Công văn số 155/TTR-CP của Chính phủ: Về kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới

CHÍNH PHỦ

CHÍNH PHỦ

_________

Số: 155/TTr-CP

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


________________________________________

Hà Nội, ngày 22  tháng 11 năm 2006

 

TỜ TRÌNH
QUỐC HỘI

Về kết quả đàm phán gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới

và phê chuẩn Nghị định thư
gia nhập Hiệp định thành lập

Tổ chức Thương mại thế giới

_______________

 

Sau gần 12 năm đàm phán, ngày 07
tháng 11 năm 2006 vừa qua, tại Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO.

Căn cứ Luật Ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, được sự ủy quyền của Chủ tịch nước, Chính
phủ trình Quốc hội kết quả đàm phán gia nhập WTO và kiến nghị phê chuẩn Nghị
định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO như sau:

  

Phần thứ nhất

WTO VÀ
TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN GIA NHẬP
WTO CỦA VIỆT NAM

I. GIỚI
THIỆU CHUNG VỀ WTO

WTO là tổ
chức thương mại quy mô toàn cầu, hiện có 149 thành viên, được thành lập vào ngày
01 tháng 01 năm 1995. Tiền thân của tổ chức này là Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao
lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở
mỗi nước thành viên.

Trong lịch sử
gần 50 năm của mình (1947 – 1994), GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán đa
phương về thương mại. Vòng thứ 8 được gọi là Vòng đàm phán Uruguay, diễn ra từ
năm 1986 đến năm 1994 đã hoàn tất quá trình cải tổ GATT để lập ra một định chế
thương mại toàn cầu mới có tên là Tổ chức Thương mại thế giới, gọi tắt là WTO. 

GATT là một hiệp định thương mại
đa phương, không phải là một tổ chức. WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các
cơ quan có thẩm quyền như Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, các Ủy ban chức năng
và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giúp việc cho các cơ quan này là Ban Thư ký
với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng Giám đốc. Trụ sở WTO đặt tại  Giơ-ne-vơ,
Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn đại
diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ
trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp
đại sứ, họp thường xuyên tại Giơ-ne-vơ). Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết,
không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp.

WTO có những chức năng cơ bản
sau đây:

– Quản
lý, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định của WTO.
Trước khi WTO được thành lập, chỉ tồn tại duy nhất một hiệp định đa phương là
GATT và hiệp định này chỉ điều chỉnh thương mại hàng hoá. WTO có một hệ thống
hiệp định đa phương (bắt buộc) và hiệp định nhiều bên (không bắt buộc) với phạm
vi điều chỉnh được mở rộng sang cả các lĩnh vực khác như thương mại dịch vụ, các
biện pháp về đầu tư liên quan đến thương mại và các khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.

– Thúc đẩy tự do hoá thương mại
thông qua các cuộc đàm phán đa phương về tự do hoá thương mại. Năm 2001, vòng
đàm phán đầu tiên của WTO được phát động với tên gọi là Nghị trình Phát triển
Đô-ha, hay Vòng Đô-ha. Vòng đàm phán này cho tới nay vẫn chưa kết thúc.

– Giải quyết tranh chấp thương
mại giữa các thành viên theo các quy tắc, trình tự, thủ tục do WTO quy định. Đây
là bước phát triển mới so với GATT, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo
đảm tuân thủ các luật lệ của WTO cũng như sự bình đẳng giữa các thành viên.

– Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho
các nước đang phát triển thông qua các chương trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân
lực; hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.  

Các nguyên tắc cơ bản của WTO
là:

– Không phân biệt đối xử: là
nguyên tắc quan trọng nhất của WTO, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ
quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Đối xử MFN quy định một thành viên phải đối
xử bình đẳng với tất cả các thành viên khác. Đối xử NT quy định phải dành cho
hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như dành cho
hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp trong nước. WTO cho phép có ngoại lệ về đối xử
MFN và NT nhưng phải theo đúng quy định của WTO.

– Thúc đẩy thương mại quốc tế
đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia:
bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành
vi gây lệch lạc thương mại như trợ cấp, phá giá v.v…

– Minh bạch hoá: bao gồm minh
bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách
yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được
công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống
nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có
liên quan được góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường
yêu cầu các thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra
các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có
thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh.

Hệ thống văn kiện pháp lý của
WTO bao gồm:

1. Hiệp định thành lập WTO,
thường gọi tắt là Hiệp định WTO;

2. Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (GATT), chuyên điều chỉnh thương mại hàng hoá;

3. Các
hiệp định phụ trợ cho GATT (như Hiệp định Nông nghiệp, Hiệp định về hàng rào kỹ
thuật đối với thương mại, Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại, Hiệp định về xác định trị giá hải quan v..v.);

4. Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ (GATS), chuyên điều chỉnh thương mại dịch vụ;

5. Hiệp định về các khía cạnh
liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs);

6. Thoả thuận về quy tắc và thủ
tục giải quyết tranh chấp;

7. Cơ chế rà soát chính sách
thương mại;

8. Các hiệp định thương mại
nhiều bên (Hiệp định về mua bán máy bay dân dụng, Hiệp định về mua sắm chính
phủ). 

Các văn kiện từ 1 đến 7 được gọi
là các văn kiện đa phương, mang tính bắt buộc, các thành viên phải cam kết tuân
thủ theo nguyên tắc “chấp nhận cả gói”. Với các hiệp định nhiều bên không mang
tính bắt buộc, các thành viên được khuyến khích tham gia trên cơ sở tự nguyện.
Tuy nhiên, các thành viên mới gia nhập từ năm 1995 đều phải tham gia các hiệp
định này, chí ít là cũng phải đàm phán và đưa ra cam kết nào đó.

II. ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO

Để gia nhập
nhiều tổ chức quốc tế, bên xin gia nhập chỉ cần chấp nhận Hiến chương, Điều lệ
hay các văn kiện pháp lý của tổ chức đó là đủ. WTO không làm theo cách này mà
yêu cầu các nước và vùng lãnh thổ xin gia nhập phải đàm phán với mọi thành viên
có quan tâm. Trong thời gian qua, cùng đàm phán gia nhập như Việt Nam còn có gần
30 nước, một nửa trong số đó là các nền kinh tế chuyển đổi.

Đàm phán gia
nhập WTO bao gồm 4 giai đoạn:

1. Giai
đoạn làm rõ chính sách:
Kèm theo đơn xin gia nhập, nước xin gia nhập phải đệ
trình Bị vong lục mô tả hiện trạng chính sách thương mại. Một Ban công tác sẽ
được thành lập, bao gồm các thành viên quan tâm đàm phán với nước xin gia nhập.
Nước xin gia nhập có nghĩa vụ trả lời bằng văn bản các câu hỏi của các thành
viên Ban công tác để làm rõ chính sách kinh tế – thương mại. Các câu hỏi và trả
lời này sẽ là dữ liệu để Ban thư ký tổng hợp xây dựng Báo cáo của Ban công tác
sau này.

2. Giai
đoạn đàm phán:
Đàm phán thực chất chỉ bắt đầu sau khi đã có bước tiến đáng
kể trong việc làm rõ chính sách, bao gồm đàm phán đa phương và đàm phán song
phương. Đàm phán đa phương là đàm phán với cả Ban công tác về việc tuân thủ các
hiệp định đa phương của WTO, theo đó, nước xin gia nhập phải đưa ra các cam kết
về việc thực thi các hiệp định, lộ trình điều chỉnh pháp luật và hình thành các
cơ chế, định chế cần thiết cho việc thực thi cam kết. Đàm phán song phương là
đàm phán về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ với từng thành viên quan tâm,
nhằm giải quyết các quyền lợi thương mại riêng. Khi kết thúc đàm phán song
phương, các thoả thuận riêng sẽ được tổng hợp lại theo nguyên tắc

“chỉ lấy cam kết tốt nhất” và mọi thành viên WTO đều được hưởng các cam kết “tốt
nhất” này theo nguyên tắc MFN.


3. Giai đoạn hoàn tất văn kiện gia nhập:

Trên cơ sở kết quả đàm phán đa phương và song phương, Ban công tác sẽ tổng hợp
và hoàn tất các văn kiện gia nhập trong bộ tài liệu dưới tên gọi “Nghị định thư
về việc gia nhập của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, bao gồm (i) Lời văn
Nghị định thư gia nhập; (ii) Báo cáo của Ban công tác; (iii) Biểu cam kết về mở
cửa thị trường hàng hoá; và (iv) Biểu cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ. Sau
khi thông qua các văn kiện này, Ban công tác hoàn thành nhiệm vụ của mình.

4. Giai đoạn phê
chuẩn:

Bộ văn kiện gia nhập sẽ được trình lên Hội nghị Bộ trưởng hoặc
Đại hội đồng thông qua. Theo quy định của Hiệp định WTO, Hội nghị Bộ trưởng và
Đại hội đồng sẽ thông qua văn kiện gia nhập khi có ít nhất là 2/3 số thành viên
tán thành. Tuy nhiên, trên thực tế, các nước chỉ có thể gia nhập khi không có
bất cứ thành viên nào phản đối. Sau khi bộ văn kiện được thông qua, nước xin gia
nhập sẽ tiến hành thủ tục phê chuẩn trong nước. 30 ngày sau khi Ban Thư ký WTO
nhận

được thông báo của nước xin gia nhập về việc đã hoàn tất thủ tục phê chuẩn,
nước đó mới chính thức trở thành thành viên của WTO[1].         

Phương thức “gia nhập
bằng đàm phán” đặt nước xin gia nhập vào thế bất lợi bởi vì:

– Đàm phán gia nhập là đàm phán một chiều. Mọi thành viên đều có
quyền đòi hỏi trong khi nước xin gia nhập không có quyền đó, chỉ hoặc là chấp
nhận, hoặc là kiên trì thuyết phục các thành viên giảm bớt yêu cầu. Kiểu đàm
phán này dẫn đến 2 hệ quả. Một là, quá trình đàm phán thường bị kéo dài. Hai là,
nước xin gia nhập nhiều khi phải chấp nhận những yêu cầu vượt ra ngoài chuẩn mực
của WTO, thường được gọi là yêu cầu (hoặc cam kết) WTO cộng. Tổng hoà các cam
kết WTO cộng đã tạo ra một kiểu phân biệt đối xử ngay trong lòng WTO mà nhiều
người gọi là “hệ thống tiêu chuẩn kép”. 

– Đàm phán một chiều
còn làm nảy sinh xu thế ép nước gia nhập sau phải cam kết ít nhất là bằng, trong
nhiều trường hợp là sâu và rộng hơn nước gia nhập trước. Tiêu chuẩn gia nhập, vì
vậy, được nâng dần.

– Trong một số trường
hợp, đàm phán có thể bị ảnh hưởng bởi các toan tính chính trị hoặc phi thương
mại khác khiến nước xin gia nhập rất khó định hướng hoặc xử lý. 

Đàm phán gia nhập và
các hệ quả của nó, như đã trình bày trên, là một thực tế mà mọi nước xin
gia nhập đều phải chấp nhận, kể cả những quốc gia được coi là chậm phát triển,
lẽ ra phải được hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt theo quy định của WTO.

Đàm phán gia nhập của
Việt Nam, bên cạnh những khó khăn và bất lợi chung như đã trình bày trên, còn
chịu ảnh hưởng của một số yếu tố bất lợi khác sau đây:

– Ta đàm phán khi đã
có Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA). Trong BTA, ta đã có những
cam kết có ý nghĩa về mở cửa thị trường, đặc biệt là dịch vụ. Theo nguyên tắc
MFN, khi ta vào WTO, mọi thành viên WTO sẽ được hưởng các cam kết trong BTA. Vì
lý do đó, trong đàm phán song phương, các thành viên đều yêu cầu ta phải lấy BTA
làm khởi điểm để đàm phán. Trên thực tế, ta chỉ có thể gia nhập WTO khi chấp
nhận cam kết ở mức BTA cộng, không thể bằng BTA và càng không thể thấp
hơn BTA.

– Ta đàm phán vào thời
điểm đang diễn ra Vòng Đô-ha. Các ý tưởng mới về tự do hoá thương mại, các yêu
cầu sâu hơn về mở cửa thị trường, vì vậy, đều được đặt lên bàn đàm phán.

– Các cam kết WTO cộng
có thể đã làm một số thành viên gia nhập trước ta gặp khó khăn trong việc thực
thi cam kết. Xuất phát từ đây, để bảo đảm chắc chắn việc thực thi, một số thành
viên còn muốn Việt Nam ban hành văn bản pháp luật để bảo đảm thực thi cam kết,
từ trước ngày ta vào WTO.

Với toàn bộ những yếu
tố bất lợi trên, nhiệm vụ đặt ra là phải cân đối giữa yêu cầu của các đối tác và
khả năng mở cửa thị trường thực tế của ta.

III. MỐI LIÊN HỆ
GIỮA WTO VỚI TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

Đại hội lần thứ VIII
của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia
các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường
quốc tế
“. Đại hội lần thứ IX và lần thứ X khẳng định chủ trương “Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững
“.

Thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, trong những năm đổi mới vừa qua, nước ta đã đẩy mạnh quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, đã mở rộng mạnh mẽ quan hệ kinh tế song
phương và đa phương; phát triển quan hệ đầu tư với nhiều nước và vùng lãnh thổ;
bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế như Ngân
hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Hàn Quốc và đang cùng ASEAN đàm phán khu vực mậu dịch tự do với một số
quốc gia khác như Úc, Niu Dilân, Ấn Độ, Liên minh châu Âu, v.v…; tham gia sáng
lập diễn đàn Á – Âu (ASEM); gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương (APEC). Nước ta cũng đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế và Hiệp định
về mở cửa thị trường với Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp định thương mại song
phương với Hoa Kỳ (BTA) theo chuẩn mực của WTO.

Thực tiễn những năm
qua cho thấy: trên cơ sở những thành tựu của công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc mở cửa thị trường và hội nhập
khu vực đã mang lại những kết quả rất đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu tăng
nhanh, kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và
doanh nghiệp nước ta được cải thiện đáng kể. Có thể nói tiến trình hợp tác song
phương và hội nhập khu vực như trên là bước chuẩn bị quan trọng để nền kinh tế
nước ta có thể hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới đang được toàn cầu hóa
một cách sâu sắc. Vì vậy, việc nộp đơn và sau đó là đàm phán để gia nhập WTO là
bước đi tiếp theo khách quan của cả tiến trình đổi mới và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. WTO chỉ là một trong những điểm đến của quá trình đổi mới lâu dài,
liên tục, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ta chủ động gia nhập WTO vì nhận thấy các quy định cơ bản của tổ chức này là
cùng chiều với công cuộc đổi mới của ta và việc gia nhập WTO có thể giúp ta phát
triển nhanh, có hiệu quả và bền vững hơn.    

IV. SỰ CẦN THIẾT,
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆC GIA NHẬP
WTO

Gia nhập WTO là tham
gia sâu hơn vào tiến trình toàn cầu hoá kinh tế. Tiến trình này có những mặt
thuận. Nó giúp các nước tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Tăng trưởng kinh
tế, vì vậy, trở nên ổn định và bền vững hơn. Sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch
vụ và phúc lợi chung của toàn xã hội được nâng cao nhờ nguồn lực được phân bổ
một cách có hiệu quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra cơ hội rất lớn cho các nước
đang phát triển đẩy mạnh công nghiệp hoá và tham gia có hiệu quả hơn vào phân
công lao động quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh mặt thuận, toàn cầu hoá kinh tế cũng
có những mặt nghịch. Trước hết, toàn cầu hoá có khả năng dẫn tới sự lệ thuộc
ngày càng tăng của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, vào các thành
tố có độ ổn định kém của kinh tế toàn cầu như luồng vốn đầu tư và thị trường tài
chính. Bên cạnh đó, toàn cầu hoá tuy có khả năng làm tổng sản phẩm xã hội tăng
lên nhưng cũng tiềm ẩn khả năng làm gia tăng hơn nữa khoảng cách phát triển giữa
nước giàu với nước nghèo cũng như giữa các vùng và các tầng lớp xã hội trong
phạm vi quốc gia. Cuối cùng, tự do hoá thương mại, nội dung đầu tiên và cốt lõi
của toàn cầu hoá kinh tế, thường có ảnh hưởng tiêu cực tới một bộ phận của sản
xuất trong nước, gây ra những vấn đề kinh tế và xã hội phức tạp.

Vì những mặt thuận,
thế giới có GATT, WTO và Nghị trình Phát triển Đô-ha. Vì những mặt nghịch, thế
giới có biểu tình chống toàn cầu hoá, có thất bại của hội nghị Xi-át-tơn và hội
nghị Can-cun. Tuy nhiên, bất chấp các dích dắc, tiến trình toàn cầu hoá kinh tế
vẫn tiến về phía trước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu, bởi lợi ích của toàn
cầu hoá kinh tế là rất khó phủ nhận.

Chúng ta nhận thức
được thực tiễn đó khi làm đơn và sau đó là đàm phán để gia nhập WTO.

Nhờ thực hiện đường
lối đổi mới và từng bước chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế
giới, nền kinh tế nước ta có những thay đổi rất tích cực. Đã hình thành một bước
quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tốc độ tăng
trưởng kinh tế luôn đạt mức cao; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng lực
cạnh tranh được nâng cao một bước; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực;
thị trường xuất khẩu được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng liên tục và
đạt xấp xỉ 40 tỷ USD trong năm 2006; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt trên 55
tỷ USD và tăng cao trong năm 2006. Việc làm được tạo ra ngày càng nhiều, công
cuộc xóa đói giảm nghèo thu được những thành tựu quan trọng.

Gia nhập WTO, ta sẽ có
cơ hội lớn để duy trì và phát huy các thành tựu đó bởi vì:

– Gia nhập WTO sẽ là
một tín hiệu rất mạnh về quyết tâm đổi mới của ta, qua đó góp phần thúc đẩy đầu
tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thêm năng lực sản xuất mới và đi
đôi với đó là năng lực xuất khẩu mới. Đây là cơ hội có ý nghĩa nhất khi ta là
thành viên WTO và là yếu tố thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu lao động, thúc đẩy tập trung kinh tế với tốc độ cao (tính đến năm 2006, đầu
tư nước ngoài chiếm đến 37% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 55% tổng kim
ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút 1 triệu lao động làm việc trực
tiếp). Ngoài ra, gia nhập WTO và việc thực hiện yêu cầu minh bạch hóa, công khai
hóa trong việc tiếp cận mọi cơ chế quản lý và chính sách quản lý cũng là điều
kiện tạo ra môi trường công khai, bình đẳng, là tiền đề của chống tham nhũng và
là điều kiện để phát huy vai trò giám sát của nhân dân.

– Gia nhập WTO, hàng
hoá và dịch vụ của ta sẽ được hưởng sự đối xử bình đẳng khi tiếp cận thị trường
của tất cả các thành viên WTO, chí ít là cũng bình đẳng theo các chuẩn mực của
WTO. Hạn ngạch dệt may sẽ được xoá bỏ, ngành dệt may sẽ có cơ hội để phát triển.
Với một số mặt hàng khác mà các thành viên WTO đang duy trì hạn ngạch thuế quan,
ta sẽ có cơ hội tham gia vào quá trình phân bổ hạn ngạch khi trở thành thành
viên của tổ chức này.  

 – Gia nhập WTO, ta sẽ
có cơ hội sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để đấu tranh bình đẳng
với các đối tác thương mại lớn, hạn chế được việc sử dụng các biện pháp phân
biệt đối xử, trái quy định của WTO đối với hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của ta.

– Cuối cùng, gia nhập
WTO, ta sẽ có cơ hội nâng cao vai trò và vị thế của mình trên trường quốc tế,
tham gia bình đẳng vào việc hoạch định các định chế thương mại toàn cầu và nâng
dần khả năng bảo vệ quyền lợi thương mại của ta, tạo điều kiện cho ta triển khai
có hiệu quả đường lối đối ngoại theo nguyên tắc
“Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển”
.  

Tuy nhiên, bên cạnh cơ
hội, việc gia nhập WTO cũng đặt ra một số thách thức to lớn. Đó là:

– Môi
trường kinh doanh sẽ trở nên cạnh tranh hơn, gây sức ép không nhỏ đối với nhiều
doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước.


Sức ép về chuyển
dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực có thể sẽ lớn hơn và gấp gáp hơn. Quá trình
này tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức
ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường tính năng động và
khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải
pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn, tạo dựng được môi
trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra hợp lý
hơn, với chi phí thấp hơn và do đó, hiệu quả hơn.


Các quy định toàn
diện của WTO sẽ đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và hoàn
thiện thể chế. Trước hết là phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh
để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng. Sau đó, phải liên
tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để phát huy mọi nguồn lực trong nước, thu
hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh,
những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của hội nhập kinh tế quốc tế. 

– Yêu cầu cao về minh
bạch hoá và công khai hoá của WTO sẽ đặt ra thách thức lớn cho nền hành chính
quốc gia. Nền hành chính quốc gia sẽ phải thay đổi theo hướng công khai hơn,
minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính
đáng của mọi công dân và doanh nghiệp, lấy công dân và doanh nghiệp làm trọng
tâm phục vụ, khắc phục toàn bộ các biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm.
Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy, sẽ không thể tận dụng được các
cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại.   

– Để tận dụng được các
cơ hội do việc gia nhập WTO đem lại, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần
phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ sở
và một đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đội ngũ những người hoạt động trên lĩnh vực
đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế phải được tăng cường. Đây cũng là một
thách thức to lớn đối với ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh
nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu
không có sự chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài
hạn rất khó khắc phục.

Tóm lại, gia nhập WTO
và hội nhập sâu hơn vào kinh tế toàn cầu sẽ đem lại cả cơ hội lẫn thách thức
nhưng để mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý
để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thắng
lợi những nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 –
2010
, trên tinh thần chủ động nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức, ta đã
quyết định đàm phán để gia nhập WTO.

V. CÁC NGUYÊN TẮC
CHỈ ĐẠO ĐÀM PHÁN

Nhận thức được cơ hội
và thách thức của việc gia nhập WTO cũng như thuận lợi và khó khăn của quá trình
đàm phán, ngay từ những ngày đầu bước vào đàm phán thực chất, Chính phủ đã chỉ
đạo Đoàn đàm phán quán triệt những phương châm sau đây:

1. Thực hiện nhất quán
chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa”.

2. Chấp thuận các quy
định chung đối với các thành viên WTO song cần tranh thủ những ưu đãi dành cho
các nước đang phát triển có trình độ thấp và đang chuyển đổi sang cơ chế thị
trường ở mức tối đa về mức độ cam kết cũng như thời hạn thực hiện. Đồng thời, cố
gắng tận dụng vị thế mới của nước ta trên trường quốc tế có được nhờ thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới.

3. Tranh thủ thời gian sớm gia nhập WTO vì lợi ích của ta song
với những bước đi vững chắc, gắn kết quá trình đàm phán với sự chuẩn bị ở trong
nước về luật pháp, cơ chế chính sách và nhất là sắp xếp doanh nghiệp nhà nước và
nâng cao khả năng cạnh tranh. Tránh đột biến về thu ngân sách; cố gắng duy trì
mức độ bảo hộ thích hợp, với thời hạn hợp lý đối với một số ngành hàng hết sức
cần thiết, có ý nghĩa chiến lược và nhạy cảm về mặt xã hội.

4. Thực hiện nhất quán
chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa; kết hợp hài hòa các nghĩa vụ và quyền lợi
của ta trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Những nguyên tắc này
là cơ sở để hình thành phương pháp đàm phán vững chắc. Trên bàn đàm phán, ta
thực hiện phương châm kiên trì, kiên quyết nhưng cũng rất thực tế và linh hoạt.
Nhờ vậy, trong thời gian chưa tới 3 năm kể từ khi bước vào đàm phán thực chất,
ta đã kết thúc được toàn diện đàm phán với kết quả, theo đánh giá của Chính phủ,
là tương đối phù hợp với trình độ phát triển của ta.


VI. TÓM TẮT TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN CỦA VIỆT NAM

Tháng 7 năm 1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên của GATT. Trong ngày
làm việc đầu tiên của mình, 04 tháng 01 năm 1995, WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập
của Việt Nam. Ngày 31 tháng 01 năm 1995, Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập
WTO được thành lập.

Thời gian đầu, đàm phán tiến triển rất khó khăn vì mức độ “mở” của nền kinh tế
còn thấp, bảo hộ còn cao, cơ chế quản lý còn chịu nhiều ảnh hưởng của thời bao
cấp, phức tạp, cồng kềnh, nhiều chỗ không tương thích với chuẩn mực của WTO. Quá
trình minh bạch hoá chính sách, vì vậy, bị kéo dài; đàm phán song phương chậm đi
vào thực chất. Bên cạnh đó, ta còn có khó khăn về nguồn lực, thiếu chuyên gia về
đàm phán thương mại trong khi các vấn đề WTO lại là những vấn đề mới, phức tạp.
Đàm phán chỉ thực sự được đẩy mạnh trong 3 năm cuối, khi ta đã có sự chuyển biến
mạnh về nhận thức của xã hội đối với hội nhập kinh tế quốc tế căn cứ trên các
thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, khi đội ngũ đàm phán dần dần được kiện
toàn, năng lực xây dựng pháp luật được nâng cao.


1. Đàm phán đa phương:

Phiên họp đầu tiên của Ban công tác được tổ chức vào tháng 7 năm
1998. Tới Phiên 7 (tháng 12 năm 2003), Ban công tác ghi nhận Việt Nam đã hoàn
thành cơ bản quá trình minh bạch hoá và thống nhất giao Ban Thư ký dự thảo tài
liệu Những yếu tố cơ bản của Báo cáo của Ban công tác. Phiên 9 (tháng 12
năm 2004) đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình đàm phán đa phương. Tại
phiên này, ta chính thức cam kết sẽ tuân thủ về cơ bản toàn bộ các hiệp định của
WTO ngay từ thời điểm gia nhập và đồng ý đẩy nhanh tiến độ xây dựng pháp luật để
thực thi các cam kết. Trên cơ sở đó, Ban công tác bắt đầu xem xét Dự thảo ban
đầu của Báo cáo gia nhập

Trong hai năm 2005 và
2006, trên cơ sở các cam kết mang tính xây dựng của ta và được sự hỗ trợ của kết
quả đàm phán song phương, Ban công tác đã tiến hành thêm 4 phiên họp chính thức
và một số phiên không chính thức để hoàn tất Báo cáo gia nhập. Tới Phiên 13
(ngày 09  – 13 tháng 10 năm 2006), ta và các đối tác thoả thuận được các chi
tiết cuối cùng của bản Báo cáo. Tại Phiên 14 (ngày 26 tháng 10 năm
2006), phiên cuối cùng, Ban công tác đã thông qua toàn bộ các văn kiện gia nhập
của Việt Nam để trình lên Đại hội đồng WTO xem xét.

Trong quá trình đàm
phán đa phương, ta đã phải trả lời 3516 câu hỏi của các đối tác. Hàng nghìn
trang tài liệu đã được đệ trình lên Ban công tác để làm rõ về chính sách thương
mại của Việt Nam. 

2. Đàm phán song
phương:

Tháng 01 năm 2002, ta
gửi các Bản chào ban đầu về hàng hoá và dịch vụ tới các thành viên có yêu
cầu đàm phán song phương. Bản chào này thiếu sức thuyết phục vì khi đó ta chưa
thừa nhận nguyên tắc phải dành BTA cho tất cả các thành viên WTO. Bản chào thứ
hai và thứ ba sau đó, do vẫn giữ nguyên cách tiếp cận, cũng không thành công
trong việc đưa đàm phán đi vào thực chất.

Tháng 4 năm 2004, ta
đưa ra bản chào thứ tư (Bản chào 4) với những cam kết đột phá. Về thuế, ta đồng
ý ràng buộc mức trần cho gần như toàn bộ biểu thuế. Về dịch vụ, ta tuân thủ hoàn
toàn nguyên tắc ngang bằng với BTA và đưa ra một số cam kết mới so với BTA. Bản
chào 4 đã tạo được sự quan tâm của các đối tác. Đàm phán ngay lập tức đi vào
thực chất và có tiến triển rất tích cực; ta chuyển sang xử lý yêu cầu cụ thể của
từng đối tác. 

Công tác vận động đàm phán được đẩy mạnh trên tất cả các diễn đàn
đa phương (ASEAN, APEC, ASEM v.v…) và trong các cuộc tiếp xúc song phương của
lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tháng 10 năm 2004, nhân Hội nghị Thượng đỉnh ASEM tại
Hà Nội, ta đã kết thúc đàm phán song phương với EU. Sau đó, nhân chuyến thăm Mỹ
La-tinh của Chủ tịch nước, ta kết thúc thêm với 3 nước là Bra-xin, Ac-hen-ti-na
và Chi-lê. Cũng trong tháng 10  năm 2004, ta có phiên đàm phán đầu tiên và thực
chất với Hoa Kỳ tại Washington.

Năm 2005 là năm bản lề
của đàm phán song phương. Đa số các cuộc đàm phán song phương được chuyển về thủ
đô để tăng tính hiệu quả. Nhờ đó, ta lần lượt kết thúc đàm phán với nhiều đối
tác lớn như Hàn Quốc, Nhật Bản, Canađa, Trung Quốc, Thụy Sỹ, Na Uy, Ấn Độ, Đài
Loan. Tổng cộng đến cuối năm 2005, ta kết thúc được đàm phán song phương với 20
đối tác và đạt tiến bộ rất quan trọng trong đàm phán song phương với Hoa Kỳ.
Sang đầu năm 2006, ta kết thúc đàm phán với Niu Dilân, ngay sau đó
là Úc và các nước Mỹ La-tinh còn lại. 

Ngày 13 tháng 5 năm 2006, tại Washington, ta đạt được thoả thuận song phương với
đối tác cuối cùng là Hoa Kỳ.

Tổng cộng, chúng ta đã phải đàm phán với 28 thành viên WTO. Số phiên đàm phán
song phương lên tới hơn 200 cuộc. Các nước Bun-ga-ri và Ki-rơ-gi-xtan có yêu cầu đàm phán nhưng sau đó rút yêu cầu. Cộng hoà Séc và Cộng
hoà Slô-va-kia ngừng đàm phán do gia nhập EU.


3. Đàm phán về nông nghiệp:

Đàm
phán về nông nghiệp là lĩnh vực đàm phán rất khó khăn vì quy định của WTO tương
đối lỏng lẻo. Ta rất muốn tận dụng sự lỏng lẻo này để đạt được mức an toàn hợp
lý cho sản xuất nông nghiệp của nước ta, nhưng nhiều thành viên của WTO lại là
những nước xuất khẩu nông sản nên đưa ra đòi hỏi rất cao so với quy định của
WTO. Ta sẽ không thể gia nhập nếu không giải quyết được sự mất cân đối này, nhất
là khi nông nghiệp cũng là lĩnh vực nhạy cảm đối với ta.   

Đàm
phán đa phương về nông nghiệp tập trung xem xét các chương trình hỗ trợ trong
nước và trợ cấp xuất khẩu nông sản. Ta đã phải thống kê tất cả các chương trình
trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước để trình ra Ban công tác. Trong 8 phiên
đầu, đàm phán đa phương về nông nghiệp tiến triển hết sức chậm chạp bởi ta không
chấp nhận bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản trong khi tất cả các nước mới gia
nhập, kể cả các nước chậm phát triển, đều cam kết xoá bỏ hình thức trợ cấp này
ngay từ khi gia nhập. Tới Phiên 9 (tháng 12 năm 2004), với chủ trương tạo đột
phá trong đàm phán, ta đồng ý cam kết bãi bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu nông
sản. Do đó, đàm phán đa phương về nông nghiệp coi như kết thúc về cơ bản, bởi
thời gian sau này chỉ tập trung làm rõ và chi tiết hoá các chương trình hỗ trợ
trong nước.


4. Công tác xây dựng pháp luật phục vụ đàm phán:

Theo quy định của Hiệp định WTO, Ban công tác yêu cầu ta, như tất cả các nước
xin gia nhập khác, phải đưa ra Chương trình xây dựng pháp luật để thực hiện các
cam kết gia nhập WTO.

Chương trình xây dựng pháp luật của Việt Nam được trình ra Ban công tác lần đầu
tiên vào tháng 6 năm 2000. Tại các phiên đàm phán đa phương tiếp theo, Chương
trình này thường xuyên được cập nhật hai nội dung: (i) bổ sung các cam kết mới
phù hợp với tiến trình đàm phán; và (ii) thông tin về tiến độ ban hành các văn
bản pháp luật. Chương trình được xây dựng dựa trên các tiêu chí chủ yếu sau:


– Tính khả thi
:
tức là phải phù hợp với điều kiện lập pháp của Việt Nam và Chương trình xây dựng
pháp luật dài hạn và hàng năm của Quốc hội, Ủy  ban Thường vụ Quốc hội và các
chương trình, kế hoạch ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ.


Tính đồng bộ: Chương trình được xây dựng trên cơ sở rà soát pháp luật
phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, được tiến hành từ năm 2000. Mục tiêu chính của
Chương trình là thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thương mại
trong điều kiện hội nhập, không vì thực hiện các nghĩa vụ thành viên WTO mà bỏ
qua tính đồng bộ của Chương trình.


Tính tương đồng: lộ trình và nội dung của Chương trình phù hợp với lộ
trình và nội dung đàm phán, hỗ trợ tối đa cho tiến trình đàm phán.

Tháng 3 năm 2004, đoàn Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội dẫn đầu đã đến
thăm trụ sở WTO tại Giơ-ne-vơ và cam kết tập trung xây dựng pháp luật để hỗ trợ
kết thúc đàm phán. Đến cuối năm 2004, ta quyết định đẩy nhanh tiến độ xây dựng
pháp luật để hoàn thành toàn bộ Chương trình trong năm 2005 – 2006. Ngày 14
tháng 6 năm 2005, Quốc hội ra Nghị quyết số 42/2005/QH11 về
việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005, trong đó ưu tiên
đẩy nhanh tiến độ ban hành văn bản phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
và đàm phán gia nhập WTO. Nhờ có nỗ lực này, đến Phiên 12 (tháng 7 năm 2006), 25
trong số 26 văn bản cam kết trong Chương trình đã được ban hành, chỉ còn lại Bộ
luật Thi hành án dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp cuối năm 2006.

Việc hoàn thành Chương trình xây dựng pháp luật đồ sộ là kết quả của sự chỉ đạo
sát sao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sự ủng hộ tích cực và hoạt động khẩn
trương của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao. Tất cả các thành viên của Ban công tác đều đánh giá cao
công tác xây dựng pháp luật của ta và coi đây là một trong những yếu tố quyết
định cho việc Việt Nam gia nhập WTO. 

Phần thứ hai

GIẢI TRÌNH KẾT
QUẢ ĐÀM PHÁN

Bộ văn kiện gia nhập
WTO của Việt Nam, được Ban Công tác thông qua vào ngày 26 tháng 10 năm 2006 và
Đại hội đồng WTO thông qua vào ngày 07 tháng 11 năm
2006, bao gồm các tài liệu sau:

– Nghị định thư về
việc gia nhập WTO của Việt Nam;

– Quyết định của Đại
hội đồng về việc gia nhập WTO của Việt Nam;

– Báo cáo của Ban công
tác về việc gia nhập của Việt Nam;

– Biểu cam kết về
thương mại hàng hóa (bao gồm cam kết về thuế nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan và
trợ cấp nông nghiệp);

– Biểu cam kết cụ thể
về thương mại dịch vụ.

Các văn kiện này thể
hiện toàn bộ các cam kết WTO của Việt Nam, như được trình bày dưới đây.

I. CÁC CAM KẾT ĐA
PHƯƠNG

Cam kết đa phương là
cam kết chung, mang tính nguyên tắc, về việc thực hiện các quy định của WTO.
Theo hướng đó, cam kết đa phương lẽ ra chỉ là các cam kết về việc tuân thủ các
hiệp định của WTO, hoặc các cam kết về sửa đổi quy định, chính sách cho phù hợp
với quy định của WTO. Tuy nhiên, do đàm phán gia nhập WTO là đàm phán một chiều,
các nước mới gia nhập WTO thường phải chấp nhận thêm một số cam kết đặc thù, tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh đàm phán, đối tác đàm phán hoặc điều kiện cụ thể của từng
nước xin gia nhập.

Tài liệu thể hiện các
cam kết đa phương là Báo cáo gia nhập. Báo cáo này do Ban Thư ký tổng hợp, dựa
trên các bản trả lời câu hỏi, các chương trình hành động và các bản thông báo về
chế độ, chính sách mà nước xin gia nhập gửi cho Ban công tác. Báo cáo bao gồm
các đoạn văn có đánh số, sắp xếp theo từng đề mục theo mẫu chung của WTO. Dưới
đây, xin giải trình từng mục cụ thể trong Báo cáo gia nhập của ta.


1. Giới thiệu chung và tuyên bố ban đầu:

Mục
này thể hiện một số nguyên tắc chung, không có cam kết. Ở phần này, ta khẳng
định quyết tâm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nhưng cũng yêu cầu các nước
linh hoạt trong quá trình đàm phán bởi ta là nước đang phát triển ở trình độ
thấp.


2. Chính sách tài chính – tiền tệ, ngoại hối và thanh toán:

Chính sách ngoại hối và các biện pháp liên quan đến thanh toán quốc tế là nội
dung quan trọng của đàm phán gia nhập. Lý do là một nước có thể dùng biện pháp
hạn chế ngoại hối hoặc hạn chế thanh toán quốc tế để làm giảm, thậm chí là vô
hiệu hóa các cam kết về mở cửa thị trường. Do WTO không có nhiều quy định liên
quan trực tiếp đến nội dung này nên các thành viên thường lấy các quy định của
IMF làm chuẩn mực.

Việt Nam, như tất cả các nước mới gia nhập khác, cam kết tuân thủ các quy định
có liên quan của WTO và IMF về chính sách tài chính, tiền tệ, ngoại hối và thanh
toán; không áp dụng các biện pháp hạn chế giao dịch vãng lai trái với quy định
của WTO và IMF.


3. Chính sách đầu tư:

Do WTO chỉ có các quy định về chính sách đầu tư liên quan đến thương
mại, không điều chỉnh đầu tư nói chung nên trong mục này, ta chỉ làm rõ chế độ,
chính sách, không đưa ra cam kết.


4. Các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát, hoặc được hưởng đặc quyền
hoặc độc quyền:

WTO không hạn chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, chỉ yêu cầu
doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo tiêu chí thương mại để bảo đảm môi
trường kinh doanh bình đẳng. Tuy nhiên, vấn đề doanh nghiệp nhà nước được nhiều
thành viên quan tâm bởi xuất phát điểm của ta là nền kinh tế chuyển đổi từ kinh
tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, Nhà nước vẫn còn tham gia rất
sâu vào các hoạt động kinh tế. Tới nay, tuy đã tiến hành sắp xếp lại nhưng số
lượng doanh nghiệp nhà nước vẫn còn khá nhiều,  chiếm thị phần chi phối trong
nhiều lĩnh vực. Vốn của doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số
vốn của các doanh nghiệp, mức tín dụng dành cho doanh nghiệp nhà nước ở mức cao.
Nhiều thành viên e ngại ta sẽ thông qua doanh nghiệp nhà nước để can thiệp vào
thị trường, gây lệch lạc thương mại, từ đó làm giảm, thậm chí vô hiệu hoá cam
kết về mở cửa thị trường. Vì vậy, bên cạnh cam kết về doanh nghiệp được hưởng
độc quyền hoặc đặc quyền theo quy định chung của WTO, các thành viên yêu cầu ta
cam kết thêm về doanh nghiệp nhà nước.

Cam
kết của ta trong lĩnh vực này tương tự như cam kết của một số nước mới gia nhập.
Theo đó, các doanh nghiệp nhà nước sẽ hoàn toàn hoạt động theo tiêu chí thương
mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước và không coi mua sắm của doanh nghiệp nhà nước là mua sắm chính
phủ. Tuy nhiên, ngôn ngữ cam kết của ta chặt chẽ hơn. Một là, khái niệm doanh
nghiệp nhà nước chỉ bao gồm các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát,
không bao gồm tất cả các “doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước”. Hai là, Nhà
nước với tư cách là một cổ đông hoặc thành viên góp vốn được can thiệp bình đẳng
vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông hoặc thành viên góp vốn khác.

Cam
kết này là hoàn toàn phù hợp với chủ trương đổi mới hoạt động và sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước của ta. Vì vậy, về cơ bản, các điều khoản liên quan của
Luật Doanh nghiệp sẽ không phải sửa đổi khi thực hiện cam kết này.

5. Tư nhân hoá và
cổ phần hoá:

Đây là đề mục phải có
trong Báo cáo gia nhập. Với các nước mới gia nhập khác, mục này được gọi là “tư
nhân hóa” nhưng theo đề nghị của Việt Nam, Ban công tác đã bổ sung thêm cụm từ
“cổ phần hóa” cho phù hợp với đặc thù của Việt Nam (trong tiếng Anh, khái niệm
“tư nhân hóa” được sử dụng thay thế cho khái niệm “cổ phần hóa”).

Cam kết của ta tại mục
này chỉ mang tính minh bạch hoá. Theo đó, ta đồng ý sẽ có báo cáo thường niên
cho WTO về tiến độ cổ phần hóa chừng nào ta còn duy trì chương trình này.

6. Chính sách giá:

Ta cam kết thực thi
việc quản lý giá phù hợp với các quy định của WTO và sẽ bảo đảm tính minh bạch
trong kiểm soát giá thông qua việc đăng tải các văn bản pháp luật trên Công báo.
Ta cũng cam kết bãi bỏ quy định về hai loại giá khác nhau áp dụng đối với một số
hàng hóa và dịch vụ giữa tổ chức, cá nhân nước ngoài và tổ chức, cá nhân trong
nước (trên thực tế, ta đã thực hiện cam kết này từ năm 2005).

7. Chính sách cạnh
tranh:

Do WTO không điều
chỉnh chính sách cạnh tranh nên tại mục này ta chỉ làm rõ chính sách, không đưa
ra cam kết.

8. Khuôn khổ xây
dựng và thực thi chính sách:

Cũng như các nước mới
gia nhập khác, ta đưa ra 3 cam kết tại mục này. Một là, ta sẽ phê chuẩn văn kiện
gia nhập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Hai là, mọi văn bản quy phạm pháp
luật, nếu được sửa đổi hoặc bổ sung, sẽ vẫn tuân thủ các quy định của WTO. Ba
là, các cơ quan xét xử sẽ giữ tư cách độc lập, khách quan khi xem xét các vụ
kiện các quyết định hành chính thuộc các lĩnh vực mà WTO điều chỉnh.

9. Quyền kinh doanh
(quyền xuất khẩu và nhập khẩu):

Đây là vấn đề được
nhiều thành viên của Ban công tác quan tâm bởi ta đang có quy định khác nhau về
quyền xuất khẩu, nhập khẩu giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh
nghiệp 100% vốn trong nước. Do đây là lĩnh vực ta đã có cam kết chính thức với
Hoa Kỳ trong BTA (phù hợp với quy định của WTO), nên ta đồng ý cho doanh nghiệp
và cá nhân nước ngoài được quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như doanh
nghiệp và cá nhân Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc danh mục
thương mại nhà nước ta chỉ có các doanh nghiệp nhà nước được chỉ định mới được
nhập khẩu (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo, tạp chí) và
một số mặt hàng nhạy cảm khác ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như
gạo và dược phẩm). Như các nước, ta cũng đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân
nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại
Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để
làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước
ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam
kết về quyền kinh doanh, như đã được chỉ ra trong Báo cáo gia nhập, sẽ không ảnh
hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân
phối, đặc biệt là đối với các sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo,
tạp chí. v.v…

Cam kết trên có một
điểm mới mà hệ thống pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể, đó là việc đăng
ký quyền xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện
diện tại Việt Nam. Vì vậy, sau khi cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn bộ văn kiện
gia nhập, Chính phủ sẽ  ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể.

10. Thuế nhập khẩu,
các loại thuế và các khoản thu khác:

Thuế suất thuế nhập
khẩu là đối tượng của đàm phán song phương. Vì vậy, tại mục này, ta chỉ cam kết
sẽ áp dụng thuế nhập khẩu trên cơ sở MFN cho tất cả các thành viên có quan hệ
WTO với Việt Nam (trừ những trường hợp ngoại lệ được WTO cho phép). Ngoài thuế
nhập khẩu, ta sẽ không áp dụng các khoản phụ thu đối với hàng nhập khẩu (phụ thu
nhập khẩu trên thực tế đã được bãi bỏ).


11. Hạn ngạch thuế quan:

Cam
kết cụ thể về hạn ngạch thuế quan (mức hạn ngạch, mức thuế v.v…) được thể hiện
ở Biểu cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa. Tại mục này, ta chỉ cam kết sẽ áp
dụng, phân bổ và quản lý hạn ngạch thuế quan một cách minh bạch, không phân biệt
đối xử và tuân thủ theo đúng các quy định của WTO. 


12. Miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:

Việc miễn, giảm thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu, nếu dựa trên thành tích xuất
khẩu hoặc tỷ lệ nội địa hóa, sẽ bị coi là trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO.
Vì vậy, để tuân thủ các quy định của WTO, ta cam kết sẽ miễn, giảm thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu trên cơ sở MFN và sẽ không gắn việc miễn, giảm thuế với các
yêu cầu về xuất khẩu hay nội địa hóa. Một số ưu đãi đầu tư dưới dạng miễn, giảm
thuế nhập khẩu, vì vậy, sẽ không được áp dụng nữa. Tuy nhiên, với các dự án đã
được hưởng ưu đãi loại này từ trước khi ta vào WTO, ta sẽ có một khoảng thời
gian là 5 năm để bãi bỏ hoàn toàn (xin xem thêm phần trợ cấp phi nông nghiệp).


13. Phí và lệ phí áp dụng với dịch vụ được cung ứng:

Ta
cam kết sẽ áp dụng các loại phí và lệ phí theo quy định của WTO, cụ thể là mức
phí sẽ phản ánh đúng chi phí của dịch vụ được cung ứng. Việc quy định phí và lệ
phí sẽ không vì mục đích bảo hộ hoặc thu ngân sách. Hiện nay quy định về thu phí
trong lĩnh vực hải quan chưa hoàn toàn đúng với nguyên tắc nêu trên nên sẽ phải
điều chỉnh lại khi ta vào WTO.


14. Thuế nội địa:

Nhìn chung, hệ thống thuế trong nước của ta đã tương đối phù hợp với các quy
định của WTO. Riêng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia chưa hoàn toàn
phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia (NT). Đây là một trong số ít vấn đề khó
trong đàm phán đến thời điểm cuối cùng mới giải quyết được. Các thành viên WTO
cũng đồng ý thời gian chuyển đổi là 3 năm để ta điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc
biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định của WTO. Hướng sửa đổi là, đối
với rượu chưng cất trên 20 độ cồn, ta sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một
mức thuế phần trăm thống nhất; đối với bia, ta sẽ chỉ áp dụng 1 mức thuế phần
trăm.

15. Biện pháp hạn
chế định lượng đối với hàng nhập khẩu (bao gồm cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập
khẩu, giấy phép nhập khẩu):

Ta đồng ý cho nhập
khẩu xe máy phân khối lớn không muộn hơn ngày 31 tháng 5 năm
2007. Tuy nhiên, ta sẽ quy định độ tuổi người sử dụng, đưa ra tiêu chí cấp bằng
lái và một số biện pháp khác. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ
biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, sẽ chỉ có một doanh
nghiệp được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu
thỏa thuận được cho hai mặt hàng này là tương đối cao. Với ô tô cũ, ta
cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm nhưng bảo lưu
quyền áp dụng thuế nhập khẩu cao và các biện pháp quản lý kỹ thuật chặt chẽ. Ta
khẳng định biện pháp cấm nhập khẩu thiết bị và phần mềm mã hóa thuộc diện bí
mật nhà nước
không ảnh hưởng tới các sản phẩm thương mại thông thường phục
vụ tiêu dùng đại chúng. Việc áp dụng các biện pháp kiểm soát nhập khẩu sản phẩm
và phần mềm mã hóa, nếu có, cũng sẽ tuân thủ các quy định của WTO. Ta không bãi
bỏ biện pháp cấm nhập khẩu một số mặt hàng tiêu dùng đã qua sử dụng.

Về cấp phép nhập khẩu,
ta cam kết sẽ chuyển việc quản lý nhập khẩu mặt hàng đường từ “giấy phép tùy ý”
sang hạn ngạch thuế quan. Ta bảo lưu quyền cấp phép nhập khẩu văn hoá phẩm, chủ
yếu để kiểm duyệt nội dung, nhưng bảo đảm cơ chế cấp phép nhằm mục đích kiểm
duyệt này sẽ tuân thủ theo các quy định về minh bạch hoá của WTO.

16. Xác định trị
giá tính thuế hải quan (trị giá tính thuế nhập khẩu):

Ta cam kết tuân thủ
Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO ngay từ khi gia nhập.
Cụ thể, ta sẽ không áp dụng giá tính thuế tối thiểu (trên thực tế đã được bãi
bỏ) và sẽ tuân thủ hoàn toàn các quy định của WTO về nguyên tắc và trình tự xác
định trị giá tính thuế nhập khẩu. Ta đã cam kết sửa đổi một số văn bản về xác
định trị giá tính thuế chưa hoàn toàn phù hợp với WTO.  

17. Quy tắc xuất
xứ:

Ta cam kết tuân thủ
Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO từ thời điểm gia nhập. Trên thực tế, ta
không duy trì các quy định về xuất xứ vi phạm quy định của Hiệp định này.

18. Thủ tục hải
quan khác và giám định trước khi giao hàng:

Ta cam kết nếu có áp
dụng việc giám định trước khi giao hàng tại cảng đi thì sẽ tuân thủ Hiệp định về
kiểm tra trước khi giao hàng cũng như các Hiệp định có liên quan khác của WTO.
Trên thực tế, thủ tục hải quan của ta không vi phạm quy định này của WTO và Nhà
nước cũng không yêu cầu các doanh nghiệp phải sử dụng dịch vụ giám định trước
khi giao hàng tại cảng đi.


19. Chống bán phá giá, chống trợ cấp và các biện pháp tự vệ:

Ta cam kết tuân thủ các Hiệp định có liên quan của WTO khi áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Ta cũng sẽ thông
báo cho WTO các quy định của ta về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.

Tương tự như một số nước mới gia nhập WTO, ta buộc phải chấp nhận điều khoản về
nền kinh tế phi thị trường trong thời gian tối đa là 12 năm (không muộn
hơn 31 tháng 12 năm 2018). Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh
được với thành viên WTO nào đó là nền kinh tế Việt Nam đã hoàn toàn hoạt động
theo cơ chế thị trường thì thành viên WTO đó sẽ ngừng áp dụng điều khoản “kinh
tế phi thị trường” đối với ta. Đây là một trong số nội dung đàm phán khó khăn
nhất đối với các nền kinh tế chuyển đổi khi gia nhập WTO.

Điều khoản “kinh tế phi thị trường” nói trên chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện
chống bán phá giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc
thù (khác với cơ chế chung trong WTO) đối với hàng xuất khẩu của ta, dù ta bị
coi là nền kinh tế phi thị trường.


20. Các quy định về xuất khẩu, bao gồm thuế xuất khẩu, phí và lệ phí, thuế nội
địa đối với hàng xuất khẩu và hạn chế xuất khẩu:

WTO không có quy định điều chỉnh về thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, một số thành
viên, đặc biệt là các nước đã phát triển như Mỹ, EU, Ca-na-đa, Úc yêu cầu Việt
Nam phải cắt giảm thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng và cam kết ràng buộc cả
biểu thuế xuất khẩu (không mở rộng phạm vi mặt hàng và không tăng thuế so với
danh mục của biểu thuế hiện tại của Việt nam). Một số nước đang phát triển cho
rằng thuế xuất khẩu không thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO và không tán thành
các yêu cầu nêu trên. Đây cũng là vấn đề đang được đàm phán và chưa được giải
quyết trong vòng đàm phán Đô-ha. Vì vậy, đến tận phiên đàm phán cuối cùng ta mới
đạt được thoả thuận với các thành viên. Theo đó, ta cam kết sẽ giảm thuế xuất
khẩu cho các loại phế liệu kim loại đen và kim loại mầu nhưng không phải ràng
buộc toàn bộ biểu thuế xuất khẩu và cũng không xem việc giảm thuế xuất khẩu là
một phần của cân bằng nhân nhượng trong đàm phán gia nhập WTO. Ngoài ra, ta chấp
nhận áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu, phí và lệ phí cũng như thuế nội
địa đối với hàng xuất khẩu theo đúng Hiệp định GATT của WTO.

21. Chính sách công nghiệp, bao gồm cả chính sách trợ cấp:

Ta
đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định của WTO
(trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa)[1].
Tuy nhiên, với các ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã
cấp trước ngày gia nhập WTO, ta bảo lưu được thời gian quá độ là 5 năm
(trừ đối với ngành dệt may).

Ta không cam kết về
trợ cấp đối với doanh nghiệp nhà nước. Trợ cấp cho doanh nghiệp nhà nước sẽ được
áp dụng theo các nguyên tắc chung của WTO.

Mặc
dù thời gian chuyển đổi là 5 năm, nhưng trong tương lai gần, để nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh, cũng phải tính tới việc điều chỉnh dần chính sách trợ cấp
để tiến tới loại bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu đối với hàng phi nông sản. Ta đã
đi được những bước đi đầu tiên theo hướng này. Luật Đầu tư năm 2005 đã bãi bỏ
các loại trợ cấp xuất khẩu bị WTO cấm. Chính phủ cũng đã chuyển Quỹ Hỗ trợ phát
triển thành Ngân hàng Phát triển, điều chỉnh lại mục tiêu và hoạt động của Quỹ
Hỗ trợ xuất khẩu, chuyển các loại trợ cấp bị WTO cấm sang các hình thức khác phổ
dụng hơn trên thế giới và được WTO thừa nhận.


22. Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, tiêu chuẩn và chứng nhận hợp chuẩn:

WTO
yêu cầu các nước mới gia nhập phải cam kết thực thi toàn bộ các nghĩa
vụ của Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (Hiệp định
TBT) kể từ khi gia nhập. Trong quá trình đàm phán, ta đã đệ trình Chương trình
hành động thực hiện Hiệp định TBT và đã được các thành viên chấp nhận. Để triển
khai Chương trình, Quốc hội đã ban hành Luật về Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
(tháng 6 năm 2006). Chính phủ cũng đã xây dựng Chương trình hành động của Chính
phủ, thành lập Ban liên ngành về TBT và mạng lưới TBT ở 12 Bộ, ngành và 64 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương để thực hiện chức năng minh bạch hóa và nghĩa vụ
thông báo.

Ta
đã cam kết tuân thủ đầy đủ các quy định của Hiệp định TBT. Tuy nhiên, đối với
một số nội dung mà pháp luật trong nước chưa quy định chi tiết, Chính phủ cần
làm rõ khi ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật về Tiêu chuẩn và quy
chuẩn kỹ thuật năm 2006.

23. Các biện pháp
vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật:

Hiệp định về Các
biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (Hiệp định SPS)
là một trong những hiệp định quan trọng nhất của WTO. Vì vậy, các nước đàm phán
gia nhập WTO, kể cả các nước đang phát triển, đều được yêu cầu phải thực thi
toàn bộ các nghĩa vụ của Hiệp định này kể từ khi gia nhập. Trong quá trình đàm
phán, ta đã đệ trình Chương trình hành động thực hiện Hiệp định SPS. Ban đầu, ta
đề nghị thời gian chuyển đổi từ 3 đến 5 năm để thực hiện một số nghĩa vụ của
Hiệp định nhưng không được các thành viên chấp nhận
(ta đã cam kết thực
hiện các nghĩa vụ này trong BTA). Trên thực tế, hệ thống pháp luật và các biện
pháp SPS mà ta đang áp dụng cũng không có gì trái Hiệp định SPS. Vì vậy, ta đã
cam kết tuân thủ toàn bộ Hiệp định SPS kể từ khi gia nhập.

Việc thực hiện Hiệp
định SPS cũng có những điểm phù hợp với lợi ích của ta. Việc áp dụng sớm Hiệp
định SPS sẽ góp phần nâng cao khả năng quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm
dịch động, thực vật trong nước, qua đó bảo vệ người tiêu dùng và góp phần nâng
cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu.

Ta đã thành công trong
việc thuyết phục các thành viên đưa các cam kết về sản phẩm biến đổi gien
(GMO)
ra
khỏi Báo cáo gia nhập. Tuy nhiên, trong quan hệ song phương, ta đồng ý sẽ tham
vấn với một số thành viên khi đưa ra các quy định cho sản phẩm GMO. 

Ta cũng cam kết sẽ áp
dụng các quy định về hạn sử dụng của nguyên liệu thực phẩm và phụ gia thực
phẩm
theo các nguyên tắc chung của Hiệp định SPS.

24. Các biện pháp
đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs):

Hiệp định về các biện
pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO (Hiệp định TRIMs) không quy định cụ
thể thế nào là một biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại mà chỉ đưa ra một
Danh mục minh họa một số biện pháp đầu tư không phù hợp với nghĩa vụ dành đối xử
quốc gia nêu tại Điều III và nghĩa vụ loại bỏ hạn chế về định lượng
nêu tại Điều XI của Hiệp định GATT. Theo đó, tất cả các biện pháp được mô tả
trong Danh mục minh họa, cho dù được áp dụng như là điều kiện để thành lập, mở
rộng doanh nghiệp hay là điều kiện để doanh nghiệp đó được hưởng ưu đãi đầu tư,
đều không được phép áp dụng. Các biện pháp chính được mô tả trong Danh mục bao
gồm: yêu cầu thực hiện nội địa hóa, yêu cầu đầu tư phải gắn với phát triển nguồn
nguyên liệu trong nước, yêu cầu cân đối ngoại tệ, cân đối xuất – nhập khẩu hoặc
yêu cầu hạn chế xuất khẩu.

Đối
với Việt Nam, các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIMs không phải là điều mới mẻ. Trong
BTA ký với Hoa Kỳ, Việt Nam về cơ bản đã cam kết thực hiện đầy đủ các quy định
như của Hiệp định TRIMs. Luật Đầu tư năm 2005, có hiệu lực từ ngày
01 tháng 7 năm 2006, đã nội luật hóa đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong BTA.
Theo đó, đã loại bỏ toàn bộ các biện pháp bị coi là vi phạm Hiệp định TRIMs của
WTO. Do đó, ta đồng ý cam kết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quy định tại Hiệp định
TRIMs từ thời điểm gia nhập.

Cam
kết này góp phần cải thiện môi trường đầu tư và tăng khả năng thu hút đầu tư
trong một số ngành. Tuy nhiên, để duy trì mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội,
nhất là đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển nguồn nguyên
liệu trong nước, cũng cần nghiên cứu áp dụng một số biện pháp mới thay thế cho
các biện pháp trước đây theo nguyên tắc bảo đảm mục tiêu phát triển nhưng vẫn
phù hợp với quy định của WTO. Chính phủ đang nghiên cứu áp dụng một số biện pháp
như vậy, trong đó có việc thay tiêu chí xuất khẩu (để được hưởng ưu đãi) bằng
các tiêu chí khác (về sử dụng lao động, về địa bàn đầu tư …); khuyến khích các
dự án đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, khuyến khích đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng và vùng nguyên liệu tập trung, nhất là ở các địa bàn có điều kiện
kinh tế – xã hội khó khăn để hỗ trợ nguyên liệu cho các dự án nuôi trồng, chế
biến các sản phẩm nông, lâm nghiệp v.v…


25
.

Khu
thương mại tự do và đặc khu kinh tế:

Việc vận hành các “đặc khu kinh tế” (như khu chế xuất, khu kinh tế mở, khu kinh
tế cửa khẩu, khu thương mại tự do, khu công nghiệp, khu công nghệ cao v.v…)
với các chế độ thương mại riêng, trong một số trường hợp, có thể dẫn đến việc vi
phạm các quy định của WTO và làm mất đi tính thống nhất về chính sách thương mại
của một nước.

Chính vì vậy, ta cam kết các quy định và chính sách áp dụng cho các “đặc khu
kinh tế” sẽ tuân thủ đúng các quy định của WTO và các cam kết của ta về trợ cấp
bị cấm, thuế nội địa, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại và các quy
định khác. Thí dụ, các doanh nghiệp sẽ không cần phải đáp ứng các điều kiện về
xuất khẩu hay tỷ lệ nội địa hóa khi đầu tư vào các khu này; hàng hóa khi nhập
vào và xuất ra khỏi các khu này sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định (về thuế,
về thủ tục hải quan v.v…) theo đúng các quy định của WTO và cam kết của ta.

Luật Đầu tư năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, đã điều chỉnh
chính sách phù hợp với cam kết này của ta.

26. Mua sắm chính
phủ và mua bán máy bay dân dụng:

Hiệp định Mua sắm chính phủ và Hiệp định Mua bán máy bay dân dụng là các Hiệp
định nhiều bên, các thành viên WTO không bắt buộc phải tham gia. Vì vậy, tại mục
này, ta không đưa ra bất kỳ cam kết nào về việc gia nhập hai Hiệp định. Ta cũng
không chấp nhận tham gia hoặc trở thành quan sát viên của Ủy ban về Mua sắm
chính phủ mặc dù sức ép rất lớn và một số thành viên gia nhập trước ta đã phải
chấp nhận.


27. Quá cảnh:

Tự
do quá cảnh là một trong những yêu cầu của WTO. Luật Thương mại ban hành năm
2005 không có quy định nào về quá cảnh trái với quy định của WTO. Vì vậy, ta cam
kết sẽ tuân thủ các quy định của WTO về quá cảnh ngay từ thời điểm gia nhập.


28. Nông nghiệp:

Hiệp định Nông nghiệp
của WTO điều chỉnh 3 nội dung chính:



Về mở cửa thị trường, đặc biệt là về thuế nhập khẩu và hạn ngạch thuế quan
:
WTO quy định các thành viên phải ràng buộc mức trần đối với tất cả các dòng thuế
nông sản và chuyển từ các biện pháp hạn chế định lượng
(như
cấm, hạn ngạch) sang sử dụng thuế nhập khẩu
(thuế
hóa) hoặc hạn ngạch thuế quan.

– Về chính sách hỗ trợ trong nước đối với nông nghiệp:
WTO cho phép áp dụng các hình thức hỗ trợ nhằm mục đích khuyến nông, xóa đói,
giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng v.v…

(thuật
ngữ của WTO là hỗ trợ “hộp xanh”, hỗ trợ “chương trình phát triển”) nhưng yêu
cầu phải cam kết cắt giảm đối với các loại hỗ trợ trong nước khác gây lệch lạc
thương mại

(thuật
ngữ của WTO là hỗ trợ “hộp hổ phách”) nếu như các loại hỗ trợ đó vượt quá một
mức nào đó

(gọi
là mức tối thiểu – de minimis). Với các nước đang phát triển, mức tối
thiểu này là 10% giá trị sản lượng nông nghiệp.



Về trợ cấp xuất khẩu nông sản
:
Hiệp định Nông nghiệp không cấm và cũng không quy định phải bãi bỏ trợ cấp xuất
khẩu nông sản. Tới cuối năm 2005, trong khuôn khổ Vòng Đô-ha, các
thành viên WTO mới đạt được thỏa thuận về việc cắt giảm, tiến tới xóa bỏ hoàn
toàn trợ cấp xuất khẩu nông sản vào năm 2013. Tuy nhiên, các thành viên mới gia
nhập WTO, bao gồm cả Trung Quốc và Campuchia, đều đã phải cam kết bãi bỏ ngay
trợ cấp xuất khẩu nông sản từ khi gia nhập.

Tương tự như các nước
mới gia nhập khác, ta cam kết sẽ không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông
sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy
định riêng của WTO dành cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực này.

Các cam kết về mở cửa
thị trường xin được trình bày trong phần nói về thuế nhập khẩu và hạn ngạch thuế
quan.

29. Ngư nghiệp và
dệt may:

Về ngư nghiệp,
ta không đưa ra bất kỳ cam kết nào mà chỉ cung cấp một số thông tin để làm rõ
chính sách hiện hành. Về dệt may, ta đã đề nghị xóa toàn bộ phần nói về
dệt may trong Báo cáo của Ban công tác, tức là các thành viên WTO sẽ không được
áp dụng hạn ngạch dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên, theo thỏa thuận
riêng với Hoa Kỳ, trong vòng 1 năm kể từ khi gia nhập WTO, nếu có bằng chứng về
trợ cấp bị WTO cấm (đối với dệt may), Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tham vấn trong vòng
60 ngày. Nếu quá trình tham vấn không giải quyết được vấn đề, hai bên sẽ đưa vụ
việc ra trọng tài trong khuôn khổ WTO để phân xử, trong thời hạn 120 ngày. Nếu
trọng tài phán quyết có vi phạm, Hoa Kỳ sẽ có quyền tái áp dụng hạn ngạch trong
thời gian tối đa là 1 năm.

30. Bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ:

Các quy định về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ trong khuôn khổ WTO được thể hiện trong Hiệp định về các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs). 

Tương tự như thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ, Hiệp định
TRIPs cũng quy định 2 hai nguyên tắc cơ bản trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ là nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN).
Hiệp định đề ra các tiêu chuẩn tối thiểu đối với việc bảo hộ tất cả các đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm: quyền tác giả và các quyền liên quan
đến quyền tác giả, sáng chế, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý, quyền chống cạnh tranh
không lành mạnh.

Các chuẩn mực về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Hiệp định TRIPs
cũng được quy định trong một số điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia như
BTA, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (năm 1883, sửa đổi lần cuối năm
1979), Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (có hiệu lực
tại Việt Nam từ ngày 26 tháng 10 năm 2004), Công ước Giơ-ne-vơ bảo hộ nhà sản
xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép không được phép bản ghi âm của họ (có
hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 6 tháng 7 năm 2005), Công ước Bơ-rúc-xen liên quan
đến việc phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (có hiệu
lực tại Việt Nam từ ngày 12 tháng 01 năm 2006).

Hiệp định TRIPs quy
định nhiều nghĩa vụ đối với việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Do ta đã thực
hiện BTA với nhiều chuẩn mực tương đương Hiệp định TRIPs và đã tham gia nhiều
điều ước quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, hệ thống pháp luật trong nước về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng đã tương đối phù hợp với các quy định tương ứng
của Hiệp định TRIPs nên việc ta gia nhập WTO và tuân thủ theo Hiệp định TRIPs về
cơ bản không làm phát sinh nghĩa vụ mới. Nghĩa vụ lớn nhất của ta là bảo đảm
thực thi một cách có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ. Theo hướng đó, ta đưa ra cam
kết như sau: 

– Tuân thủ đầy đủ tất
cả các quy định của Hiệp định TRIPs kể từ khi gia nhập WTO.

– Ban hành thông tư
liên tịch hướng dẫn thi hành các quy định về tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ,
trong đó quy định rõ hành vi giả mạo nhãn hiệu, xâm phạm quyền tác giả và quyền
liên quan đến quyền tác giả ở quy mô thương mại bị coi là hành vi phạm tội; quy
định thẩm quyền thu giữ và tiêu hủy các sản phẩm xâm phạm cũng như nguyên vật
liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất ra sản phẩm xâm phạm cho các
cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục hình sự.

– Khi ban hành Nghị định hướng dẫn Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005 (Điều 25 và Điều 32) sẽ quy định thu hẹp các ngoại lệ về quyền
tác giả và các quyền liên quan theo quy định tại Công ước Berne và Hiệp định
TRIPs (ta đã thực hiện việc này khi ban hành Nghị định số
100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết về
hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền
tác giả và quyền liên quan).

– Thực hiện Điều 26 và
Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 bằng cách áp dụng trực tiếp Điều 11bis
của Công ước Berne (quy định của ta về việc tổ chức phát sóng không phải xin
phép nhưng phải trả tiền trong các chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo
hoặc thu tiền dưới bất cứ hình thức nào là không hoàn toàn tuân thủ Hiệp định
TRIPs và Công ước Berne). Điều 11bis Công ước Berne quy định tổ chức phát sóng
khi sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng không phải
xin phép nhưng phải đảm bảo quyền nhân thân và trả tiền cho chủ thể quyền. Tuy
nhiên,  Điều 26 và Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 lại quy định các tổ
chức phát sóng sử dụng “các tác phẩm đã được công bố” và “bản ghi âm, ghi hình”
để thực hiện chương trình phát sóng không phải xin phép, chỉ phải trả tiền nhuận
bút hoặc thù lao trong trường hợp có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất
kỳ hình thức nào cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan. Như vậy, quy
định tại Điều 26 và Điều 33 của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 chưa hoàn toàn phù hợp
với Công ước Berne.

– Ban hành trước thời
điểm gia nhập văn bản quy phạm pháp luật quy định các cơ quan Chính phủ chỉ sử
dụng phần mềm máy tính hợp pháp và không vi phạm quyền tác giả của những phần
mềm này, quy định việc mua và quản lý các phần mềm này; ban hành văn bản quy
phạm pháp luật để quy định các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình chỉ được cung
cấp cho khách hàng. Liên quan đến chương trình truyền hình, Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005 và Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 09 năm 2006 ta đã quy định
các tổ chức phát sóng phải bảo đảm quyền tác giả và quyền liên quan theo quy
định của pháp luật.

31. Các chính sách
ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ:

Trong mục này, bên
cạnh việc làm rõ các chính sách tác động đến thương mại dịch vụ, ta đưa ra một
số cam kết để làm rõ, hoặc bổ sung thêm cho Biểu cam kết dịch vụ. Những cam kết
đáng chú ý là:

– Việc cấp phép cung ứng dịch vụ viễn thông sẽ được thực hiện
theo các tiêu chí khách quan, minh bạch. Các doanh nghiệp không phải doanh
nghiệp nhà nước được tham gia cung ứng dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng
mạng và được tham gia liên doanh với nước ngoài theo các quy định trong Biểu cam
kết về mở cửa thị trường dịch vụ. Ngoài ra, trước khi gia nhập, Việt Nam sẽ bãi
bỏ chế độ phân bổ lưu lượng thoại quốc tế cho các doanh nghiệp, dù việc phân bổ
này là thực hiện theo thỏa thuận tự nguyện của các nhà cung ứng dịch vụ viễn
thông.

– Không quá 3 tháng
sau ngày Nghị định thư gia nhập WTO được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phê
chuẩn, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định hướng dẫn việc cấp phép cung ứng dịch vụ
chuyển phát nhanh. Trong thời gian từ nay đến đó, việc cấp phép cung ứng dịch vụ
chuyển phát nhanh sẽ được thực hiện theo các tiêu chí minh bạch đề cập tại đoạn
508 của Báo cáo gia nhập. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cung ứng
dịch vụ chuyển phát nhanh có quyền sở hữu và vận hành các phương tiện đường bộ
phục vụ cho việc cung ứng dịch vụ của họ.

– Các ngân hàng 100%
vốn nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với Biểu cam kết về thương mại dịch vụ, sẽ
được dành đối xử quốc gia trong các vấn đề có liên quan đến thiết lập hiện diện
thương mại. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hoạt động cho vay trên cơ sở vốn
của ngân hàng mẹ. Các quy định áp dụng cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bao
gồm cả các quy định về vốn tối thiểu, sẽ được thực hiện theo thông lệ được thừa
nhận chung trên thế giới. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mở thêm điểm
giao dịch ngoài trụ sở của chi nhánh, nhưng số lượng chi nhánh của ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam sẽ không bị hạn chế. Máy rút tiền tự động (ATM) không
chịu sự điều chỉnh của quy định hạn chế mở thêm “điểm giao dịch ngoài trụ sở
chính”. Ngân hàng nước ngoài sẽ được hưởng đối xử MFN và đối xử NT trong việc
lắp đặt và vận hành máy ATM. 

– Việt Nam sẽ thực
hiện theo các cam kết trong Biểu cam kết về dịch vụ và các cam kết có liên quan
trong Báo cáo gia nhập của Ban Công tác, nếu như các quy định về điều kiện cấp
giấy phép thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm và chứng khoán đang
áp dụng có nội dung không phù hợp với các cam kết này. Việt Nam sẽ ban hành các
quy định đối với chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ (chi nhánh trực tiếp) để thực
hiện các cam kết (sau 5 năm) phù hợp với các chuẩn mực được quốc tế công nhận
trong lĩnh vực bảo hiểm và các nguyên tắc của Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm
quốc tế (IAIS), để đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm Việt
Nam và lợi ích của người mua bảo hiểm. 

– Điều 52 và Điều 104
của Luật Doanh nghiệp quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt
động của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần chỉ được phép thông qua
khi có số phiếu đại diện cho ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Các đối
tác rất quan ngại quy định này vì nó có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số
vốn trong liên doanh. Vì vậy, tại các đoạn 503 và 504 của Báo cáo, ta đồng ý cho
phép các bên tham gia liên doanh được tự thoả thuận về các vấn đề này trong Điều
lệ công ty và sẽ bảo đảm hiệu lực pháp lý cho cam kết này trong quá trình phê
chuẩn Nghị định thư gia nhập.

– Tại các đoạn 507,
508 của Báo cáo gia nhập, ta đưa ra các cam kết về minh bạch hóa tất cả các quy
định có liên quan hoặc ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, bao gồm cả các quy định
về cấp phép (nếu có). Các cơ quan quản lý nhà nước là độc lập với các nhà cung
ứng dịch vụ mà họ quản lý và sẽ không chịu trách nhiệm về hoạt động của các nhà
cung ứng này.

32. Minh bạch hóa:

Minh bạch hóa là một
trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO, được nêu rõ và nhấn mạnh tại nhiều hiệp
định khác nhau. Do đây là nghĩa vụ quan trọng nên trong phần minh bạch hóa của
Báo cáo, ta cam kết tuân thủ toàn bộ các quy định về minh bạch hóa của WTO.
Ngoài ra, ta cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố công khai dự thảo của các
văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực điều chỉnh của WTO do Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân có
liên quan. Thời hạn dành cho việc góp ý tối thiểu là 60 ngày. Ta cũng cam kết sẽ
đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí hoặc trang tin điện tử
(Websites) của các Bộ, ngành.

Thời hạn góp ý tối
thiểu nêu trên là đi xa hơn quy định của WTO nhưng do phù hợp với chủ trương cải
cách hành chính của ta nên tại phiên đàm phán cuối cùng, ta đã đồng ý cam kết.
Sau khi Nghị định thư gia nhập WTO được phê chuẩn, Chính phủ sẽ căn cứ vào phê
chuẩn này để quy định trình tự, thủ tục cụ thể.

33. Nghĩa vụ thông
báo và các Hiệp định Thương mại:

Ta cam kết tuân thủ
các quy định của WTO về nghĩa vụ thông báo các thông tin cần thiết cho WTO (chủ
yếu liên quan chế độ, chính sách), bao gồm cả việc thông báo về các hiệp định
thương mại có liên quan.

II. CAM KẾT SONG PHƯƠNG VỀ HÀNG HÓA

1. Giới thiệu chung
về nội dung đàm phán:

Các
thành viên WTO thường yêu cầu nước xin gia nhập phải cam kết: (i) ràng buộc mức
trần cho tất cả các dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu của mình; (ii) chỉ dùng
thuế nhập khẩu làm công cụ để bảo hộ; và (iii) tại cửa khẩu, ngoài thuế nhập
khẩu, không sử dụng phí, lệ phí và các khoản thu khác nhằm mục đích thu ngân
sách. Tiếp theo là yêu cầu phải giảm thuế, nhất là các mặt hàng đang có thuế
suất áp dụng cao. Ngoài ra, họ còn yêu cầu các nước xin gia nhập tham gia vào
các hiệp định tự do hoá theo ngành để cắt giảm toàn bộ thuế áp dụng cho ngành đó
xuống mức 0% (như Hiệp định công nghệ thông tin, Hiệp định về thiết bị máy bay
dân dụng, thiết bị y tế) hoặc hài hoà thuế suất ở mức thấp (như Hiệp định hoá
chất, Hiệp định hàng dệt may).

Trong đàm phán thuế nhập khẩu với Việt Nam, các thành viên đưa ra yêu
cầu rất cao. Nếu theo các yêu cầu này, tuyệt đại đa số các dòng
thuế sẽ phải giảm xuống 0 – 5%, chỉ một số ít mặt hàng được
duy trì mức 10% – 20%. Thời gian để thực hiện giảm thuế thường
không quá 3 năm, tuyệt đại đa số các trường hợp là phải giảm ngay từ khi gia
nhập. Những mặt hàng được các thành viên đặc biệt quan tâm là nông sản (như
thịt, sữa, đường, lá thuốc lá) và các nhóm hàng thuộc các hiệp định tự do hóa
theo ngành (như rượu, bia, sản phẩm công nghệ thông tin, hoá chất, dệt may,
thiết bị máy bay dân dụng, thiết bị xây dựng, giấy, cá .v.v…).

Nguyên tắc cơ bản của ta trong đàm phán thuế nhập khẩu là: không
gây biến động lớn đối với sản xuất trong nước, bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn
và xem xét việc giảm thuế trong bối cảnh đã có các cam kết cắt giảm thuế cho các
nước ASEAN (theo CEPT/AFTA) và cho các nước như Trung Quốc, Hàn
Quốc … (theo khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do). Ngoài ra, cần nỗ lực duy trì
mức độ bảo hộ nhất định đối với một số mặt hàng trọng yếu, có ý nghĩa cơ bản đối
với nền kinh tế, những mặt hàng nhạy cảm đối với sản xuất trong nước.

2. Mức cam kết
chung:

Ta
đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình
quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4%, thực hiện dần
trong vòng 5 – 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện
hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp,
mức bình quân giảm từ 16,8% xuống 12,6%, thực hiện chủ yếu trong vòng từ 5 đến 7
năm (xin tham khảo Biểu tóm tắt số 1 kèm theo Tờ trình).


3. Mức cam kết cụ thể:

Trong phạm vi của Tờ trình rất khó đi vào phân tích từng dòng thuế cụ
thể. Các phân tích dưới đây, vì vậy, cũng mới chỉ tập trung vào mức bình quân
chung của một số nhóm hàng lớn.  


khoảng hơn 1/3 số dòng của biểu thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có
thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như
nông sản, xi-măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô, xe máy… vẫn duy trì được
mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may,
cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện –
điện tử. Thuế nhập khẩu thịt lợn, thịt bò và phụ phẩm cũng phải cắt giảm ở mức
tương đối lớn. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với các
nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hoá chất, phương tiện vận tải (xin tham khảo thêm
Biểu tóm tắt số 2 kèm theo Tờ trình).

Như
tất cả các nước mới gia nhập khác, ta cũng cam kết tham gia một số hiệp định tự
do hoá theo ngành. Những ngành mà ta cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công
nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà ta tham gia một
phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để giảm thuế
là từ 3 – 5 năm.

Về
hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc
lá và muối. Riêng muối là mặt hàng WTO không coi là nông sản, do vậy thường
không được áp dụng công cụ hạn ngạch thuế quan, nhưng Việt Nam sẽ được tiếp tục
duy trì vì lợi ích của diêm dân. Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn
ngạch là tương đương mức thuế MFN hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường
tinh 40 – 50%, thuốc lá lá 30%, muối ăn 30%). Mức thuế ngoài hạn ngạch cao hơn
mức thuế trong hạn ngạch.

III. CAM KẾT VỀ
MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ

Tài liệu kèm theo Tờ
trình sẽ giải thích nội dung, cấu trúc của Biểu cam kết cụ thể về thương mại
dịch vụ (xin gọi tắt là Biểu cam kết dịch vụ), đồng thời làm rõ các phương thức
cung cấp dịch vụ cũng như phương thức cam kết về dịch vụ tại WTO. Tại đây, Chính
phủ xin giải trình về nội dung cam kết.

Về diện cam
kết, trong BTA với Hoa Kỳ, ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ, gồm 65 phân ngành. Cam
kết này mặc nhiên được áp dụng cho các thành viên WTO theo nguyên tắc MFN. Trong
đàm phán WTO, ta cam kết 11 ngành, tính theo phân ngành là khoảng 110 trên tổng
số 155 phân ngành theo phân loại của WTO. Về mức độ cam kết, Biểu cam kết dịch
vụ đi xa hơn BTA nhưng không nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có
những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch v.v.., ta đều giữ được mức
độ cam kết gần như BTA. Riêng với viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, ta có
một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp
với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này.

So với một số nước mới
gia nhập WTO, diện cam kết của ta rộng hơn. Về mức độ cam kết, có một số dịch vụ
cao hơn nhưng cũng có nhiều dịch vụ, trong đó có những dịch vụ nhạy cảm, ta cam
kết dưới mức của một số nước mới gia nhập. Vì vậy, xét về tổng thể là chấp nhận
được. Trong thực tiễn đàm phán gia nhập WTO, thông thường nước gia nhập sau đều
có xu hướng phải cam kết cao hơn mức cam kết của nước gia nhập trước.

Nội dung cam kết cụ
thể  như sau:

1. Phần Cam kết
chung (còn gọi là Cam kết nền):

Phần này về cơ bản
giống như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam
dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được cho phép trong từng ngành cụ thể
(những ngành như vậy không nhiều). Ta cũng bảo lưu những ưu đãi đã dành cho các
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trước khi Việt Nam gia nhập WTO để đảm bảo rằng
hoạt động kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng bởi các cam kết trong Biểu cam
kết dịch vụ. Ngoài ra, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ
phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng mức mua cổ phần trong từng ngành phải
phù hợp với mức độ cam kết của ngành đó trong Biểu cam kết dịch vụ (thí dụ, nếu
ngành A ta chỉ cho phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài thì tỷ lệ mua cổ
phần của nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam thuộc ngành đó cũng không được
quá 51%). Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, bên nước ngoài được mua ở mức tối đa
là 30% tổng số cổ phần. 

Ta cho phép công ty
nước ngoài đưa cán bộ quản lý và các chuyên gia có trình độ cao vào làm việc tại
Việt Nam theo thông lệ của WTO nhưng tối thiểu 20% cán bộ quản lý của công ty
phải là người Việt Nam. Ngoài ra, để được phép vào Việt Nam làm việc, ngoài việc
tuân thủ các quy định hiện hành của Việt Nam về thủ tục xuất nhập cảnh và lưu
trú, cán bộ quản lý mà công ty nước ngoài cử vào Việt Nam phải đáp ứng được các
tiêu chí được quy định rất rõ tại phần Cam kết chung.

Một điểm khác với BTA
là ta đồng ý cam kết với đối tượng nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng (CSS)
nhưng chỉ đối với dịch vụ máy tính và dịch vụ tư vấn kỹ thuật. Nhà cung cấp dịch
vụ theo hợp đồng là thể nhân nước ngoài sang Việt Nam cung cấp dịch vụ theo hợp
đồng ký kết với tổ chức, cá nhân Việt Nam. Hình thức cung cấp dịch vụ này hiện
khá phổ biến ở nước ta nhưng để bảo đảm sự chủ động cho ta trong việc ban hành
các quy định về quản lý, Biểu cam kết đưa ra những điều kiện rất chặt chẽ.

Ta bảo lưu phạm vi trợ
cấp tương đối rộng, trong đó có trợ cấp để tạo công ăn việc làm cho đồng bào
thiểu số, trợ cấp vì mục tiêu nghiên cứu và phát triển, trợ cấp cho các doanh
nghiệp cổ phần hoá, v.v…  

2. Phần Cam kết cụ
thể:

Phần này đưa ra cam
kết cho 11 ngành dịch vụ bao gồm: các dịch vụ kinh doanh, dịch vụ thông tin, xây
dựng, phân phối, giáo dục, dịch vụ môi trường, dịch vụ tài chính, y tế, du lịch,
văn hoá giải trí và dịch vụ vận tải. Trong từng ngành lại chia tiếp thành phân
ngành và tiểu ngành (xin tham khảo tài liệu giải thích kèm theo Tờ trình).

a) Dịch vụ kinh
doanh:

Theo phân loại của
GATS, ngành dịch vụ này được chia thành 46 phân ngành. Ta cam kết 26 phân ngành.

Dịch vụ pháp lý

Ta cam kết toàn bộ các
dịch vụ được phân loại vào dịch vụ pháp lý, ngoại trừ: (i) tham gia tố tụng với
tư cách là người bào chữa hoặc người đại diện cho khách hàng của mình trước tòa
án; và (ii) các dịch vụ về giấy tờ và chứng thực pháp lý trong phạm vi luật Việt
Nam. Tổ chức luật sư nước ngoài được hiện diện tại Việt Nam dưới các hình thức
chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài, công ty luật nước ngoài tại Việt Nam
và hợp danh giữa tổ chức luật sư nước ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam.
Hiện diện thương mại của tổ chức luật sư nước ngoài được tư vấn pháp luật Việt
Nam nếu có luật sư tư vấn tốt nghiệp đại học luật của Việt Nam và đáp ứng được
các điều kiện áp dụng cho các luật sư hành nghề của Việt Nam. Ta đồng ý dành đối
xử quốc gia cho hiện diện thương mại của tổ chức luật sư nước ngoài
tại Việt Nam.

Dịch vụ kế toán,
kiểm toán, dịch vụ thuế

­Đối với dịch vụ kế
toán, kiểm toán, ta cho phép các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp
dịch vụ qua biên giới cho các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam. Ngoài ra, các nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài được tự do lựa chọn hình thức hiện diện (trừ hình
thức chi nhánh), phù hợp với các quy định trong nước và được đối xử bình đẳng
như các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam. Đối với dịch vụ thuế, mức độ cam kết chặt
hơn. Trong vòng 1 năm sau khi gia nhập, việc cấp phép sẽ được thực hiện trên cơ
sở xét duyệt theo từng trường hợp. Cũng trong thời gian này, các công ty có vốn
nước ngoài đã được cấp phép cung cấp dịch vụ thuế cũng chỉ được cung cấp dịch vụ
cho các công ty có vốn nước ngoài và các dự án có sự tài trợ của nước ngoài tại
Việt Nam.

Các cam kết này phù
hợp với quy định hiện hành và thực tế phát triển của thị trường các dịch vụ này
trong nước hiện nay. Để bảo đảm công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này,
trong thời gian tới sẽ tiếp tục ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán, kiểm
toán, xây dựng hệ thống chuẩn mực đầy đủ, góp phần tăng cường tính minh bạch,
công khai và lành mạnh của hệ thống tài chính kế toán của Việt Nam. Ngoài ra, sẽ
tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với dịch vụ thuế.

Dịch vụ kiến trúc,
dịch vụ tư vấn kỹ thuật, dịch vụ quy hoạch đô thị và kiến trúc cảnh quan đô thị

Cam kết đối với những
dịch vụ này thấp hơn hiện trạng của ta. Đối với dịch vụ kiến trúc và dịch vụ tư
vấn kỹ thuật, ta cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được tự do lựa chọn
hình thức hiện diện (trừ hình thức chi nhánh) ngay khi ta vào WTO. Tuy nhiên, ta
không cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong vòng 2 năm kể từ khi gia nhập WTO và bảo lưu quyền của
Chính phủ Việt Nam trong việc quyết định cấp phép cho các hoạt động liên quan
đến khảo sát địa chất, địa hình công trình v.v… Mức độ cam kết như vậy là tương
đương với BTA. Với dịch vụ quy hoạch đô thị và kiến trúc cảnh quan đô thị, ta
không cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tiếp cận một số địa bàn nhạy cảm ở
Việt Nam và yêu cầu bằng cấp, chứng chỉ hành nghề của kiến trúc sư chịu trách
nhiệm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải do Chính
phủ Việt Nam cấp hay công nhận.

Dịch vụ máy tính

Ta cho phép các nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài được tự do lựa chọn hình thức hiện diện, kể cả hình
thức chi nhánh để cung cấp dịch vụ tại Việt Nam. Tuy nhiên, họ chỉ được thành
lập chi nhánh 3 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO với điều kiện trưởng chi nhánh
phải là người thường trú tại Việt Nam. Ngoài ra, ta cũng duy trì hạn chế đối với
các công ty 100% vốn nước ngoài khi yêu cầu họ chỉ được cung cấp dịch vụ cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Dịch vụ quảng cáo

Ta chỉ cho phép nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài được hiện diện ở Việt Nam dưới hình thức liên doanh.
Việc quảng cáo thuốc lá là không được phép. Đối với rượu, họ có thể quảng cáo
nếu quy định hiện hành của ta cũng cho phép các doanh nghiệp Việt Nam làm như
vậy. Đây là điểm khác so với BTA. Như BTA, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
sẽ được thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009, hạn chế về vốn góp của nước ngoài
trong liên doanh sẽ được xóa bỏ.

Dịch vụ nghiên cứu
phát triển, dịch vụ nghiên cứu thị trường, dịch vụ tư vấn quản lý

Đối với dịch vụ nghiên
cứu phát triển, ta chỉ cam kết cho lĩnh vực khoa học tự nhiên và không duy trì
bất kỳ hạn chế nào. Đối với dịch vụ nghiên cứu thị trường, ta không cho phép nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài tiến hành các hoạt động trưng cầu dân ý. Hình thức
100% vốn nước ngoài được cho phép từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Đối với dịch vụ
tư vấn quản lý, ta cho phép nước ngoài mở chi nhánh sau 3 năm kể từ khi gia nhập
WTO với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam.

Dịch vụ liên quan
đến tư vấn quản lý

Dịch vụ này bao gồm 2
tiểu ngành là dịch vụ quản lý dự án và dịch vụ trọng tài và hoà giải. Đối với
dịch vụ quản lý dự án, ta cho phép các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập
liên doanh hay hợp đồng hợp tác kinh doanh trong vòng 1 năm kể từ khi Việt Nam
gia nhập WTO. Sau đó, họ được cung cấp dịch vụ mà không phải chịu bất kỳ hạn chế
nào khác (trừ các quy định trong phần cam kết chung). Đối với dịch vụ trọng tài
và hoà giải, ta chỉ cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tham gia hòa giải
các tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, 3 năm sau khi ta gia nhập WTO họ mới được
cung cấp dịch vụ này. Ngoài ra, với cả 2 tiểu ngành, ta đều cho phép hiện diện
dưới hình thức chi nhánh 3 năm sau khi ta vào WTO với điều kiện trưởng chi nhánh
phải là người thường trú tại Việt Nam.

Tác động đối với dịch
vụ quản lý dự án sẽ không lớn bởi lẽ ta đã và đang cho phép các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam. Với dịch vụ trọng tài và hoà giải,
ta cần có thời gian để bổ sung thêm các quy định về quản lý. Do ta đã yêu cầu
thời gian chuyển đổi là 3 năm.

Dịch vụ phân tích
và kiểm định kỹ thuật

Ta không đưa ra cam
kết đối với dịch vụ kiểm định và đăng kiểm phương tiện vận tải. Theo quy định
của GATS, ta không có nghĩa vụ phải mở cửa các dịch vụ được cung cấp để thực thi
thẩm quyền của Chính phủ. Tuy nhiên, nếu ta cho phép các doanh nghiệp trong nước
được tham gia cung cấp các dịch vụ này thì sau một thời gian chuyển đổi, ta sẽ
cho phép nước ngoài được tham gia. Cam kết này là hoàn toàn phù hợp với chính
sách hiện hành.

Dịch vụ liên quan
đến nông nghiệp, săn bắn và lâm nghiệp, dịch vụ thú y

Đối với dịch vụ liên
quan đến nông nghiệp, săn bắn và lâm nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
được phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, họ không được cung
cấp một số dịch vụ nhạy cảm như đánh giá và khai thác rừng tự nhiên, săn bắn,
đánh bẫy động vật quý hiếm hoang dã, chụp ảnh hàng không, quản lý quỹ gien cây
trồng, vật nuôi v.v… Ngoài ra, họ cũng không được tiếp cận một số địa bàn nhạy
cảm tại Việt Nam. Đối với dịch vụ thú y, ta chỉ cho nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài vào Việt Nam với tư cách cá nhân sau khi đã được cơ quan phụ trách về thú
y của ta chấp thuận.

Dịch vụ liên quan
đến khai thác mỏ, dịch vụ liên quan tư vấn khoa học kỹ thuật

Theo cách phân loại
mới nhất trong Vòng đàm phán Đô-ha, các dịch vụ này được đưa vào nhóm dịch vụ hỗ
trợ khai thác dầu khí. Trong BTA ta không cam kết các dịch vụ này nhưng do đây
là trọng tâm của Vòng Đô-ha nên hầu hết các đối tác đàm phán chủ chốt đều yêu
cầu ta cam kết. Cuối cùng, ta đồng ý cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được
thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để cung ứng
các dịch vụ hỗ trợ cho khai thác dầu khí. Tuy nhiên, ta vẫn giữ quyền quản lý
các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định công ty thăm dò, khai
thác tài nguyên. Ta cũng bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho
các doanh nghiệp Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và
các vật phẩm cho dàn khoan xa bờ v.v… Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng
dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc
này tạo điều kiện cho ta quản lý các công ty vào Việt Nam trong tương lai (hiện
nay ta chưa có quy định đăng ký trong phân ngành này).

Cam kết sẽ có những
tác động tích cực nhất định. Với mức mở cửa theo lộ trình hợp lý sẽ khuyến khích
các công ty kỹ thuật dầu khí nước ngoài vào Việt Nam đầu tư và mở rộng kinh
doanh nhưng không ảnh hưởng nhiều đến các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thông
qua các hình thức liên doanh và hợp tác kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam có
thể học hỏi kinh nghiệm từ các đối tác nước ngoài và mở rộng khả năng cung cấp
dịch vụ của mình. Tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh các dịch vụ này diễn ra
hiệu quả tại Việt Nam, ta sẽ phải bổ sung, ban hành một số quy định pháp luật
liên quan theo hướng phù hợp với cam kết đưa ra trong Biểu cam kết dịch vụ.

Dịch vụ liên quan
đến sản xuất, dịch vụ sửa chữa thiết bị

Đối với dịch vụ liên
quan đến sản xuất, sau 3 năm kể từ khi gia nhập WTO, ta cho phép thành lập liên
doanh 50% vốn nước ngoài. Sau đó 5 năm, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được
phép thành lập công ty 100% vốn. Đối với dịch vụ sửa chữa thiết bị, ta loại trừ
khỏi phạm vi cam kết dịch vụ sửa chữa tàu biển và các phương tiện vận tải khác
(sửa chữa máy bay có cam kết riêng). Tuy nhiên, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
được thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Sau 3 năm kể từ khi gia nhập WTO, họ được nâng tỷ lệ vốn góp trong liên doanh
lên 51% và được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau đó 2 năm.

b) Dịch vụ thông
tin:

Dịch vụ chuyển phát
nhanh

Dịch vụ chuyển phát
nhanh là dịch vụ mới nhưng phát triển rất nhanh tại Việt Nam trong thời gian
qua. Ta đã cho phép nhiều công ty chuyển phát hàng đầu thế giới như DHL, UPS,
TNT, Fedex v.v… tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường Việt Nam. Có công ty
đã được ta cho phép thành lập liên doanh với đa số vốn và nắm quyền kiểm soát.
Dịch vụ này không có cam kết trong BTA.

Trong đàm phán gia
nhập WTO, ta đồng ý cho phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài ngay khi
gia nhập và cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài 5 năm sau khi gia
nhập. Ngoài ra, để tạo điều kiện cho Bưu chính Việt Nam phát triển ổn định, ta
đã bảo lưu một phần dịch vụ chuyển phát nhanh dành riêng cho Bưu chính Việt Nam.
Ta cũng cam kết không phân biệt đối xử giữa các dịch vụ chuyển phát nhanh và các
nhà cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh, kể cả Bưu chính Việt Nam, đối với các
loại hình dịch vụ chuyển phát nhanh đã cho phép cạnh tranh.

Như vậy, cam kết mở
cửa thị trường dịch vụ chuyển phát nhanh đã chính thức hoá thực tế mở cửa thị
trường cho đầu tư nước ngoài và đưa ra lộ trình phù hợp tiến tới xoá bỏ hoàn
toàn hạn chế vốn nước ngoài. Các công ty hàng đầu nước ngoài, thực chất chỉ có
một vài tập đoàn đa quốc gia, với truyền thống và năng lực kỹ thuật vượt trội sẽ
tiếp tục chiếm ưu thế ở thị trường chuyển phát nhanh quốc tế và mảng thị trường
chất lượng cao. Khách hàng chính của họ vẫn là các doanh nghiệp FDI và các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu. Các công ty Việt Nam vẫn có cơ hội phát triển ở thị
trường chuyển phát trong nước và mảng thị trường chất lượng trung bình, khách
hàng đại chúng.

Dịch vụ viễn thông

Thị trường dịch vụ
viễn thông đã phát triển khá năng động trong thời gian qua với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế. Nhiều doanh nghiệp viễn thông mới đã tham gia đầy đủ
thị trường dịch vụ viễn thông và đang nhanh chóng khẳng định chỗ đứng trên thị
trường. Tốc độ tăng trưởng cao được duy trì liên tục qua nhiều năm. Mạng lưới
được mở rộng nhanh chóng và hiện đại hoá theo kịp trình độ các nước trong khu
vực. Các doanh nghiệp cũng ngày càng quen hơn với văn hoá cạnh tranh và ngày
càng chú trọng đổi mới tổ chức sản xuất, kinh doanh để nâng cao hiệu quả và chất
lượng dịch vụ. Thực tế, giá cước dịch vụ tuy còn cao nhưng đã liên tục giảm, các
loại hình dịch vụ ngày càng đa dạng.

Các nhà đầu tư nước
ngoài đã tham gia thị trường dịch vụ viễn thông với hơn 1 tỷ USD dưới hình thức
hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) từ rất sớm. Hiệp định BTA với Hoa Kỳ có hiệu
lực năm 2001 đã đưa ra lộ trình cho phép các nhà đầu tư Hoa Kỳ tham gia thị
trường dịch vụ viễn thông theo hình thức liên doanh từ năm 2001. Mức cam kết mở
cửa thị trường dịch vụ viễn thông trong BTA là tương đương mức cam kết gia nhập
WTO của Trung Quốc. Hiệp định tiếp cận thị trường Việt Nam – EU có hiệu lực từ
đầu năm 2005 cũng đã cho phép các nhà đầu tư EU tham gia thị trường dịch vụ viễn
thông như các nhà đầu tư Hoa Kỳ.

Môi trường pháp lý
chuyên ngành về viễn thông và Internet đã tương đối hoàn chỉnh với Pháp lệnh Bưu
chính viễn thông và các Nghị định hướng dẫn. Các văn bản này về cơ bản đã phù
hợp với những nguyên tắc và nghĩa vụ cơ bản chung của một nước thành viên WTO.
Quy định về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông hiện tuân theo
các quy định chung của pháp luật về đầu tư nước ngoài.

Trong đàm phán gia
nhập WTO, dịch vụ viễn thông đã chịu sức ép mở cửa rất lớn, đặc biệt từ phía các
thành viên chủ chốt của WTO như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc .v.v… Dựa trên
triển vọng kết quả Vòng đàm phán Đô-ha và mức cam kết của các nước mới
gia nhập WTO như Campuchia, Gioóc-đa-ni, Ả-rập Xê-út, v.v… các nước đã yêu cầu
Việt Nam cam kết lộ trình xoá bỏ mọi hạn chế về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông. Mức cam kết của Việt Nam trong BTA được các nước coi là mức khởi
điểm để đàm phán.

Cam kết gia nhập WTO
về dịch vụ viễn thông đã bám sát các nguyên tắc chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ,
cụ thể như sau:

– Cung cấp dịch vụ
viễn thông có hạ tầng mạng:

ta không cam kết thêm
so với cam kết trong BTA với Hoa Kỳ. Trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông cơ bản,
bên nước ngoài chỉ được phép đầu tư dưới hình thức liên doanh với nhà khai thác
Việt Nam đã được cấp phép, vốn góp tối đa là 49% vốn pháp định của liên doanh.

– Cung cấp dịch vụ
viễn thông không có hạ tầng mạng:

trong 3 năm đầu sau
khi gia nhập WTO bên nước ngoài chỉ được phép đầu tư dưới hình thức liên doanh
với nhà khai thác Việt Nam đã được cấp phép, vốn góp tối đa là 51% vốn pháp định
của liên doanh. 3 năm sau khi gia nhập bên nước ngoài mới được phép tự do lựa
chọn đối tác khi thành lập liên doanh và được phép nâng mức vốn góp lên mức 65%.

Riêng đối với dịch
vụ mạng riêng ảo (VPN) và dịch vụ viễn thông gia tăng giá trị (trừ dịch vụ truy
nhập Internet – IAS), được cung cấp trên hạ tầng mạng do Việt Nam kiểm soát, ta
có nhân nhượng ở mức: được tự do lựa chọn đối tác liên doanh ngay sau khi gia
nhập và với dịch vụ mạng riêng ảo (VPN), được phép tham gia vốn tối đa ở mức 70%
vốn pháp định của liên doanh.

– Cung cấp dịch
vụ viễn thông qua biên giới
:
ta cam kết 3 năm sau khi gia nhập sẽ cho phép các công ty đa quốc gia hoạt động
tại Việt Nam, nếu thoả mãn điều kiện cấp phép, được sử dụng trực tiếp dịch vụ vệ
tinh của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Ta cũng cam kết cho phép bên nước
ngoài được kết nối dung lượng cáp quang biển (dung lượng toàn chủ) của các tuyến
cáp quang biển mà Việt Nam là thành viên với các trạm cập bờ của Việt Nam và bán
dung lượng truyền dẫn này cho các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông quốc tế có hạ
tầng mạng được cấp phép tại Việt Nam như VNPT, Viettel, VP Telecom).
4 năm sau khi gia nhập, bên nước ngoài được phép bán dung lượng nêu trên cho các
nhà cung cấp dịch vụ mạng riêng ảo và dịch vụ kết nối Internet (IXP) quốc tế
được cấp phép (như FPT, VNPT, Viettel, VP Telecom).

Nhà đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam không được tự do lựa chọn đối tác liên doanh đối với dịch vụ
có gắn với hạ tầng mạng. Phía nước ngoài phải liên doanh với đối tác Việt Nam đã
được cấp phép và mức vốn góp nước ngoài tối đa là 49% trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ viễn thông cơ bản có hạ tầng mạng. Việt Nam đã có một số nhân nhượng phù
hợp về mở cửa thị trường viễn thông theo yêu cầu của các thành viên WTO trong
lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng và trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ qua biên giới
(dịch
vụ viễn thông quốc tế). Những nhân nhượng về dịch vụ vệ tinh và dịch vụ cáp
quang biển cung cấp qua biên giới chỉ cho phép phía nước ngoài được phép sở hữu
toàn phần dung lượng thuộc hệ thống truyền dẫn không nằm trên lãnh thổ Việt Nam.
Việt Nam vẫn bảo lưu được quyền kiểm soát nhà nước đối với hạ tầng mạng viễn
thông trên lãnh thổ Việt Nam và qua đó giữ được quyền kiểm soát nhất định đối
với thị trường dịch vụ và an ninh thông tin. Việt Nam chưa cho phép thành lập
công ty 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Các công ty nước ngoài
vẫn phải hợp tác với các công ty trong nước để cung cấp dịch vụ.

Dịch vụ nghe nhìn

Trong đàm phán gia
nhập WTO, ta phải đối diện với hai luồng quan điểm trái ngược. Một số đối tác có
thế mạnh về dịch vụ nghe nhìn muốn ta cam kết tự do dịch vụ này trong khi các
đối tác khác đề nghị ta không đưa vào cam kết. Vì vậy, thỏa thuận cuối cùng đạt
được là Việt Nam cam kết về dịch vụ nghe nhìn, nhưng chỉ ở mức tương đương BTA.
Yêu cầu kiểm duyệt được nhấn mạnh trong tất cả các dịch vụ sản xuất, phân phối
và chiếu phim.

Cam kết này nhìn chung
không có khả năng ảnh hưởng nhiều đến thị trường dịch vụ nghe nhìn tại Việt Nam.
Thực tế cho thấy sự sôi động của thị trường nghe nhìn 5 năm qua không phải là do
mở cửa mà do những nguyên nhân từ sự quản lý của ta. Cam kết về dịch vụ nghe
nhìn đã được cân nhắc để  không gây ra biến động cho thị trường dịch vụ nghe
nhìn. Tuy nhiên, về mặt pháp luật, ta vẫn cần bảo đảm cho các quy định hiện hành
phù hợp với cam kết đã đưa ra trong Biểu cam kết. Vì vậy, sẽ phải rà soát lại
các quy định, kể cả Luật Điện ảnh để điều chỉnh một số nội dung khác với cam kết
đã đưa ra, nếu có.

c) Dịch vụ xây dựng

Mức độ cam kết được
giữ như BTA nhưng bổ sung thêm nội dung về chi nhánh. Cụ thể, sau 3 năm kể từ
khi gia nhập WTO, ta cho phép thành lập chi nhánh với điều kiện trưởng chi nhánh
phải là người thường trú tại Việt Nam. Nhìn chung, cam kết đối với dịch vụ xây
dựng là phù hợp với hiện trạng tại Việt Nam.

d) Dịch vụ phân
phối

Cam kết trong dịch vụ
này về cơ bản giữ được như BTA và chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết,
thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA (01
tháng 01 năm 2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân
phối xăng dầu, dược phẩm, sách, báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và
kim loại quý cho nước ngoài (một số nước mới gia nhập WTO chỉ bảo lưu thuốc lá
và muối). Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, phân bón, xi-măng… ta chỉ mở
cửa thị trường sau 3 năm. Quan trọng nhất, ta hạn chế khả năng mở điểm bán lẻ
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (mở từ điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải
được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể).

Mức cam kết trên thấp
hơn hiện trạng của ta. Trên thực tế, ta đã cho phép một số tập đoàn phân phối
lớn thành lập siêu thị 100% vốn nước ngoài và mở hàng loạt các siêu thị tại các
tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Tuy nhiên, với việc giữ được hạn chế về mở điểm bán
lẻ, Biểu cam kết dịch vụ đã tạo thêm một công cụ quản lý. Về mặt này, Chính phủ
đã xây dựng và ban hành các Nghị định liên quan.

đ) Dịch vụ giáo dục

Phạm vi cam kết rộng
hơn so với BTA nhưng vẫn thấp hơn hiện trạng của ta và hoàn toàn phù hợp với chủ
trương xã hội hoá giáo dục hiện nay. Ta cam kết dịch vụ giáo dục phổ thông cơ sở
nhưng chỉ đối với phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ (phương thức 2), tức là
cho phép người Việt Nam được ra nước ngoài học tập, kể cả ở bậc phổ thông. Cam
kết này không ảnh hưởng đến dịch vụ giáo dục phổ thông của Việt Nam. Các cơ sở
đào tạo có vốn nước ngoài mà ta cho phép hiện diện tại Việt Nam trong Biểu cam
kết dịch vụ (giáo dục đại học, giáo dục cho người lớn, dạy nghề v.v.) phải tuân
thủ các yêu cầu đối với giáo viên nước ngoài, chương trình đào tạo phải được Bộ
Giáo dục và Đào tạo của Việt Nam phê chuẩn.

e) Dịch vụ môi
trường

Ta không cam kết dịch
vụ này trong BTA. Trong đàm phán gia nhập WTO, ta đưa ra cam kết đối với các
dịch vụ xử lý nước thải, xử lý rác thải, làm sạch khí thải, xử lý tiếng ồn và
đánh giá tác động của môi trường. Đối với những dịch vụ này, các nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài được phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài trong vòng
4 năm kể từ khi gia nhập WTO. Sau thời gian này, họ được quyền tự do lựa chọn
hình thức pháp nhân (trừ chi nhánh) để cung cấp dịch vụ tại Việt Nam. Tuy nhiên,
họ phải chịu một số quy định mà ta đã bảo lưu trong Biểu cam kết dịch vụ như
dành độc quyền và đặc quyền cho các nhà khai thác tư nhân của Việt Nam đối với
các dịch vụ cung cấp để thực thi thẩm quyền của Chính phủ, không được thu gom
rác thải trực tiếp từ các hộ gia đình, không được tiếp cận một số khu vực nhạy
cảm ở Việt Nam. 

Các cam kết đưa ra tại
dịch vụ môi trường là phù hợp với chủ trương và chính sách hiện hành của ta. Các
cam kết này không quá chặt chẽ, vừa tạo sức hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài, vừa
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam vươn lên khi ta mở cửa thị trường.

g) Dịch vụ tài
chính

Dịch vụ bảo hiểm

Đây là dịch vụ mà các
thành viên WTO quan tâm và yêu cầu cao về mức độ mở cửa thị trường cho các công
ty bảo hiểm nước ngoài, đặc biệt là yêu cầu cho phép thành lập chi nhánh trực
tiếp. Tuy nhiên, mức cam kết của ta đạt được trong Biểu cam kết là chặt chẽ,
thấp hơn so với mức cam kết của một số nước mới gia nhập WTO gần đây. Cụ thể, ta
cho phép nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm ở nước ngoài cung cấp qua biên giới một
số loại hình dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, tái bảo hiểm, bảo hiểm đối với
vận tải quốc tế, v.v… Ngoài ra, các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài
được thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài ngay khi ta gia nhập WTO. Họ
cũng được quyền cung cấp các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2008 và thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ khi ta gia
nhập WTO.

Về tổng thể, mức cam
kết như trên là tương đương với BTA. Điểm khác duy nhất là ta mở thêm cho chi
nhánh bảo hiểm phi nhân thọ, trên cơ sở cân nhắc khả năng quản lý, giám sát, mức
độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế và đặc biệt là yêu cầu đảm bảo quyền lợi của
người mua bảo hiểm. Cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm trong nước thời gian tới
có thể sẽ sôi động hơn. Trên thực tế thị trường bảo hiểm đã được mở cửa cho các
công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài từ năm 1999. Nhiều công ty bảo hiểm lớn
trên thế giới đã có mặt tại thị trường Việt Nam.

Tuy nhiên, để kiện toàn hơn nữa khuôn khổ pháp lý điều chỉnh lĩnh
vực dịch vụ bảo hiểm, trong thời gian tới Chính phủ sẽ tiến hành rà soát, điều
chỉnh một số quy định trong nước để thực thi cam kết gia nhập WTO và đặc biệt là
đẩy mạnh công tác quản lý giám sát của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo
hiểm theo các nguyên tắc và chuẩn mực quản lý bảo hiểm quốc tế.

Dịch vụ ngân hàng

Đàm phán dịch vụ ngân
hàng diễn ra khá khó khăn do đây là lĩnh vực nhạy cảm đối với ta trong khi các
thành viên rất quan tâm. Dù phải chịu sức ép khá lớn từ các thành viên nhưng ta
đã đạt được cam kết hợp lý, cân bằng và phù hợp với chủ trương của Chính phủ. Ta
đã giữ được những hạn chế quan trọng quy định trong BTA như không cho phép chi
nhánh ngân hàng nước ngoài mở điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh, hạn chế các
tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại quốc doanh
cổ phần hoá, chưa tự do hoá các giao dịch vốn, v.v… Ta bổ sung thêm một số hạn
chế quan trọng để tăng thêm hiệu quả quản lý Nhà nước đối với thị trường ngân
hàng khi ta gia nhập WTO. Các hạn chế đáng chú ý là: đưa ra yêu cầu về tổng tài
sản của các tổ chức tín dụng nước ngoài muốn kinh doanh tại Việt Nam; các tổ
chức, cá nhân nước ngoài không được mua quá 30% tổng số cổ phần của các ngân
hàng thương mại, trừ khi pháp luật Việt Nam có quy định khác hoặc được sự chấp
thuận của cơ quan có thẩm quyền.

Ta có nới lỏng một số
hạn chế nhưng đều phù hợp với thực trạng của ngành và chủ trương của Chính phủ.
Chẳng hạn như cho phép các ngân hàng nước ngoài thành lập ngân hàng con 100% vốn
nước ngoài từ ngày 01 tháng 4 năm 2007 (sớm hơn BTA khoảng 3 năm), đẩy
nhanh lộ trình cho phép các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được huy động tiền
gửi bằng đồng Việt Nam tại Việt Nam. Các quy định này phù hợp với các văn bản
pháp luật mới được ban hành gần đây.

So với một số nước mới gia nhập WTO gần đây, cam kết về dịch vụ
ngân hàng của ta chặt chẽ hơn. Với mức cam kết như vậy, mức độ ảnh hưởng đối với
ngành ngân hàng của Việt Nam sẽ không quá lớn. Khác với kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh ngân hàng ở ta đã hình thành từ lâu và tất cả các ngân hàng đều đã có
kinh nghiệm cạnh tranh. Năng lực giám sát và quản lý cũng đã có nhiều tiến bộ,
nhiều chuẩn mực quốc tế đã được áp dụng. Ta lại giữ được hạn chế về mức mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài nên tuy sức ép cạnh tranh có thể sẽ tăng thêm,
nhất là trong lĩnh vực bán lẻ, nhưng không có lý do để lo ngại về hậu quả tiêu
cực đối với lĩnh vực ngân hàng.

Dịch vụ chứng khoán

Đây là ngành dịch vụ
mới bắt đầu hình thành ở Việt Nam nhưng được nhiều thành viên WTO, nhất là các
thành viên có hệ thống tài chính phát triển, quan tâm và đặt yêu cầu cao về mở
cửa thị trường. Cam kết của ta trong BTA trước đây về dịch vụ chứng khoán là
chưa đáng kể và chưa bao quát hết các yếu tố của thị trường dịch vụ chứng khoán
do vào thời điểm đó thị trường chứng khoán chưa được hình thành. Trong đàm phán
gia nhập WTO, ta đã đồng ý cho phép các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán cung
cấp qua biên giới một số dịch vụ liên quan đến chứng khoán như thông tin tài
chính, tư vấn tài chính, các dịch vụ trung gian và hỗ trợ kinh doanh chứng khoán
v.v… Ngoài ra, ta cũng cho phép thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài ngay từ
khi gia nhập WTO. Sau đó 5 năm, ta cho phép thành lập công ty 100% vốn nước
ngoài và chi nhánh để cung cấp dịch vụ chứng khoán đối với một số loại hình dịch
vụ như quản lý tài sản, thanh toán, tư vấn liên quan đến chứng khoán, trao đổi
thông tin tài chính.

Nhìn chung, các cam kết về dịch vụ chứng khoán là phù hợp với
Luật Chứng khoán mới được ban hành và định hướng phát triển của ngành này. Để
thực thi hiệu quả các cam kết đã đưa ra, trong thời gian tới Chính phủ sẽ tiếp
tục xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán trong đó đặc biệt
chú trọng đến các nội dung hướng dẫn cụ thể việc tham gia của bên nước ngoài như
thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh.

h) Dịch vụ y tế

Mức độ cam kết về dịch
vụ y tế như BTA, chỉ khác điểm duy nhất là ta giảm mức vốn yêu
cầu để thành lập cơ sở điều trị chuyên khoa từ 1 triệu USD xuống
còn 200.000 USD. Trên thực tế, các yêu cầu về vốn tối thiểu đối với các cơ sở
khám chữa bệnh có vốn nước ngoài đã được nới lỏng đáng kể, nên việc cam kết như
trên phù hợp với chủ trương của nước ta.

i) Dịch vụ du lịch

Đàm phán về dịch vụ du lịch cũng diễn ra rất khó khăn nhưng về
tổng thể ta đã giữ được như BTA. Đối với dịch vụ khách sạn – nhà hàng, trong
vòng 8 năm kể từ khi gia nhập, ta yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài,
nếu muốn cung cấp dịch vụ, phải đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo hoặc mua lại
khách sạn. Quy định này nhằm khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bỏ
vốn đầu tư để nâng cấp hệ thống khách sạn của ta. Đối với dịch vụ lữ hành – điều
hành tour du lịch, ta cho phép thành lập liên doanh không hạn chế vốn góp nước
ngoài. Tuy nhiên, ta không cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Ngoài
ra, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài không được phép cung cấp dịch vụ đưa
khách ra nước ngoài (outbound) và dịch vụ lữ hành nội địa (domestic). Họ chỉ
được cung cấp dịch vụ lữ hành nội địa như là một phần của các dịch vụ đưa khách
vào Việt Nam. Cam kết như vậy về du lịch là an toàn và phù hợp với luật pháp
hiện hành của ta.

k) Dịch vụ văn hoá,
giải trí

Dịch vụ này không cam
kết trong BTA. Trong WTO, ta chỉ cam kết dịch vụ giải trí (bao gồm nhà hát, biểu
diễn ca nhạc và xiếc) và dịch vụ trò chơi điện tử với mức độ cam kết rất chặt
chẽ. Nước ngoài chỉ được góp tối đa là 49% vốn trong liên doanh. Đặc biệt, ta
không cam kết gì về cung cấp qua biên giới để bảo đảm cho Nhà nước quyền chủ
động trong việc đưa ra các quy định về quản lý dịch vụ giải trí trên mạng
Internet.

l) Dịch vụ vận tải

Dịch vụ vận tải
biển và hỗ trợ vận tải biển

Ta chỉ cho phép các
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hoá qua biên
giới, không cam kết về vận chuyển hành khách qua biên giới. Tuy nhiên, họ sẽ
được cung cấp đầy đủ các dịch vụ này thông qua hình thức hiện diện thương mại.
Cụ thể, họ được phép thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài sau 2 năm kể từ khi
Việt Nam gia nhập WTO để cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa và hành khách.
Liên doanh được khai thác đội tàu mang cờ quốc tịch Việt Nam, ký kết hợp đồng
vận chuyển hàng hoá, hành khách cho các khách hàng trong và ngoài nước trên cơ
sở tuân thủ quy định trong nước và không phân biệt đối xử.

Trong trường hợp một
số hãng tàu nước ngoài muốn cung cấp một số hoạt động trên bờ để phục vụ cho
hàng hoá do chính hãng tàu vận chuyển thì họ được phép thành lập liên doanh 51%
vốn nước ngoài kể từ ngày ta vào WTO để thực hiện các hoạt động đó. Do
các hoạt động này phần nào trùng lặp với hoạt động đại lý tàu biển và đại lý vận
tải đường biển, một ngành nhạy cảm đối với ta nên ta đã đưa ra những hạn chế rất
chặt chẽ trong Biểu cam kết. Nguyên tắc là hãng tàu sẽ được thực hiện thêm một
số hoạt động trên bờ nhưng chỉ để phục vụ cho hãng của mình và cũng chỉ được làm
đầy đủ các hoạt động sau 5 năm.

Ta cam kết thêm một số
dịch vụ hỗ trợ vận tải biển như dịch vụ xếp dỡ côngtenơ, dịch vụ thông quan,
dịch vụ bãi côngtennơ. Đối với các dịch vụ này, ta yêu cầu nước ngoài phải liên
doanh trong thời gian từ 5 đến 7 năm. Có những dịch vụ ta không cho phép hiện
diện dưới hình thức 100% vốn.      

Các cam kết của ta về
dịch vụ vận tải biển và hỗ trợ vận tải biển như vậy là khá chặt chẽ, nhiều chỗ
thấp hơn hiện hành. Thời hạn chuyển đổi 5 – 7 năm là đủ dài để các doanh nghiệp
trong nước tự điều chỉnh và vươn lên để đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước
ngoài.

Dịch vụ vận tải
đường bộ

Ta không cam kết về
cung cấp dịch vụ vận tải hàng hoá và hành khách qua biên giới. Ta cho phép thành
lập liên doanh 49% vốn nước ngoài hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để cung cấp
dịch vụ vận tải hàng hoá và hành khách tại Việt Nam. Sau 3 năm kể từ khi gia
nhập, ta cho phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài để vận tải hàng hóa
nhưng trên cơ sở “kiểm tra nhu cầu kinh tế” (nói một cách khác là “theo từng
trường hợp cụ thể”). Hạn chế này cho phép ta quyết định việc cấp phép phụ thuộc
vào sự phát triển của thị trường trong nước. Đồng thời, để bảo đảm việc làm cho
đội ngũ lái xe và không gây xáo trộn về thị trường lao động trong ngành, ta yêu
cầu 100% lái xe của các liên doanh phải là công dân Việt Nam.

Dịch vụ vận tải
đường thuỷ nội địa, đường sắt và hàng không

Tương tự như dịch vụ
vận tải đường bộ, ta chưa cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp
dịch vụ vận chuyển hàng hoá và hành khách qua biên giới. Với dịch vụ vận tải
đường thuỷ, ta cho phép thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài kể từ khi gia
nhập WTO. Với dịch vụ vận tải đường sắt, ta cho phép thành lập liên doanh 49%
vốn nước ngoài nhưng chỉ được vận tải hàng hoá.

Theo quy định của WTO,
các hoạt động vận chuyển hàng hoá và hành khách theo đường hàng không không
thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO. Các dịch vụ phụ trợ cho vận tải đường hàng
không thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO gồm: dịch vụ bán và tiếp thị sản phẩm
hàng không, dịch vụ đặt giữ chỗ bằng máy tính và dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng
máy bay. Đối với dịch vụ bán và tiếp thị sản phẩm hàng không, dịch vụ đặt giữ
chỗ bằng máy tính, ta cam kết theo thực tế hiện hành. Đối với dịch vụ sửa chữa
và bảo dưỡng máy bay, ta cho phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài kể từ
khi gia nhập WTO. Sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, ta cho phép thành lập công
ty 100% vốn nước ngoài.

3. Danh mục miễn
trừ tối huệ quốc:

Ta bảo lưu ngoại lệ MFN (có thể phân biệt đối xử) trong một số
lĩnh vực. Thứ nhất là các Hiệp định bảo hộ đầu tư song phương (BIT) mà ta đã ký
với các nước. Theo biện pháp bảo lưu này, ta có quyền không dành những ưu đãi
theo một số Hiệp định đầu tư song phương cho toàn bộ các Thành viên WTO. 

Thứ hai
là dịch vụ
nghe nhìn. Theo biện pháp bảo lưu này, ta có quyền dành đối xử thương mại khác
nhau giữa các thành viên WTO trong các hoạt động như sản xuất, phát hành, chiếu
các chương trình truyền hình, phim truyện v.v… Biện pháp bảo lưu này giúp ta
dành những ưu đãi nhất định cho các thành viên WTO đã ký với ta các hiệp định về
hợp tác văn hoá.

Cuối cùng là dịch vụ
vận tải biển. Ta bảo lưu mức độ đối xử khác nhau trong các vấn đề liên quan đến
hoạt động kinh doanh của các công ty con của các hãng tàu nước ngoài được quy
định theo các Hiệp định song phương mà Việt Nam ký với các nước; tuy nhiên, biện
pháp này chỉ được duy trì không quá 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Ngoài ra, ta
cũng bảo lưu một số ưu đãi dành cho Singapore theo Hiệp định vận tải ký giữa hai
nước; thời hạn bảo lưu không quá 10 năm kể từ khi gia nhập WTO.

Phần thứ ba

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO

  Phần này đưa ra
những đánh giá tổng thể về tác động của việc gia nhập WTO đối với nước ta. Một
số đánh giá như vậy đã được trình bày tại mục IV của Phần thứ nhất (về sự cần
thiết, cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO). Ngoài ra, trong một số đoạn
giải trình về cam kết đa phương và cam kết dịch vụ cũng đã báo cáo sơ bộ về tác
động của cam kết đối với lĩnh vực có liên quan.

1. Về chính trị và an ninh
quốc gia:

WTO tôn trọng thể chế chính
trị và an ninh quốc gia của các thành viên, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. WTO cũng tôn trọng
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và những nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật
quốc tế. Các quy định của WTO không trái với quy định của Hiến pháp nước ta.
Việc gia nhập WTO, như đã trình bày, là phù hợp với lợi ích quốc gia và đường
lối đối ngoại của ta. Vì vậy, việc gia nhập WTO không ảnh hưởng đến thể chế
chính trị của ta.

WTO cho phép các thành viên được
duy trì bất kỳ biện pháp nào để bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội. Vì vậy, việc gia nhập WTO và tuân thủ các quy định của tổ chức này sẽ không
gây tác động trực tiếp đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Tuy vậy,
việc mở cửa thị trường kèm theo việc cho phép di chuyển thể nhân, trong chừng
mực nhất định, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao năng lực quản lý để có thể phát
hiện, ngăn chặn những phần tử chống đối lợi dụng thâm nhập vào nước ta. Việc mở
cửa dịch vụ nghe nhìn, dịch vụ môi trường, v.v… cũng đặt ra những vấn đề mới
trong việc bảo vệ an ninh thông tin và bảo vệ phong tục, văn hóa và lối sống của
dân tộc. Tuy vậy, với những thành tựu của 20 năm đổi mới, chúng ta hoàn toàn có
khả năng kiểm soát được các rủi ro này.

Gia nhập WTO sẽ ảnh hưởng đến sự
chủ động trong việc ban hành và thực thi các chính sách, quy định có liên quan
đến thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, các khía cạnh thương mại của đầu tư
và quyền sở hữu trí tuệ. Với những vấn đề mà WTO đã có quy định hoặc ta đã có
cam kết, ta sẽ phải tuân thủ một cách nghiêm túc, không thể tùy ý về nội dung
chính sách và thời gian ban hành chính sách nữa. Tuy nhiên, đây là điều mà ta đã
biết và chấp thuận. Ta không coi đó là can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

2. Tác động của các cam kết
đa phương:

Các cam kết đa phương chủ yếu
ảnh hưởng tới chính sách kinh tế vĩ mô. Qua phần giải trình, có thể thấy đa
số các cam kết này là phù hợp với luật pháp và đường lối đổi mới của ta nên sẽ
không gây ra tác động lớn
. Tại đây, xin báo cáo thêm như sau:

2.1- Các cam kết về minh bạch
hóa, như đã trình bày, có thể sẽ là thách thức không nhỏ đối với các cơ quan
quản lý nhà nước nhưng nếu thực hiện được, sẽ mang lại lợi ích to lớn cho dân và
cho các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước
ngoài.

2.2- Các cam kết về doanh nghiệp
nhà nước doanh nghiệp nhà nước là cùng chiều với ý đồ đổi mới doanh nghiệp nhà
nước của ta và vì vậy, sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới, sắp xếp lại và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tạo ra sân chơi ngày càng bình đẳng hơn
cho các thành phần kinh tế. Một số doanh nghiệp nhà nước đã quen với sự trợ giúp
của Nhà nước (về đất đai, vốn, tín dụng… ) có thể sẽ gặp khó khăn trong thời
gian đầu, thậm chí phải phá sản hoặc giải thể nhưng đó là khó khăn tất yếu mà
mọi doanh nghiệp nhà nước phải vượt qua. Thách thức này, suy cho cùng, cũng là
thách thức của tiến trình đổi mới. Nếu ta không gia nhập WTO thì thách thức này
cũng vẫn đến.

2.3- Việc
bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới một
số doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đánh giá mức độ ảnh hưởng, cần xem xét các khía
cạnh như đối tượng và quy mô được hưởng trợ cấp, hiệu quả thực tế của trợ cấp,
mối quan hệ giữa trợ cấp với nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng của
Nhà nước trong việc chuyển đổi từ trợ cấp thuộc diện phải bãi bỏ sang các hình
thức trợ cấp khác được WTO cho phép.   

Trước hết, với ngân sách còn hạn
chế như hiện nay (và trong nhiều năm tới), lượng trợ cấp thực tế là rất khiêm
tốn. Chế độ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu được áp dụng từ 1998 nhưng mãi tới
2004, tổng tiền thưởng mới đạt 29,4 tỷ đồng, tương đương gần 2 triệu USD. Số
doanh nghiệp được thưởng là 349. Không có cơ sở để nói rằng hàng vạn doanh
nghiệp xuất khẩu của ta, với kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ 40 tỷ USD/năm, lại có
thể gặp khó khăn đáng kể khi Nhà nước bãi bỏ hình thức trợ cấp này.

Có ý kiến cho rằng bãi bỏ trợ
cấp xuất khẩu nông sản sẽ khiến nông dân gặp khó khăn nhưng từ trước tới nay
người nông dân ít được tiếp cận trực tiếp trợ cấp xuất khẩu. Đối tượng được
hưởng trợ cấp xuất khẩu tuyệt đại đa số là các doanh nghiệp. Một số doanh
nghiệp, khi được trợ cấp, đã có ý thức nâng giá mua sản phẩm cho dân nhưng mức
nâng không nhiều và không phải doanh nghiệp nào cũng làm như vậy. 

Hiệu quả của trợ cấp
xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa cho tới nay là không rõ ràng. Số liệu cho thấy
trong những năm gần đây trợ cấp xuất khẩu giảm khá mạnh nhưng kim ngạch xuất
khẩu vẫn tăng đều ở mức cao. Riêng trợ cấp nội địa hóa, hiệu quả không được như
mong muốn. Vì vậy, từ             năm 2003, ta đã quyết định giảm dần quy mô và
tiến tới xóa bỏ hai hình thức trợ cấp này, nhất là trợ cấp xuất khẩu. Cam kết ta
đưa ra, do đó, sẽ không gây tác động lớn.

Để hỗ trợ cho nông
nghiệp, ta vẫn có thể sử dụng các biện pháp thuộc “hộp xanh”, “chương trình phát
triển” và “hộp hổ phách”. Đối với “hộp xanh” và “chương trình phát triển”, ta
tiếp tục được hỗ trợ không giới hạn. Như đã trình bày, ta cũng được quyền duy
trì các loại hỗ trợ “hộp hổ phách” ở mức “de
minimis

như các nước đang phát triển khác trong WTO, tức là không quá 10% giá trị sản
lượng nông nghiệp. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm được một khoản hỗ trợ “hộp
hổ phách” nữa có mức trần là 3.961,5 tỷ đồng/năm, ngang bằng với mức Tổng hỗ trợ
gộp (AMS) của giai đoạn cơ sở 1999 – 2001 (nghĩa là không phải cắt giảm trong
khi các thành viên có nghĩa vụ phải cắt giảm hỗ trợ thuộc “hộp hổ phách”). Có
thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông
nghiệp ở mức cam kết này vì thực tế các năm vừa qua mức hỗ trợ của ta chỉ dao
động quanh 3% giá trị sản lượng nông nghiệp.

Trong quá trình tìm
giải pháp để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, nếu không khéo xử lý về cường
độ và thời gian áp dụng, trợ cấp có thể gây tâm lý trông đợi và sức ỳ to lớn,
chưa kể những lệch lạc theo kiểu “lách luật để hưởng trợ cấp” mà một số nghiên
cứu đã chỉ ra. Kết quả điều tra của dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam
(VNCI, 2005) cho thấy hạ tầng và nguồn nhân lực là những yếu tố quan trọng nhất
tác động đến quyết định đầu tư của doanh nhân. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
chỉ đứng hàng thứ 7 trong tổng số 14 yếu tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư.

Cuối cùng, gia nhập
WTO, ta chỉ bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa, các loại trợ cấp
“hộp vàng”, “hộp hổ phách”, “hộp xanh” vẫn được duy trì và ta hoàn toàn có thể
chuyển số tiền trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa trước đây sang phát
triển thủy lợi, kiện toàn giao thông nông thôn, nâng cao chất lượng giống, phát
triển công nghệ sau thu hoạch, xây dựng các kho lạnh cho hàng thủy sản và kho
đệm để dự trữ lúa, cà phê cho bà con nông dân v.v… Tóm lại, các hình thức trợ
cấp là rất đa dạng và đại đa số là được phép theo quy định của WTO. Vấn đề là
chọn loại nào, hỗ trợ cho “gốc” (mang tính bền vững) hay cho “ngọn” (mang tính
tình thế), áp dụng cho đối tượng nào, mức độ là bao nhiêu và trong thời gian bao
lâu để vừa thúc đẩy được sản xuất nhưng cũng nâng cao được hiệu quả và sức cạnh
tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Các cam kết về trợ cấp của ta trong đàm phán gia
nhập WTO đã được xây dựng trên quan điểm đó và hoàn toàn không bỏ qua quyền lợi
của nông dân. 


3. Tác động của việc giảm thuế nhập khẩu và mở cửa thị trường
dịch vụ:

3.1- Tác động của
giảm thuế nhập khẩu đối với nông nghiệp và công nghiệp:

Việc giảm thuế nhập
khẩu sẽ khiến một số ngành sản xuất của ta phải chịu sự cạnh tranh lớn hơn. Tuy
nhiên, cũng cần chú ý tới một số yếu tố sau đây:

Một là,
việc giảm thuế trong khuôn khổ WTO cần được xem xét trong tổng thể của việc giảm
thuế cho hàng hóa của các nước ASEAN và Trung Quốc trong khuôn khổ Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN và ASEAN – Trung Quốc (đã đàm phán xong) và khu vực mậu dịch tự
do giữa ASEAN với các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v… (đang trong quá
trình đàm phán). Trên thực tế, mức giảm thuế theo cam kết gia nhập WTO là không
sâu và rộng như mức giảm thuế mà ta đã cam kết (và trên thực tế đã thực hiện)
với các nước ASEAN và Trung Quốc trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do với các
nước này.

Hai là,
thực tiễn cho thấy việc cắt giảm thuế rộng và sâu trong khuôn khổ ASEAN (một
trong số các đối tác nhập khẩu chính của ta) đã không gây ra biến động quá lớn.

Ba là,
kim ngạch nhập khẩu thực tế chịu ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế theo cam kết
WTO chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm.

Bốn là,
do thuế suất của thành phẩm có mức giảm lớn hơn mức giảm của sản phẩm trung gian
(nguyên vật liệu và linh kiện đầu vào) ta thu hẹp được mức bảo hộ thực tế trong
một số ngành mà hiện nay đang được bảo hộ quá mức cần thiết. Nhìn chung, mức độ
bảo hộ theo kết quả đàm phán tuy có giảm nhưng là giảm hợp lý, bảo đảm mức độ
bảo hộ tương đối đồng đều giữa các ngành, qua đó góp phần thúc đẩy các doanh
nghiệp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Sản xuất, trong đó có sản xuất hàng
xuất khẩu, cũng sẽ được lợi bởi tiếp cận được các yếu tố đầu vào với chi phí rẻ.

Riêng đối với nông nghiệp, áp lực cạnh tranh là lớn do sản xuất nông
nghiệp của ta vẫn là nền sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất và chất lượng thấp
trong khi bình quân đất nông nghiệp theo đầu người quá ít, giá trị sản xuất nông
nghiệp trên 1 héc-ta canh tác trung bình ở mức 30 triệu đồng/ha. Để xử lý tình
hình này, phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó có cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp và nông thôn, từng bước chuyển mạnh phần lớn lao động sang làm
công nghiệp và dịch vụ, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động đi đôi với việc
tăng cường đầu tư và hỗ trợ cho nông nghiệp và nông dân bằng những biện pháp phù
hợp với quy định của WTO (như đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thuỷ lợi, giao
thông nông thôn, hỗ trợ nông dân đầu tư các cơ sở bảo quản, phơi sấy; đầu tư cho
các loại giống có năng suất cao, chất lượng tốt để cung cấp cho nông dân với giá
ưu đãi, phát triển hệ thống khuyến nông; giảm bớt sự đóng góp của nông dân đi
đôi với việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa cho nông dân, v.v…). Trong báo
cáo của Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã đề cập
đến chủ trương và các giải pháp này; tới đây sẽ phải xây dựng thành cơ chế và
chính sách cụ thể. 

Tóm lại, khi hàng rào bảo hộ bị thu hẹp, sản xuất trong nước sẽ
phải đối diện với mức độ cạnh tranh lớn hơn từ bên ngoài. Không loại trừ khả
năng sẽ có biến động ở một số ngành, nhất là những ngành mà tính linh hoạt trong
chuyển đổi không cao. Dù đây chủ yếu sẽ là biến động cục bộ nhưng vẫn đòi hỏi ta
phải khẩn trương hoàn thiện các công cụ về tự vệ được WTO cho phép, hoàn thiện
cơ chế thông tin và cảnh báo để chủ động hơn trong việc đối phó với các biến
động trên thị trường thế giới và trong nước, đặc biệt là đối với các mặt hàng
quan trọng và nhạy cảm với nền kinh tế như nông sản, sắt thép…

Nhiều ý kiến cho rằng phải nhanh chóng xây dựng các hàng rào kỹ thuật để bảo hộ
hợp lý cho sản xuất trong nước. Việc xây dựng các hàng rào như vậy cho hàng nhập
khẩu cần được tính toán kỹ vì tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng cho hàng nhập khẩu thế
nào thì cũng phải áp dụng cho hàng sản xuất trong nước như thế (nguyên tắc đối
xử quốc gia). Với trình độ phát triển như hiện nay, ta sẽ rất khó đưa ra các
tiêu chuẩn cao cho hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, Chính phủ sẽ nghiên cứu
vấn đề này một cách thấu đáo và sẽ nỗ lực tìm kiếm các công cụ bảo hộ thích hợp,
được WTO thừa nhận, để hỗ trợ cho các ngành sản xuất còn non trẻ của ta.

3.2- Tác động của
giảm thuế nhập khẩu đối với thu ngân sách:

Việc giảm thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến giảm thu ngân sách từ thuế nhập khẩu nhưng
sẽ không có đột biến lớn bởi mấy lý do. Một là, tổng thu từ thuế nhập
khẩu hiện nay chỉ chiếm khoảng 9% tổng thu ngân sách (khoảng 25 ngàn tỷ trên 280
ngàn tỷ). Hai là, số lượng các mặt hàng giảm thuế chỉ chiếm 20% tổng kim
ngạch nhập khẩu hàng năm. Việc giảm thuế lại được thực hiện theo lộ trình bình
quân là 5 năm nên theo ước tính sơ bộ, thu từ thuế nhập khẩu sẽ chỉ giảm khoảng
trên dưới 2 ngàn tỷ/năm, tức là chưa đầy 1% tổng thu ngân sách. Ba là,
việc gia nhập WTO với những cơ hội có được, sản xuất, kinh doanh sẽ phát triển,
xuất nhập khẩu cũng sẽ tăng lên, những nguồn thu mới sẽ được tạo ra và do đó quy
mô của ngân sách sẽ tăng theo sự tăng trưởng kinh tế với mức tăng có thể bù lại,
thậm chí vượt mức giảm thu.

Tóm
lại, việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết gia nhập WTO (cũng như việc
tham gia các khu vưc mậu dịch tự do) sẽ ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách nhà
nước nhưng có lý do để tin rằng tác động tổng thể đến thu ngân sách sẽ
diễn biến theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, sẽ có sự biến động về nguồn thu
và cơ cấu thu ngân sách. Số thu từ khu vực kinh tế trong nước, nhất là các doanh
nghiệp nhà nuớc có thể sẽ giảm tương đối so với số thu từ các đối tượng khác. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, những thay đổi của thị trường và việc cải cách hệ
thống chính sách thuế trong điều kiện hội nhập cũng sẽ làm thay đổi cơ cấu nguồn
thu (giữa các địa phương, các khu vực kinh tế, giữa các lĩnh vực hoạt động khác
nhau và giữa các sắc thuế khác nhau, v.v…).


3.3- Tác động của việc mở cửa thị trường dịch vụ:

Cam kết về dịch vụ của
ta về cơ bản là tương đương với BTA và phù hợp với hiện trạng trong nước nên
sẽ không gây ra tác động lớn
. Những ngành phải chịu sức ép nhiều nhất có lẽ
là kinh doanh chứng khoán, ngân hàng, phân phối và hỗ trợ vận tải biển. Tuy
nhiên, như đã phân tích khi giải trình cam kết tại các ngành này, chúng ta có
một thời gian chuyển đổi để chuẩn bị và cũng có một số công cụ để kiểm soát. Nếu
có sự chuẩn bị tốt và vận dụng linh hoạt các công cụ mà ta bảo lưu được trong
Biểu cam kết dịch vụ, tác động của việc mở cửa thị trường là có thể kiểm soát
được. 

Chính phủ cũng nhận
thức được rằng, việc bảo lưu được một số hạn chế về mở cửa thị trường trong các
ngành như bán lẻ và ngân hàng không có nghĩa là sẽ cứng nhắc lạm dụng các hạn
chế đó bởi tương tự như khi giảm thuế nhập khẩu, nhiều ngành sản xuất trong nước
sẽ được lợi vì có thể tiếp cận nguyên vật liệu đầu vào với chi phí rẻ, việc mở
cửa thị trường dịch vụ cũng mang lại lợi ích tương tự, thậm chí lớn hơn, nhất là
khi dịch vụ đó là dịch vụ cơ bản, có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế (như ngân
hàng, bảo hiểm, viễn thông, giao thông vận tải…). Cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ sẽ làm chi phí sản xuất và chi phí giao dịch nói chung giảm, giúp các
ngành sản xuất trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh. Theo hướng đó, Chính phủ
chủ trương nhìn nhận một cách cân đối về thách thức và tác động của việc mở cửa
thị trường trong cả lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ. Thách thức của doanh nghiệp
này, ngành này có thể là cơ hội của doanh nghiệp khác, ngành khác và ngược lại.
Theo hướng đó, sẽ không lạm dụng hạn chế bảo lưu được trong một số ngành để
tránh tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới và nâng cao sức cạnh tranh trong các ngành
đó.  

4. Về xuất nhập
khẩu hàng hóa:

Thị trường xuất khẩu
được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng nhưng dự kiến sẽ không có đột phá lớn
trong ngắn hạn, vì những lý do sau đây:

Một là,
khác với các cuộc đàm phán song phương khác, đàm phán gia nhập WTO không dẫn đến
việc các thành viên WTO giảm thuế riêng cho ta, ta chỉ được hưởng mức thuế mà
các thành viên này đã hoặc sẽ cắt giảm theo lộ trình của họ. 

Hai là,
ta sẽ được tiếp cận thị trường của 149 thành viên WTO khác trên cơ sở đối xử tối
huệ quốc (MFN) nhưng trên thực tế, trừ dệt may và một số mặt hàng mà các thành
viên WTO áp dụng hạn ngạch và chỉ phân bổ hạn ngạch cho nhau, với tất cả các bạn
hàng quan trọng nhất, ta đều đã được hưởng đối xử MFN nên việc có được MFN trên
cả 149 thị trường sẽ không mang lại đột phá lớn.

Ba là,
dù điều kiện bên ngoài thuận lợi, xuất khẩu vẫn không thể “tăng vọt” nếu không
có đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và khắc phục những hạn chế mang tính cơ
cấu. Gia nhập WTO là gửi ra bên ngoài một tín hiệu rất mạnh về quyết tâm đổi mới
của ta. Đầu tư trong nước và nước ngoài nhiều khả năng sẽ tăng lên và tăng
nhanh, qua đó tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới. Đây là cơ hội
rõ nhất mà việc gia nhập WTO tạo ra và được nhiều tổ chức quốc tế cũng như giới
doanh nghiệp thừa nhận. Tuy nhiên, hiệu quả sẽ đến sau một thời gian chứ chưa
thể thấy rõ ngay trong một, hai năm đầu sau khi ta vào WTO.

Lợi ích có thể thấy là
hạn ngạch dệt may sẽ được xóa bỏ. Tuy nhiên, do dệt may là vấn đề nhạy cảm, nên
không loại trừ khả năng một số nước nhập khẩu sẽ tìm cách áp dụng các biện pháp
tự vệ thương mại. Ngành dệt may của ta có thể sẽ phải đối diện với sự cạnh tranh
rất gay gắt trên một số thị trường ngoài nước. Theo hướng đó, dự kiến kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may sẽ tăng nhưng không tăng đột biến và sẽ chựng lại, thậm
chí giảm vào những năm sau năm 2008, nếu như ta không có biện pháp để nâng cao
hơn nữa sức cạnh tranh.       

Gia nhập WTO cũng
không có nghĩa là các thành viên khác WTO sẽ giảm “rào cản kỹ thuật” cho hàng
hóa xuất khẩu của ta. Những hàng rào được WTO cho phép, hay chí ít là không cấm,
sẽ vẫn tồn tại. Các vụ kiện chống bán phá giá có thể sẽ vẫn xảy ra. Tuy nhiên,
sau khi trở thành thành viên của WTO, ta sẽ có khả năng sử dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO trong trường hợp các biện pháp thương mại mà các nước
nhập khẩu áp dụng (đối với hàng hóa xuất khẩu của ta) là vi phạm quy định của
WTO.

Kim ngạch nhập khẩu sẽ
tăng do đầu tư nước ngoài tăng, chủ thể được quyền kinh doanh nhập khẩu ngày
càng trở nên đa dạng hơn. Tuy nhiên, sẽ không có đột biến và cũng không thể có
đột biến bởi việc giảm thuế của ta, như đã trình bày, là theo lộ trình và không
phải tất cả các mặt hàng đều phải giảm thuế. Với chế độ tỷ giá được điều hành
linh hoạt và chế độ quản lý vay thương mại được thực hiện chặt chẽ như hiện nay,
cũng sẽ rất khó “chi tiêu” cho nhập khẩu nhiều hơn “thu nhập” từ xuất khẩu.

Tóm lại, xuất nhập
khẩu sẽ chịu tác động của việc gia nhập WTO nhưng những tác động đó sẽ là tác
động tích cực và nhiều khả năng sẽ bộc lộ trong trung hạn (sau từ 3 đến 5 năm).

5. Về tác động xã
hội:

Về
tác động xã hội, trong đó có việc làm, dự kiến sẽ không có biến động lớn. Tuy
nhiên, ngân sách cũng cần có các khoản dự phòng cho vấn đề này để chủ động xử lý
kịp thời các biến động tiêu cực, nếu có, trong quá trình thực hiện các cam kết
gia nhập WTO nói chung và cam kết về giảm thuế nói riêng. Như đã trình bày, các
biến động này, nếu có, sẽ chủ yếu mang tính ngắn hạn bởi với việc mở cửa thị
trường, thúc đẩy nâng cao sức cạnh tranh và thu hút đầu tư nước ngoài, ta sẽ có
cơ hội tạo ra nhiều công ăn, việc làm mới.

Gia
nhập WTO là tiến thêm một bước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Yếu tố thị trường sẽ tác động đến lối sống và nhiều
hành xử xã hội khác nhưng tác động đó lớn đến đâu và theo hướng nào còn tùy vào
nhiều yếu tố khác, trong đó có công tác giáo dục công dân và điều hành vĩ mô của
ta.    

Phần thứ tư

PHÊ CHUẨN NGHỊ ĐỊNH THƯ GIA NHẬP

HIỆP ĐỊNH WTO VÀ CÁC KIẾN NGHỊ CÓ LIÊN QUAN

I. SỰ CẦN THIẾT PHÊ CHUẨN NGHỊ ĐỊNH THƯ GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH WTO

Theo Luật Ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 (Luật Điều ước 2005), Nghị định thư
gia nhập Hiệp định WTO (xin gọi tắt là Nghị định thư gia nhập WTO) là điều ước
nhân danh Nhà nước và do đó “phải được phê chuẩn” theo khoản 2 Điều 31. Ngoài
ra, theo quy định của WTO, Nghị định thư gia nhập của Việt Nam cũng phải được
phê chuẩn (bản Nghị định thư mà  Việt Nam ký ngày 07 tháng 11 năm 2006 đã ghi rõ
là “để phê chuẩn”).

Chính phủ đã kiến nghị
Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO vì những lý do
sau đây:

Một là,
xét về ý
nghĩa, tầm quan trọng và phạm vi điều chỉnh của Nghị định thư gia nhập WTO thì
Quốc hội là cơ quan duy nhất có đủ thẩm quyền quyết định chấp nhận hiệu lực pháp
lý của điều ước quốc tế này.

Hai là,
kết quả rà soát pháp luật của Chính phủ cho thấy có những quy định của Nghị định
thư gia nhập WTO là chưa phù hợp hoặc chưa được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Ba là,
do tính phức tạp và tổng hợp của Nghị định thư gia nhập WTO (có thể coi như là
tập hợp của nhiều điều ước quốc tế thông thường) nên Nghị định thư gia nhập WTO
cần được xem xét, phân tích và đánh giá ở mức độ chi tiết và thận trọng.

Bốn là,
trong Báo cáo gia nhập của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO có đề cập
tới việc Quốc hội Việt Nam phê chuẩn quyết định gia nhập WTO (đoạn 119 của Báo
cáo gia nhập).

Chủ tịch nước đã chấp
thuận kiến nghị của Chính phủ và quyết định trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn
Nghị định gia nhập WTO.

II. VỀ VIỆC BẢO LƯU VÀ THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT
CỦA VIỆT NAM TRONG WTO

Luật Điều ước 2005 quy
định về bảo lưu và cách thức thực hiện các điều ước quốc tế, được áp dụng cả cho
cam kết gia nhập WTO. Kinh nghiệm của các nước gia nhập WTO trong thời gian gần
đây cho thấy các nước này không đưa ra bảo lưu thực hiện nội dung của Nghị định
thư gia nhập WTO. Các nước có thể có những tuyên bố nào đó nhưng không làm ảnh
hưởng tới những nội dung cam kết của mình trong WTO. Trong bối cảnh đó, Việt Nam
không nên bảo lưu việc thực hiện bất kỳ cam kết nào của mình được nêu trong Nghị
định thư gia nhập, nhưng khi phê chuẩn Quốc hội hoàn toàn có thể đưa ra những
tuyên bố thể hiện quan điểm của Quốc hội Việt Nam đối với việc gia nhập WTO, hay
yêu cầu các cơ quan, tổ chức liên quan trong nước thực hiện những công việc cụ
thể. Cách làm này đã được Quốc hội sử dụng khi phê chuẩn Hiệp định Thương mại
Việt Nam – Hoa Kỳ. 

Theo quy định tại Điều
6.3 Luật Điều ước 2005 và cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, khi phê chuẩn
Nghị định thư gia nhập, Quốc hội quyết định các nội dung nào của Nghị định thư
gia nhập có thể được áp dụng trực tiếp (khi “đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện”)
và các nội dung nào cần kèm theo điều chỉnh pháp luật (chuyển hoá vào pháp luật
trong nước). Tại thời điểm kết thúc đàm phán gia nhập, Chính phủ đã chỉ đạo các
cơ quan chức năng khẩn trương rà soát để đánh giá mức độ tương thích của pháp
luật hiện hành với các cam kết WTO. Kết quả rà soát pháp luật cho thấy về cơ bản
pháp luật hiện hành của Việt Nam đã phù hợp với các cam kết WTO. Tuy nhiên, để
thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả các cam kết, cũng có một số văn bản thuộc
thẩm quyền của Quốc hội cần có sự điều chỉnh, mặc dù không nhiều.

Do nội dung cụ thể của
các cam kết của ta khi gia nhập Hiệp định WTO, Chính phủ xin đề nghị Quốc hội
quyết định cả hai phương thức: áp dụng trực tiếp các quy định, cam kết
WTO và điều chỉnh pháp luật để chuyển hoá một số cam kết. Sở dĩ phải áp dụng cả
hai phương thức vì sẽ không khả thi trong điều kiện lập pháp hiện nay của Việt
Nam nếu quyết định chuyển hoá toàn bộ các quy định của Nghị định thư gia nhập.
Đồng thời, cũng không thể quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ các quy định của
Nghị định thư gia nhập vì một số nội dung cam kết chưa đủ rõ hay chi tiết đến
mức chưa thể thực hiện được ngay mà cần phải từng bước sửa đổi, bổ sung các luật
liên quan.

III. ĐỀ XUẤT VỀ VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐỂ THỰC THI CAM KẾT WTO

Chính phủ kiến nghị
Quốc hội ban hành Nghị qyuyết phê chuẩn Nghị định thư gia nhập. Đi kèm Nghị
quyết này là hai Phụ lục. Phụ lục 1 đề cập đến các nội dung áp dụng trực tiếp
cam kết của Việt Nam liên quan đến 6 văn bản luật. Phụ lục 2 nêu Danh mục các
văn bản quy phạm pháp luật cần được sửa đổi, bổ sung theo lộ trình mà ta đã đàm
phán được, liên quan đến 6 văn bản luật và 1 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội. Đồng thời, tại Nghị quyết này, Quốc hội quyết định áp dụng trực tiếp
các cam kết khác của Việt Nam với WTO được quy định đã đủ rõ, chi tiết trong
Nghị định thư, các Phụ lục và Báo cáo gia nhập đính kèm Nghị định thư.

Để bảo đảm việc thực
hiện các cam kết WTO trong trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác, Nghị
quyết này cũng cần khẳng định lại nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế.

Việc sửa đổi, bổ sung
các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật theo các cam kết gia nhập WTO của Việt
Nam sẽ được thực hiện theo lộ trình sau khi Nghị quyết của Quốc hội được công
bố.

Kèm theo Tờ trình này
là: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định
thành lập WTO; dự thảo các phụ lục của Nghị quyết nói trên, gồm Phụ lục 1: nội
dung áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam); Phụ lục 2: các văn bản quy
phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung theo lộ trình cam kết.

Chính phủ trân trọng
đề nghị Quốc hội xem xét, phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam./.

 

 

Nơi nhận:

– Như trên;

– Chủ tịch nước;

– Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;

– Hội đồng Dân tộc,

  các Ủy ban của Quốc hội;

– Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính
phủ;

– Văn phòng Quốc hội;

– Các Bộ, cơ quan ngang Bộ,

  cơ quan thuộc Chính phủ;

– VPCP: BTCN, các Phó Chủ nhiệm,

  các Vụ: KTTH, V.III, XDPL, TH;

– Lưu: Văn thư, QHQT (2b). Hoà
(1.000b)

TM. CHÍNH PHỦ

THỦ TƯỚNG

 

(Đã ký)

 

Nguyễn Tấn Dũng