ĐẶC TRƯNG CỦA BẢO HIỂM NHÂN THỌ – THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

 PHÙNG ĐẮC LỘC – Giám đốc Quỹ “Vì cuộc sống tươi đẹp” Dai-ichi Life Việt Nam

Bảo hiểm nhân thọ là cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm đáp ứng nhu cầu một khoản tài chính (số tiền chi trả) trong tương lai của người tham gia bảo hiểm đã lựa chọn để sử dụng khi xảy ra các rủi ro, sự cố bất ngờ hoặc các sự kiện được bảo hiểm đã được quy định trong hợp đồng bảo hiểm, đồng thời người tham gia bảo hiểm cam kết đóng phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn như hợp đồng bảo hiểm đã quy định.

Các rủi ro được bảo hiểm có thể bao gồm: thiên tai, tai nạn bất ngờ, ốm đau, thương tật, tử vong.

Các sự cố bất ngờ được bảo hiểm bao gồm những sự cố nếu xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính (tiền bạc) của người tham gia bảo hiểm khi bị giảm sút hoặc mất thu nhập (nghĩa vụ chu cấp tài chính cho gia đình và người thân như trước khi xảy ra sự cố được bảo hiểm).

Các sự kiện được bảo hiểm bao gồm những sự kiện lường trước được, chắc chắn xảy ra và khi xảy ra cần có nguồn tài chính từ chi trả quyền lợi bảo hiểm theo quy định của hợp đồng bảo hiểm để triển khai thực hiện sự kiện đó. Có thể bao gồm cả trường hợp người tham gia bảo hiểm đã bị tử vong, thương tật toàn bộ vĩnh viễn trước khi xảy ra sự kiện (với hợp đồng có điều khoản miễn đóng phí với trường hợp trên) như: cho con theo học phổ thông trung học, đại học, học nghề, dựng vợ gả chồng, tậu nhà, mua xe hơi, nghỉ hưu…

Từ khái niệm trên về bảo hiểm nhân thọ, các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có những đặc trưng sau đây:

1. Đặc trưng thứ nhất: vừa bảo vệ trước những rủi ro vừa tích lũy tiết kiệm

– Bảo vệ người được bảo hiểm trước những rủi ro là đặc tính không thể thiếu được của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, mất đi đặc tính này thì không còn được gọi là bảo hiểm. Bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm rủi ro liên quan đến tính mạng, sức khỏe (đau ốm, bệnh tật, mất khả năng lao động) có tính dài hạn (5 năm, 10 năm,… suốt đời). Ngoài bù đắp chi phí điều trị ốm đau thương tật, bảo hiểm nhân thọ có thể chi trả các khoản tài chính để bù đắp chi phí: thuê người chăm sóc khi điều trị, giảm sút thu nhập trong thời gian điều trị (tiền lương), giảm sút thu nhập sau thời gian điều trị (không đảm nhận được các công việc trước đây), chi phí nuôi dưỡng thân nhân hoặc nghĩa vụ trả các khoản nợ đang vay của người được bảo hiểm khi họ bị tử vong…

Vì vậy số tiền bảo hiểm cho rủi ro thường rất lớn, các rủi ro được bảo hiểm thường nổi bật và là nguy cơ đe dọa cao đối với người được bảo hiểm nếu xảy ra sẽ phải chi trả số tiền rất lớn. Đây là yếu tố để bảo hiểm nhân thọ cạnh tranh với bảo hiểm sức khỏe của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ hoặc bảo hiểm y tế hiện hành chỉ có thời hạn bảo hiểm 01 năm và không có rủi ro xảy ra hết thời hạn bảo hiểm không được hoàn trả phí bảo hiểm.

– Tiết kiệm: Thông thường các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được thiết kế phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm đóng vào hàng kỳ mang tính tiết kiệm: nếu xảy ra rủi ro, sự cố, sự kiện được bảo hiểm thì được chi trả số tiền bảo hiểm như cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Nếu hết hạn hợp đồng bảo hiểm, người được bảo hiểm không gặp rủi ro, sự cố, sự kiện được bảo hiểm thì vẫn được chi trả quyền lợi bảo hiểm đúng với cam kết trong hợp đồng thường bằng tổng số phí đã đóng cộng thêm một phần bảo tức (nếu có).

Một số hợp đồng bảo hiểm có cam kết chia lãi (thường là hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn, có phí bảo hiểm đóng định kỳ cao) thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả bảo tức ít nhất bằng lãi đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm.

Số phí bảo hiểm thu được hàng kỳ doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm đầu tư đảm bảo an toàn và sinh lời theo đúng quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm.

Số lãi đầu tư doanh nghiệp bảo hiểm dùng để:

+ Chi trả cho các quyền lợi rủi ro: tai nạn, thương tật, đau ốm, tử vong…

+ Chi trả tiền thưởng định kỳ, bảo tức cho người được bảo hiểm.

+ Trang trải chi phí hoạt động kinh doanh và lãi của doanh nghiệp bảo hiểm.

Theo Luật kinh doanh bảo hiểm đối với sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có chia lãi, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm chi trả lãi theo đúng cam kết dù đầu tư từ phí bảo hiểm hiệu quả thấp (phần lỗ doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm). Ngoài ra cơ cấu sử dụng lãi đầu tư tài chính từ phí bảo hiểm được Luật quy định là tối thiểu 70% dùng để chia lãi cho người được bảo hiểm. Nếu lãi cam kết theo hợp đồng bảo hiểm chưa sử dụng hết 70% lãi đầu tư tài chính từ phí bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm chi trả thêm (bảo tức bổ sung).

Tuy nhiên với người tham gia bảo hiểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước hạn sẽ bị thiệt thòi lớn:

+ Trong vòng 02 năm đầu sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm không được chi trả giá trị hoàn lại (phí bảo hiểm và lãi cam kết) theo Luật kinh doanh bảo hiểm.

+ Số năm tham gia bảo hiểm nhỏ hơn thời hạn hợp đồng bảo hiểm thường được trả giá trị hoàn lại thấp hơn phí đã đóng cộng lãi cam kết.

– Tích lũy: Người được bảo hiểm muốn tích lũy nhanh hơn cách tiết kiệm nói trên khi môi trường đầu tư tiền nhàn rỗi từ phí bảo hiểm khá hấp dẫn qua các kênh chứng khoán, bất động sản… doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã thiết kế sản phẩm bảo hiểm đầu tư còn gọi là sản phẩm bảo hiểm phi truyền thống gồm 02 loại:

+ Bảo hiểm liên kết chung: doanh nghiệp bảo hiểm cùng chung với người tham gia bảo hiểm để liên kết đầu tư qua các kênh, danh mục đầu tư nói trên. Trong đó người tham gia bảo hiểm giao toàn quyền chủ động đầu tư cho doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cam kết trả lãi đầu tư cho người tham gia bảo hiểm được công bố định kỳ (theo tháng hoặc quý). Người tham gia bảo hiểm căn cứ vào lãi đầu tư được công bố để đánh giá hiệu quả đầu tư cao hay thấp. Từ đó người tham gia bảo hiểm (hay nhà đầu tư) có thể tăng thêm số tiền bảo hiểm (số tiền đầu tư) hoặc giảm đi số tiền bảo hiểm của mình.

Sản phẩm bảo hiểm này thu hút được những người có số tiền tiết kiệm nhỏ không phải ký quỹ vào công ty chứng khoán vẫn có thể tham gia đầu tư chứng khoán gián tiếp qua doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo an toàn và sinh lời.

+ Bảo hiểm liên kết đơn vị: doanh nghiệp bảo hiểm công bố cho người có nhu cầu bảo hiểm về số lượng quỹ đầu tư và mức độ rủi ro của từng quỹ cũng như danh mục đầu tư và giá đơn vị của từng quỹ đầu tư. Thường doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra 5 hoặc 3 loại quỹ như Quỹ tuyệt đối an toàn (mua trái phiếu Chính phủ, gửi ngân hàng thương mại lớn), Quỹ tương đối an toàn, Quỹ bình ổn, Quỹ tương đối mạo hiểm và Quỹ mạo hiểm. Người tham gia bảo hiểm có thể mạo hiểm trong quyết định lựa chọn quỹ trên để đầu tư và số tiền đầu tư vào mỗi quỹ mình đã chọn theo nguyên tắc lời ăn lỗ chịu. Hàng kỳ (tuần hoặc nửa tháng) doanh nghiệp bảo hiểm công bố giá một đơn vị chứng chỉ của từng quỹ đầu tư để người tham gia bảo hiểm đưa ra quyết định bổ sung tiền đầu tư vào quỹ nào (mua thêm chứng chỉ quỹ) hoặc rút bớt tiền đầu tư tại quỹ nào (bán đi chứng chỉ quỹ này).

Sản phẩm bảo hiểm này hấp dẫn với người tham gia bảo hiểm mạo hiểm trong đầu tư sinh lời, được doanh nghiệp bảo hiểm trợ giúp phân tích đánh giá các rủi ro danh mục đầu tư của từng quỹ đầu tư trên và kết quả đầu tư thông qua giá đơn vị của từng quỹ để đầu tư mạo hiểm lời ăn lỗ chịu.

2. Đặc trưng thứ hai: Số tiền được bảo hiểm không bị giới hạn

Bảo hiểm phi nhân thọ có số tiền được bảo hiểm bị giới hạn bởi giá trị tài sản được bảo hiểm hay hạn mức trách nhiệm bồi thường thiệt hại về người và tài sản cho bên thứ ba do lỗi của người được bảo hiểm gây ra. Bảo hiểm nhân thọ ngược lại không bị giới hạn số tiền bảo hiểm mà số tiền được bảo hiểm theo lựa chọn của người tham gia bảo hiểm và được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận nếu phù hợp với khả năng tài chính của người tham gia bảo hiểm đảm bảo đóng phí bảo hiểm đầy đủ, đúng thời hạn trong suốt thời hạn của hợp đồng bảo hiểm. Nguyên nhân không giới hạn số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ là:

– Tính mạng, sức khỏe của con người là vô giá.

–  Nghĩa vụ trả nợ của mỗi người khác nhau bao gồm vay ngân hàng, người thân, bạn bè để mua sắm, chi tiêu sinh hoạt gia đình, sản xuất kinh doanh, đầu tư (chứng khoán, bất động sản).

–  Nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng của người tham gia bảo hiểm với thân nhân của mình (bố mẹ, vợ chồng, con cái) khác nhau.

–  Nhu cầu tài chính để thực hiện 1 kế hoạch trong tương lai (tính tiết kiệm) hoàn toàn khác nhau: cho con học cấp 3, đại học, học nghề, dựng vợ gả chồng, mua nhà, sắm xe, xây sinh phần (mộ), hưu trí tuổi già…

Tuy nhiên với trường hợp tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm quá lớn, doanh nghiệp bảo hiểm rất thận trọng trong đánh giá rủi ro để chấp nhận bảo hiểm phòng ngừa trường hợp “hy sinh đời bố củng cố đời con” hoặc người tham gia bảo hiểm có thể gây cái chết cho người được bảo hiểm để thu được số tiền bảo hiểm.

3. Đặc trưng thứ ba: bảo hiểm nhân thọ thường là hợp đồng dài hạn

Bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm y tế có thời hạn được bảo hiểm thường là từ 01 năm trở xuống. Hết thời hạn này, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm y tế có thể tính toán so sánh giữa phí thu được, chi phí bồi thường chi trả và chi phí kinh doanh khá. Song bảo hiểm nhân thọ có thời hạn rất dài từ 05 năm 10 năm… đến suốt đời. Vì thời hạn dài nên tác động đến bảo hiểm nhân thọ các vấn đề sau:

3.1. Tích tụ rủi ro được bảo hiểm: rủi ro thiên tai, tai nạn, ốm đau, bệnh tật tử vong trong thời hạn càng dài thì xác suất xảy ra càng lớn. Nhất là rủi ro tai nạn, ốm đau, bệnh tật, tử vong ở từng độ tuổi khác nhau có xác suất xảy ra càng cao khi độ tuổi càng lớn. Điều này lý giải tại sao bảo hiểm phi nhân thọ không nhận bảo hiểm tai nạn ốm đau, bệnh tật, tử vong cho những người quá 65 tuổi (khi tuổi thọ trung bình của Việt Nam hiện nay là nam 71 tuổi, nữ 73 tuổi). Nếu chấp nhận bảo hiểm thì phí bảo hiểm thu rất cao xấp xỉ bằng số tiền bảo hiểm thì việc tham gia bảo hiểm không còn ý nghĩa.

Bảo hiểm nhân thọ dài hạn đã chấp nhận tích tụ rủi ro từ khi người được bảo hiểm còn trẻ đến hết thời hạn bảo hiểm hoặc suốt đời nên việc tích tụ rủi ro được chia sẻ trong suốt thời gian được bảo hiểm và trong mọi đối tượng, lứa tuổi được bảo hiểm.

Với đặc điểm này, những người chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước hạn nhất là hợp đồng bảo hiểm có phần bảo vệ rủi ro lớn sẽ rất thua thiệt vì tuổi càng cao xác suất bị tai nạn, ốm đau, bệnh tật, tử vong càng lớn.

Những người tham gia bảo hiểm với thời hạn ngắn càng bất lợi vì sự tích tụ rủi ro càng ít, thậm chí ngắn quá nên chưa có rủi ro xuất hiện. Ngược lại người tham gia bảo hiểm thời hạn càng dài thì khả năng các rủi ro ốm đau, bệnh tật, tai nạn, tử vong xuất hiện gần như là chắc chắn và biết được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm.

3.2.Tích tụ phí bảo hiểm: Phí bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm đóng hàng kỳ (tháng, quý, năm) có thời gian nhàn rỗi tương đương với thời hạn của hợp đồng bảo hiểm. Thời gian đóng phí càng dài, phí bảo hiểm đã đóng tích tụ càng lớn. Hợp đồng bảo hiểm thường có thời hạn dài 05 năm, 10 năm… suốt đời nên khoản phí bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi cũng có những thời hạn như trên. Doanh nghiệp bảo hiểm sau khi thu được phí bảo hiểm không thể cất vào két sắt hoặc gửi tiền vào tài khoản vãng lai không sinh lời. Ngược lại doanh nghiệp bảo hiểm phải tính toán từng ngày số phí thu được trừ đi biên khả năng thanh toán tối thiểu còn lại là tiền nhàn rỗi để đầu tư tài chính vào nền kinh tế quốc dân.

Căn cứ vào thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm tương ứng, doanh nghiệp bảo hiểm xác định được số tiền nhàn rỗi, thời gian nhàn rỗi để đầu tư sinh lời vào các lĩnh vực: trái phiếu Chính phủ, chứng khoán, bất động sản, góp vốn liên doanh, ủy thác cho vay. Để quản lý chặt chẽ phí bảo hiểm thu được của khách hàng, Luật kinh doanh bảo hiểm quy định đối với doanh nghiệp bảo hiểm như sau:

– Phải tách và hạch toán riêng biệt Quỹ chủ sở hữu (vốn của doanh nghiệp bảo hiểm) với Quỹ chủ hợp đồng (phí bảo hiểm thu được từ chủ hợp đồng bảo hiểm).

– Phải trích lập đầy đủ các khoản dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm (từ phí bảo hiểm thu được) theo đúng quy định của pháp luật.

– Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn đảm bảo biên khả năng thanh toán (để đảm bảo chi trả bảo hiểm khi rủi ro, sự cố, sự kiện được bảo hiểm xảy ra) lớn hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu.

– Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được phép sử dụng Quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm tạm thời nhàn rỗi (bằng phí thu được trừ biên khả năng thanh toán tối thiểu) đầu tư vào nền kinh tế quốc dân (không được phép đầu tư ra nước ngoài) theo các quy định sau:

+ Mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, công trái xây dựng tổ quốc, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, tiền gửi ngân hàng: không hạn chế

+ Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ tối đa 50% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.

+ Kinh doanh bất động sản theo quy định của luật kinh doanh bất động sản tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.

+ Góp vốn vào các doanh nghiệp khác tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.

Kết quả đến 31/12/2015, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã đầu tư vào nền kinh tế quốc dân được trên 127.000 tỷ đồng (tương đương với 6 tỷ USD). Đặc biệt bước đầu Chính phủ đã phát hành trái phiếu với kỳ hạn 20 năm, 30 năm và được doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ hưởng ứng mua với giá trị trên 10.000 tỷ đồng. Bảo hiểm nhân thọ đã khẳng định vai trò quan trọng là một kênh thu hút vốn trung và dài hạn để đầu tư xây dựng đất nước. Với tốc độ tăng trưởng 30%/năm trong các năm tới, số tiền đầu tư vào nền kinh tế quốc dân của bảo hiểm nhân thọ cũng sẽ tăng từ 25%-30%/năm.

Với sản phẩm bảo hiểm có cam kết chia lãi, doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo chia lãi cho người tham gia bảo hiểm tối thiểu 70% số lãi thu được (30% còn lại thuộc chi phí hoạt động kinh doanh và lãi của doanh nghiệp bảo hiểm).

Với đặc tính tích tụ phí bảo hiểm và đầu tư sinh lời từ phí bảo hiểm tích tụ được tạm thời nhàn rỗi, chúng ta thấy thời gian đóng phí bảo hiểm càng dài số phí bảo hiểm tích tụ càng lớn nên lãi đầu tư cho năm tới sẽ thu được nhiều hơn năm trước. Vì vậy những khách hàng chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước hạn thường bị thiệt thòi khi nhận được giá trị hoàn lại thấp không như mong đợi.

4. Đặc trưng thứ tư: sản phẩm bảo hiểm là bán lời cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm chi trả quyền lợi bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm hay người được bảo hiểm theo điều khoản, điều kiện, cách thức, phương thức ghi trong hợp đồng bảo hiểm

4.1 Lời cam kết được ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà hợp đồng bảo hiểm lại do doanh nghiệp bảo hiểm soạn sẵn nên khách hàng có vẻ như người yếm thế. Để bảo vệ quyền lợi người tham gia bảo hiểm, Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật bảo vệ người tiêu dùng đã quy định cho doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện như sau:

– Quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng phải đảm bảo

+ Tuân thủ pháp luật, phù hợp với thông lệ, chuẩn mực đạo đức văn hóa và phong tục, tập quán của Việt Nam

+ Ngôn ngữ sử dụng trong quy tắc, điều khoản bảo hiểm phải chính xác, cách diễn đạt đơn giản, dễ hiểu, các thuật ngữ chuyên môn cần định nghĩa rõ trong quy tắc, điều khoản bảo hiểm

+ Thể hiện rõ ràng, minh bạch quyền lợi có thể được bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm, phạm vi và các rủi ro được bảo hiểm, quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, phương thức trả tiền bảo hiểm, các quy định giải quyết tranh chấp.

+ Phí bảo hiểm phải được xây dựng trên số liệu thống kê, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và tương ứng với điều kiện, trách nhiệm bảo hiểm.

+ Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm tuân thủ đúng quy tắc, điều khoản, biểu phí đã được Bộ Tài chính phê chuẩn.

+ Doanh nghiệp bảo hiểm phải công bố các sản phẩm bảo hiểm được phép triển khai bao gồm quy tắc, điều khoản, biểu phí, hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và các tài liệu liên quan trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam và doanh nghiệp bảo hiểm.

– Thủ tục phê chuẩn sản phẩm bảo hiểm nhân thọ gồm các tài liệu sau:

+ Văn bản đề nghị phê chuẩn sản phẩm theo mẫu của Bộ Tài chính

+ Quy tắc, điều khoản, biểu phí của sản phẩm bảo hiểm dự kiến triển khai

+ Công thức, phương pháp và giải trình cơ sở kỹ thuật để tính phí, dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của sản phẩm bảo hiểm dự kiến triển khai

+ Mẫu giấy yêu cầu bảo hiểm, tài liệu giới thiệu sản phẩm bảo hiểm, tài liệu minh họa bán hàng, các mẫu đơn mà bên mua bảo hiểm phải kê khai và ký khi mua bảo hiểm

+ Trong thời hạn 21 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Tài chính có văn bản chấp thuận. Trường hợp từ chối, Bộ Tài chính có văn bản giải thích.

+ Trong thời hạn 03 ngày kể từ khi có văn bản phê chuẩn sản phẩm bảo hiểm, Bộ Tài chính có trách nhiệm gửi văn bản phê chuẩn sản phẩm và sản phẩm bảo hiểm đến Bộ Công thương để thực hiện đăng ký hợp đồng bảo hiểm theo mẫu, điều kiện giao dịch chung theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Như vậy, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và các văn bản liên quan đính kèm hợp đồng bảo hiểm (sản phẩm bảo hiểm) được pháp luật quy định chặt chẽ về nội dung, hình thức, trình tự thủ tục và được Bộ Tài chính kiểm soát chặt chẽ để phê chuẩn trước khi thực hiện nhằm bảo vệ quyền lợi người tham gia bảo hiểm. Đồng thời luật cũng quy định rõ việc công khai, minh bạch sản phẩm bảo hiểm trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm. Có thể nói hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là loại hợp đồng được cơ quan quản lý nhà nước kiểm soát chặt chẽ nhất, tạo được sự tin tưởng cho khách hàng.

– Thời gian chờ: hợp đồng bảo hiểm nhân thọ quy định thời gian chờ thường là 21 ngày. Thời gian chờ là khoảng thời gian quy định trong hợp đồng bảo hiểm kể từ khi khách hàng đã chấp nhận tham gia bảo hiểm, đóng phí bảo hiểm định kỳ lần đầu tiên đầy đủ và doanh nghiệp bảo hiểm có thể đã phát hành hợp đồng bảo hiểm cho đến hết thời gian chờ, quy định khách hàng có quyền hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm vô điều kiện, được hoàn lại phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được quyền thu lại phần chi phí khám sức khỏe cho khách hàng trước khi tham gia bảo hiểm (nếu có).

Trong thời gian chờ, khách hàng có thể tự nghiên cứu xem xét lại nội dung điều khoản, điều kiện bảo hiểm, quyền lợi có thể được bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm, phạm vi và các rủi ro được bảo hiểm, quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm, trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, phương thức trả tiền bảo hiểm, quy định về giải quyết tranh chấp. Nếu người mua bảo hiểm chưa hiểu rõ có thể yêu cầu tư vấn viên, nhân viên của doanh nghiệp bảo hiểm giải thích thêm hoặc nhờ luật sư tư vấn.

4.2 Doanh nghiệp bảo hiểm nào càng thực hiện đúng lời cam kết ghi trong hợp đồng bảo hiểm càng có uy tín giữ được khách hàng và tăng thêm số lượng khách hàng

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện đúng lời cam kết ghi trong hợp đồng bảo hiểm với khách hàng để nâng cao uy tín thương hiệu, hình ảnh của doanh nghiệp bảo hiểm. Cần đưa lên phương tiện thông tin đại chúng những trường hợp đặc biệt doanh nghiệp bảo hiểm chi trả quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng để tác động tới công chúng. Tuy nhiên thực hiện đúng lời cam kết doanh nghiệp bảo hiểm cần lưu ý một số trường hợp đặc biệt sau đây:

– Không vì sợ khách hàng phàn nàn khiếu nại, thậm chí nhờ báo chí đưa tin không tốt về doanh nghiệp bảo hiểm mà châm chước giải quyết quyền lợi bảo hiểm không đúng cho khách hàng. Vì nếu trả không đúng sẽ tạo ra sự nghi ngờ, bất bình với khách hàng còn lại. Ngay cả nhà báo khi chưa nắm rõ hợp đồng bảo hiểm, nguyên nhân, lý do doanh nghiệp bảo hiểm từ chối một phần hoặc toàn bộ yêu cầu trả tiền bảo hiểm cùng các bằng chứng liên quan nên thường đưa theo thông tin khách hàng phản ánh. Vì vậy doanh nghiệp bảo hiểm phải có phản hồi tích cực với báo chí để mọi người cùng tỏ tường sự việc.

– Phải kiểm soát chặt chẽ hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm, có dấu hiệu nghi vấn phải kiểm tra, kiên quyết loại bỏ yếu tố gian lận, trục lợi bảo hiểm để giữ cam kết cho các khách hàng khác vì tiền chi trả không phải của doanh nghiệp bảo hiểm mà từ phí bảo hiểm của các khách hàng đóng góp.

– Có bộ phận chuyên trách phòng chống gian lận, trục lợi bảo hiểm và xử lý khủng hoảng truyền thông khi những khách hàng hiểu sai về hợp đồng bảo hiểm, quyền lợi được bảo hiểm hoặc có ý đồ xấu đổ lỗi cho doanh nghiệp bảo hiểm không thực hiện đúng lời cam kết.

4.3. Đào tạo, hướng dẫn, sử dụng, kiểm soát chặt chẽ đội ngũ tư vấn viên, đại lý bảo hiểm sao cho giải thích được rõ ràng, đầy đủ và hiểu được các cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm cũng như nghĩa vụ của khách hàng. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là trừu tượng, vì vậy đưa sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đến tận tay khách hàng đa số là khách hàng cá nhân cần có đội ngũ trung gian: tư vấn viên, đại lý bảo hiểm. Chất lượng của đội ngũ tư vấn viên, đại lý bảo hiểm gắn liền với chất lượng khách hàng và chất lượng hợp đồng bảo hiểm được ký kết. Việc khách hàng từ bỏ hợp đồng bảo hiểm trước hạn do nghi ngờ các nội dung cam kết trong hợp đồng bảo hiểm hoặc không đủ khả năng duy trì việc đóng phí bảo hiểm đúng hạn có một phần do lỗi của tư vấn viên, đại lý bảo hiểm gây thiệt hại cho cả người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.

5. Đặc trưng thứ năm: bảo hiểm nhân thọ là một dịch vụ tài chính nhảy cảm

– Bảo hiểm nhân thọ là dịch vụ tài chính nên có mối quan hệ mất thiết ảnh hưởng lẫn nhau trong thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Một tác động nhỏ của 02 thị trường này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động bảo hiểm nhân thọ. Về kết quả đầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm (hình thành từ phí bảo hiểm thu được) và giá trị vốn đầu tư (bảo toàn vốn) như thay đổi tỷ giá, chỉ số lạm phát, lãi suất tiền gửi ngân hàng, chỉ số thị trường chứng khoán, biến động của thị trường bất động sản…

– Một sản phẩm bảo hiểm của một doanh nghiệp bảo hiểm nếu bị mất uy tín khách hàng có thể chấm dứt hợp đồng bảo hiểm với tất cả các sản phẩm bảo hiểm còn lại của doanh nghiệp bảo hiểm đó. Vì bản thân khách hàng cho rằng doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có 1 loại sản phẩm, chỉ biết hợp đồng bảo hiểm ký với doanh nghiệp bảo hiểm, nếu hợp đồng bảo hiểm có vấn đề thì tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm khác đều có vấn đề. Cách hiểu sai này làm cho doanh nghiệp bảo hiểm phải có cách ứng phó kịp thời giải thích rõ cho các khách hàng được biết sự khác biệt này.

– Một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ bị khủng hoảng có thể ảnh hưởng đến các doanh nghiệp bảo hiểm còn lại, thậm chí còn ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường vốn và tiền tệ. Vì hầu hết tiền phí bảo hiểm thu về đều được đầu tư có kỳ hạn vào nền kinh tế quốc dân (gửi ngân hàng, mua trái phiếu Chính phủ, đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản…). Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ để lại số tiền vừa đủ biên khả năng thanh toán theo quy định của pháp luật. Vì vậy nếu xảy ra khủng hoảng của 01 doanh nghiệp bảo hiểm cần có sự chung tay góp sức của những doanh nghiệp bảo hiểm còn lại, hoặc chia sẻ những khó khăn như nhận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo tinh thần tự nguyện hoặc theo chỉ định của Bộ Tài chính.

Luật kinh doanh bảo hiểm đã quy định mỗi doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải đóng hàng năm tối đa 0,3% doanh thu phí bảo hiểm vào Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm để chi trả cho người tham gia bảo hiểm khi doanh nghiệp bảo hiểm bị mất khả năng thanh toán./.

SOURCE: WEBSITE CỦA HIỆP HỘI BẢO HIỂM VIỆT NAM (iav.vn)

Like this:

Like

Loading…