Đặc trưng ngôn ngữ tác phẩm văn học trung đại. – Chaolong TV

dac-trung-ngon-ngu-tac-pham-van-hoc-trung-dai

Phương diện ngôn ngữ của tác phẩm văn học trung đại.

Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, là hình thức biểu đạt của văn học. Ngôn ngữ văn học trung đại Việt Nam thuộc phạm trù trung đại, mang những đặc trưng riêng, phân biệt với ngôn ngữ hiện đại. Ngôn ngữ văn học thời trung cổ có những đặc điểm nổi bật sau:

1. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại thiên về hình thức bên ngoài.

– Từ còn được hiểu là dấu hiệu biểu đạt thay cho lời nói, phát ngôn.

– Xem ngôn ngữ như một tấm gấm thêu, được “dệt” bằng “chữ” (bộ tự) bằng âm (thông qua bát quái), loại, màu sắc… theo những quy tắc nhất định của chữ viết.

– Lời nói được so sánh với âm nhạc, vẽ nhiều hơn nói.

– Làm thơ bắt đầu từ việc luyện tâm, luyện chữ, luyện câu… Chữ được thể hiện trong “tâm trong ngoại ngữ”.

Ví dụ:

Những từ ngữ trang trọng mang tầm cỡ vũ trụ được dùng để chỉ hình ảnh con người và đội quân thời Trần:

Hoành sóc giang sơn có tưng bừng
Ba đội quân của Pi, Tiger và Cow Qi trong làng

(Niềm Tin – Phạm Ngũ Lão)

Hãy vẽ bức tranh phong cảnh Đèo Ngang bằng những từ ngữ gợi tả hình ảnh, chuyển động trong cảnh:

Bước qua Đèo Ngang, bóng xe ngựa,
Cây chen đá, chen hoa lá.
Cúi dưới núi, dành mấy chú,
Chợ quê nhỏ ven sông.

(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Nguyễn Du đã chọn những từ ngữ đầy hình ảnh và sắc thái biểu cảm khi nói về tài “cầm cương thi” của Thúy Kiều:

Khi Kim Trọng khen Kiều khi chàng viết bài thơ trên bức tranh mới của Kim Trọng:

Khen tài nhổ ngọc,
Bản và Ta cũng không như vậy!

Khi xác định tài chơi Kiều:

Như tiếng hạc bay
Bùn như nước suối trong lành nửa chín
Tiếng khoan như gió ngoài
Tiếng rơi như mưa.

Phương diện siêu ngôn ngữ của tác phẩm văn học trung đại bắt nguồn từ quan niệm “văn” của người trung đại. Khái niệm “văn” dùng để chỉ văn hóa, giáo dục, học thuật, sau đó mới nói đến vẻ đẹp hình thức (văn trời, văn hổ, báo), tức là trang trí cho đẹp, cho đẹp; “Văn” chỉ học vấn, vẻ đẹp bên ngoài. Phan Kế Bính cho rằng: “Văn học là gì? Văn đẹp; chương là gì? Chương sáng sủa. Lời nói của con người trong sáng và chói lọi, cũng như chúng ta có vẻ đẹp và ánh sáng, đó là lý do tại sao nó được gọi là văn học.”

Chính quan niệm về ngôn ngữ văn học này đã làm chậm sự phát triển của văn xuôi vì họ cho rằng văn xuôi có quan hệ với ngôn ngữ thế gian, ngôn ngữ đời sống.

2. Ngôn ngữ nghi lễ, tính lập thể, công thức biểu đạt.

Thể hiện ở tính ước lệ và tính tượng trưng của tác phẩm văn học trung đại. Đây là dùng công thức sáo rỗng, dùng kinh điển cổ điển. Bắt nguồn từ quan niệm “tôn sư trọng đạo” của các nhà Nho, tôn thờ người xưa, khái quát chân lý theo khuôn mẫu áp dụng do người xưa đặt ra.

Ví dụ:

Khi nói về chí đực:

Nam tính liễu công danh tiếng còn lại
Nghe thuyết dân gian Vũ Hầu

(Tên đàn ông còn nợ nần
Xấu hổ khi nghe câu chuyện của Wuhou)

(Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão)

Trong vũ trụ, nhiệm vụ của anh ta phải được thực hiện,
Nên có tên cho núi và sông.

(Chí người và con – Nguyễn Công Trứ)

Mượn hình ảnh cây tùng để tượng trưng cho người quân tử:

Kiếp sau xin đừng làm người.
Làm cây thông vươn lên trời và reo chuông

(Cây thông – Nguyễn Công Trứ)

– Điều này dẫn đến việc sử dụng những câu văn, mẫu, từ nghi lễ có sẵn khắp nơi, tạo thành những hình ảnh “ông”, “bậc” trong tác phẩm văn học trung đại.

Chẳng hạn quan niệm về tính ưu việt, khác loài trong Truyện Kiều:

Dùng từ Hán Việt khi nói về nhân vật hay nhất:

Thu thủy, xuân sơn
Hoa ghen thua kém cánh liễu xanh hon

Chữ Nôm được dùng khi nói về một nhân vật thuộc binh chủng không giống loài:

Ngay lập tức nhìn nhờn nhợt nhạt màu da
Ăn gì cho mập và mập!

– Phép xã giao cần rèn luyện để biết dùng “lời nói”, mới thấy “lời nói hay”.

Đặc điểm này làm cho ngôn ngữ văn học trung đại thường khuôn sáo, nặng tính sách vở, xa rời lời nói đời thường.

3. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại mang tính trang trí.

Khi mục đích lời nói và định hướng chủ yếu đòi hỏi lời nói phải thỏa mãn, tao nhã, trung thực và mạnh mẽ, thì cái đẹp thường được điểm xuyết và người ta tưởng tượng nó ở vị trí trang trí. Nhu cầu trang trí đòi hỏi phải đưa vào những hình ảnh hoán dụ bóng bẩy, hấp dẫn, dễ chịu:

Ngày xuân điệu múa đưa thoi
Quang Thiều đã tồn tại được sáu mươi chín thập kỷ

(Truyện Kiều)

Gối và hạc bị cong
Người đàn bà cong lưng quay đi

(Đong đưa – Hồ Xuân Hương)

Con chim chích vườn già cất cánh
Nụ quế sau nhà thích leo lét.

(Nguyễn Khuyến)

Tính trang trí thể hiện ở tính chất cân đối, hài hòa, ưa sử dụng văn xuôi, văn xuôi, lợi dụng thể loại hài hòa thông qua sử dụng các hình thức đối lập (hình thức, giọng điệu, tiểu mục, v.v.). Các loại chơi chữ, các loại đối ngẫu đều có tác dụng trang trí, tạo thú vui tao nhã, mở rộng không gian cảm thụ.

Hành vi 2+3 xuất phát từ một xã hội coi trọng lễ nghi, một xã hội có tôn ti trật tự, thứ bậc rõ ràng.

4. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại thường sáng tác, phù hợp với phong cách thể loại và hoàn cảnh biểu đạt.

– Mỗi thể loại luôn có phong cách ngôn ngữ biểu đạt riêng.

Như Lê Quý Đôn nhận xét: “Các nhà thơ có kỹ năng riêng của họ. Kẻ ở nơi công cộng, hát thơ phải nhẹ nhàng, phong phú; những người sống ở thành phố và vùng biên giới, thơ phải hoang dã và táo bạo. Nếu một nhà thơ thích những cảnh thời đại, thì bài thơ nên có một sự giải trí thoải mái và tự do. Thơ Đào Chi (nói ý) nên trang trọng, thơ cổ (thăm cảnh xưa, người xưa) nên xúc động, thơ đầu tặng (tặng người) nên dịu dàng… Cần sắp xếp bài thơ trước sau. đặt câu thơ sau, sao cho không lẫn với thể thơ nào khác, thì mới trong sáng chân thực. Thích chạm khắc, mê cái mới, nghiền ngẫm từng chữ, từng câu thì thơ sẽ nghèo nàn”.

Ví dụ:

+ Bài “Liên” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) với lời lẽ giản dị, tự nhiên mà ngắn gọn, hàm súc, đầy ẩn ý thể hiện niềm ung dung, nhàn nhã của một kẻ thư sinh.

+ Bài “Thu Cuội” (Nguyễn Khuyến) với ngôn từ giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh đã vẽ nên một bức tranh quê đẹp, trang nhã, trong sáng.

Trên đây quan niệm về ngôn ngữ giúp cho ngôn ngữ thơ chắt lọc, phù hợp với thể loại nhưng cũng mang tính công thức máy móc, làm hạn chế cá tính sáng tạo của tác giả.

– Mỗi tác giả có phong cách riêng tạo nên hệ thống ngôn từ riêng phù hợp với từng thể loại sáng tác.

Chẳng hạn ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương khác Bà Huyện Thanh Quan, ngôn ngữ trào phúng Nguyễn Khuyến khác ngôn ngữ trào phúng Tú Xương, v.v.

Những đặc điểm này làm cho ngôn ngữ của tác phẩm văn học trung đại khác với ngày nay.

Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học