỹ thì: Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước. Đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân…